Chuyên mục: NHI ĐỒNG

BÀI 5. DÂN Y-SƠ-RA-ÊN THỜ HÌNH TƯỢNG (GV)

BÀI 5. DÂN Y-SƠ-RA-ÊN THỜ HÌNH TƯỢNG (GV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ I. 2016 on 12 Tháng Sáu, 2017

BÀI 5. DÂN Y-SƠ-RA-ÊN THỜ HÌNH TƯỢNG

 

I. KINH THÁNH: Xuất Ê-díp-tô Ký 32:1-35.

II. CÂU GỐC: “Ngươi chớ làm tượng chạm cho mình, cũng chớ làm tượng nào giống những vật trên trời cao kia, hoặc nơi đất thấp nầy, hoặc trong nước dưới đất. Ngươi chớ quì lạy trước các hình tượng đó, và cũng đừng hầu việc chúng nó” (Xuất Ê-díp-tô Ký 20:4-5).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Dân Y-sơ-ra-ên không tuân giữ Điều Răn của Đức Chúa Trời, thờ lạy hình tượng khiến Đức Chúa Trời trừng phạt họ.

– Cảm nhận: Chỉ có Đức Chúa Trời là chân thần duy nhất, Đấng xứng đáng cho chúng ta thờ phượng.

– Hành động: Ngoài Đức Chúa Trời em không tôn thờ bất cứ thần tượng nào khác.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Nắn tượng.

  1. Chuẩn bị: Một số đất sét (nếu mua được đất sét màu dành cho thiết bị trường học càng tốt, nếu không phải chọn loại đất sét mềm, dẻo).
  2. Thực hiện: Cho các em dùng đất sét nắn những con vật mình thích như: Trâu, bò, voi, chuột… Cho các em xem tranh ảnh các loài động vật hoặc thú nhồi bông… Sau khi hoàn tất, hỏi các em có xem những con vật do con người tạo ra là Đức Chúa Trời không, và có thờ phượng nó không?

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị thị trợ: Photo lớn trang tài liệu 7 và 8, rồi tô màu cho đẹp).

    1. Vào đề.

Các em ơi, Đức Chúa Trời rất kỳ diệu, Ngài cho chúng ta có đôi tay làm được nhiều việc. Nhưng câu chuyện Kinh Thánh hôm nay cho biết có những người dùng bàn tay của mình làm nên một vật khiến Đức Chúa Trời nổi giận. Họ đã làm điều gì? Bài học nầy sẽ giúp các em biết rõ hơn.

    2. Bài học.

Cách đây rất lâu, khi dân Y-sơ-ra-ên sống tại Ai-cập thì bị vua xứ đó hà hiếp, bắt họ làm nô lệ cực nhọc. Đức Chúa Trời biết rõ tình trạng khốn khổ của họ, Ngài bảo Môi-se hướng dẫn dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập để đến vùng đất mà Đức Chúa Trời hứa ban cho họ là xứ Ca-na-an. Trên đường đi, Đức Chúa Trời luôn ở cùng, chăm sóc, bảo vệ, dẫn dắt họ vượt qua mọi khó khăn.

Khi họ đến núi Si-nai, Đức Chúa Trời bảo Môi-se phải lên núi để nhận những lời phán dặn của Ngài, rồi về truyền lại cho dân sự. Đức Chúa Trời muốn dân Y-sơ-ra-ên tuân giữ những Điều Răn và luật lệ của Ngài, vì họ là dân sự Ngài. Dân Y-sơ-ra-ên lắng nghe những điều Môi-se nói và bằng lòng tuân giữ tất cả luật lệ của Đức Chúa Trời.

Sau đó Môi-se và Giô-suê lại lên núi, tiếp tục nghe những lời dạy bảo và mạng lệnh của Đức Chúa Trời cho dân Y-sơ-ra-ên. Đức Chúa Trời viết Mười Điều Răn lên hai bảng đá, giao cho Môi-se đem về cho dân sự. Nhưng có một sự việc hết sức nghiêm trọng đã xảy ra trong thời gian Môi-se lên núi…

Dân Y-sơ-ra-ên đóng trại dưới chân núi Si-nai, thấy Môi-se và Giô-suê đi lên núi nhiều ngày vẫn chưa trở lại. Họ nói với A-rôn là người trợ giúp của Môi-se: “Chúng tôi không biết việc gì đã xảy ra với Môi-se. Ông hãy làm nên một thần để dẫn dắt chúng tôi thay cho Môi-se”. A-rôn bảo họ đem những bông tai, vòng vàng đến, nấu chảy tất cả rồi làm một con bò bằng vàng (Cho các em xem hình dân Y-sơ-ra-ên làm con bò vàng).

Các em có cho rằng con bò bằng vàng nầy có thể dẫn dắt dân Y-sơ-ra-ên đi vào xứ Ca-na-an không? (Cho các em trả lời). Chỉ mới trước đây, dân Y-sơ-ra-ên hứa sẽ tuân theo Điều Răn của Đức Chúa Trời, và trong Mười Điều Răn đó có dạy rằng: “Ngươi không được làm tượng chạm cho mình, cũng không làm tượng nào giống những vật trên trời, hoặc dưới đất nầy. Ngươi chớ quì lạy các tượng đó và cũng đừng hầu việc chúng nó”.

Đức Chúa Trời biết những gì đang xảy ra, Ngài muốn hủy diệt dân chúng bội nghịch nầy. Đức Chúa Trời phán: “Hỡi Môi-se, hãy xuống núi vì dân sự không tuân theo luật pháp của ta”. Môi-se cầu xin Đức Chúa Trời tha thứ cho dân Y-sơ-ra-ên. Đức Chúa Trời đổi ý không hủy diệt dân sự, nhưng Ngài sẽ trừng phạt họ.

Môi-se cầm bảng đá có ghi Mười Điều Răn cùng đi xuống núi với Giô-suê. Vừa thấy dân Y-sơ-ra-ên thờ lạy con bò vàng, nhảy múa vui mừng, Môi-se tức giận liệng bể tấm bảng đá mà Đức Chúa Trời ban. Ông sai người đem đốt con bò đó trong lửa, nghiền thành bụi, rải trên mặt nước và cho dân sự uống, để họ biết rằng con bò bằng vàng đó chỉ là vật vô tri, hoàn toàn không có quyền năng, nó không phải là Đức Chúa Trời. Còn những người Y-sơ-ra-ên tham gia đúc tượng và thờ lạy cũng phải chịu trừng phạt.

Sau đó Đức Chúa Trời lại ban cho dân Y-sơ-ra-ên hai tấm bảng đá khác có ghi Mười Điều Răn thay cho hai tấm bị bể. Một lần nữa Ngài dặn họ không được thờ lạy thần tượng, bởi chỉ có Ngài là Đức Chúa Trời duy nhất.

Các em ơi, Đức Chúa Trời không muốn con người do Ngài dựng nên lại đi thờ phượng thần giả và hình tượng, đó là những vật do con người tạo ra. Đức Chúa Trời muốn chúng ta chỉ thờ phượng một mình Ngài mà thôi. Em có bằng lòng chỉ thờ phượng Đức Chúa Trời không? (Cho các em trả lời).

    3. Ứng dụng.

Hướng dẫn các em thảo luận bằng cách hỏi: Lúc Môi-se lên núi để nghe Đức Chúa Trời phán dạy, dân Y-sơ-ra-ên đã làm gì? Tại sao họ làm con bò vàng? Vì sao Đức Chúa Trời nổi giận? Hậu quả thế nào? Môi-se có phản ứng gì khi thấy dân Y-sơ-ra-ên thờ lạy hình tượng?

Giáo viên tổng kết: Hết thảy chúng ta đều do Đức Chúa Trời dựng nên, chúng ta phải tuân giữ Điều Răn của Ngài, không được thờ phượng những hình tượng do người ta dựng nên, cũng không tôn thờ một con người nào ngoài Đức Chúa Trời.

BÀI 4. CA-IN GIẾT A-BÊN (HV)

BÀI 4. CA-IN GIẾT A-BÊN (HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ I. 2016 on 1 Tháng Sáu, 2017

BÀI 4. CA-IN GIẾT A-BÊN

 

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 4:1-16.

II. CÂU GỐC: “Hãy bước đi cách hẳn hoi như giữa ban ngày… Chớ rầy rà và ghen ghét” (Rô-ma 13:13).

III. BÀI TẬP.

A. VIỆC SAI PHẠM CỦA CA-IN.

Hãy chọn ra việc làm sai phạm của Ca-in theo hình vẽ, rồi điền vào khoảng trống bên cạnh mỗi hình (Hình để cắt dán trong trang cắt dán).

  1. Ca-in dâng …………… cho Đức Chúa Trời.
  2. Ca-in ………………… A-bên.
  3. Đức Chúa Trời không nhận của lễ của Ca-in, nên Ca-in ………………..
  4. Ca-in làm nghề nông……………….
  5. Ca-in không …………………….nghe lời cảnh cáo của Đức Chúa Trời, không ngăn chặn tội lỗi.
  6. Ca-in ………………… A-bên ngoài đồng.

B. SUY NGHĨ XEM.

Em thử suy nghĩ xem có khi nào em tức giận giống như Ca-in không? Viết hoặc vẽ ra tình huống đó vào khoảng trống bên dưới, xưng tội và cầu xin Đức Chúa Trời giúp đỡ.

BÀI 4. CA-IN GIẾT A-BÊN (GV)

BÀI 4. CA-IN GIẾT A-BÊN (GV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ I. 2016 on 1 Tháng Sáu, 2017

BÀI 4. CA-IN GIẾT A-BÊN

 

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 4:1-16.

II. CÂU GỐC: “Hãy bước đi cách hẳn hoi như giữa ban ngày… Chớ rầy rà và ghen ghét” (Rô-ma 13:13).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Vì ganh ghét mà Ca-in  phạm tội giết A-bên  và phải chịu hình phạt.

– Cảm nhận: Chất chứa tội lỗi trong lòng sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Đừng để tội lỗi ở trong lòng chúng ta, phải ngăn chặn và đối phó để không phạm tội.

– Hành động: Cầu nguyện xin Chúa giúp chúng ta trong suy nghĩ, lời nói, hành động đều đẹp lòng Đức Chúa Trời.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Diệt tận gốc.

  1. Chuẩn bị: Hình vẽ trong trang tài liệu số 4, sách giáo viên.
  2. Thực hiện: Dán hình vẽ trong trang tài liệu số 4 sách giáo viên: Áo rách, tờ giấy rách, con gián, đốm lửa nhỏ lên bảng. Cho các em suy nghĩ phương cách xử lý, rồi viết lên giấy. Sau đó hướng dẫn các em chia sẻ đáp án, rồi thảo luận: Nếu không lập tức giải quyết ngay những vấn đề đó thì hậu quả sẽ như thế nào? Giáo viên nêu lên một số việc nếu không giải quyết ngay tình trạng sẽ ngày càng xấu hơn. Có thể lấy “áo rách” làm mẫu.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Photo lớn hình vẽ trang tài liệu số 5 và 6, rồi tô màu cho đẹp).

    1. Vào đề.

Có khi nào các em phạm từ lỗi lầm nầy đến lỗi lầm khác càng lúc càng nghiêm trọng hơn không? (Giáo viên có thể gợi ý cho các em thảo luận). Nếu biết nhận lỗi, chắc chắn sẽ không có những sai lầm đáng tiếc xảy ra phải không các em? Bài học nầy sẽ giúp các em nhận biết rõ hơn về vấn đề nầy.

    2. Bài học.

Các em đã biết vì không vâng lời Đức Chúa Trời nên A-đam và Ê-va phải chịu trừng phạt, rời khỏi vườn Ê-đen. Sau đó họ sinh được hai con trai. Con trai lớn tên là Ca-in làm nghề nông, con trai thứ hai tên là A-bên, làm nghề chăn chiên.

Một hôm, Ca-in và A-bên dâng của lễ cho Đức Chúa Trời. Ca-in  lấy thổ sản mình thu hoạch được làm của lễ, còn A-bên chọn trong bầy mình một con chiên đầu lòng để dâng cho Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đẹp lòng A-bên và của lễ của ông, nhưng Ngài từ chối của lễ của Ca-in. Vì thế Ca-in nổi cơn tức giận, gằm gằm nét mặt trông rất khó coi. (Cho các em xem hình Ca-in nổi giận).

Vì sao Ca-in nổi giận? Ca-in nổi giận với ai? (Cho các em trả lời). Ca-in nổi giận vì Đức Chúa Trời không nhận của lễ của ông. Các em có biết tại sao Đức Chúa Trời lại đẹp lòng của lễ của A-bên không? A-bên đã chọn lựa phần tốt nhất và dâng với cả tấm lòng cho Đức Chúa Trời. Còn Ca-in dâng của lễ cho xong chuyện, chứ không phải dâng phần tốt nhất cho Đức Chúa Trời với cả tấm lòng.

Đức Chúa Trời biết rõ những suy nghĩ của Ca-in. Ngài nhắc nhở ông phải ngăn chặn tội lỗi, đừng tiếp tục sai phạm, nhưng Ca-in  không quan tâm đến lời cảnh cáo đó. Sự tức giận, ganh ghét em đã chiếm lấy tâm trí của Ca-in.

Một ngày kia, Ca-in nói với A-bên: “Chúng ta hãy đi dạo ngoài đồng, anh có việc cần bàn với em”. Khi đi ra ngoài đồng vắng vẻ, Ca-in xông đến đánh A-bên đến chết! A-bên thật đáng thương phải không các em?

Đức Chúa Trời hỏi Ca-in: “A-bên ở đâu?” Nhưng Ca-in nói dối: “Con không biết! Con là người giữ em con sao? Tại sao lại hỏi con?” Đức Chúa Trời phán với Ca-in: “Tiếng kêu khóc và máu của em ngươi chan hòa dưới đất đã thấu đến tai ta. Đây là hình phạt mà ngươi phải gánh chịu do hậu quả của việc mình làm. Đất sẽ không còn sanh hoa lợi cho ngươi nữa. Ngươi sẽ trở nên một kẻ không nhà, đi lang thang suốt đời”. Ca-in van xin: “Hình phạt ấy nặng quá sức chịu đựng của con. Con sợ nếu có ai gặp con họ sẽ giết con mất!” Đức Chúa Trời không rút lại hình phạt đối với Ca-in, nhưng hứa sẽ bảo vệ Ca-in khỏi bị người khác giết hại.

Các em ơi, nếu thấy lễ vật của mình không được chấp nhận, Ca-in suy nghĩ, cầu hỏi Đức Chúa Trời, rồi quyết tâm làm đẹp lòng Ngài, thì mọi việc sẽ tốt đẹp biết bao. Nếu Ca-in nghe lời cảnh cáo của Đức Chúa Trời, không để sự ganh ghét trong lòng, chắc chắn sẽ không xảy ra việc gây hậu quả nghiêm trọng như vậy phải không các em?

Các em thân mến, dù chỉ với một ý nghĩ tội lỗi rất nhỏ, nhưng nếu không ngăn chặn, nó sẽ dần dần phát triển xui khiến chúng ta phạm những tội rất khủng khiếp.

    3. Ứng dụng.

Cho các em mở bài 4 sách học viên ra và cùng thảo luận bằng cách hỏi những câu hỏi sau: Tại sao Ca-in nổi giận? Ai đã cảnh cáo Ca-in? Ca-in có nghe lời cảnh cáo của Đức Chúa Trời không? Ca-in  phạm tội gì? Đức Chúa Trời trừng phạt Ca-in như thế nào? Hướng dẫn các em viết hoặc vẽ vào bài tập “Suy nghĩ của em”, rồi lần lượt chia sẻ. Sau đó giáo viên nhắc các em: Ngoài Kinh Thánh, Đức Chúa Trời cũng dùng ba mẹ, thầy cô hoặc người khác để nhắc nhở các em đừng phạm lỗi. Chúng ta không nên như Ca-in bỏ qua lời nhắc nhở của Đức Chúa Trời. (Giáo viên có thể chia sẻ một kinh nghiệm của bản thân để khích lệ các em chia sẻ). Rồi hướng dẫn các em cầu nguyện với Đức Chúa Trời.

BÀI 3. LOÀI NGƯỜI PHẠM TỘI (HV)

BÀI 3. LOÀI NGƯỜI PHẠM TỘI (HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ I. 2016 on 1 Tháng Sáu, 2017

BÀI 3. LOÀI NGƯỜI PHẠM TỘI

 

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 3:1-21, 23.

II. CÂU GỐC: “Xin dạy tôi làm theo ý muốn Chúa, vì Chúa là Đức Chúa Trời tôi…” (Thi Thiên 143:10).

III. BÀI TẬP.

A. CON NGƯỜI PHẠM TỘI.

Dưới đây là những hình vẽ nói về câu chuyện tội lỗi đi vào thế gian. Hãy viết thứ tự lên hình vẽ.

A-đam và Ê-va lấy lá đóng khố che thân.

Con rắn cám dỗ Ê-va ăn trái cây phân biệt điều thiện và điều ác.

Đức Chúa Trời tìm A-đam trong vườn Ê-đen.

A-đam và Ê-va rời khỏi vườn Ê-đen.

A-đam và Ê-va phải chịu sự trừng phạt của Đức Chúa Trời.

A-đam và Ê-va ăn trái cây biết điều thiện và điều ác.

B. CON NGƯỜI CẦN ƠN CỨU RỖI CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI.

Mối liên hệ giữa con người và Đức Chúa Trời bị tội lỗi làm cho phân cách, có cách nào cứu vãn không? Em hãy tô màu đỏ vào ô vuông có trái tim sẽ thấy gợi ý. Gợi ý nầy nói lên điều gì? (Em hãy chia sẻ).

BÀI 3. LOÀI NGƯỜI PHẠM TỘI (GV)

BÀI 3. LOÀI NGƯỜI PHẠM TỘI (GV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ I. 2016 on 1 Tháng Sáu, 2017

BÀI 3. LOÀI NGƯỜI PHẠM TỘI

 

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 3:1-21, 23.

II. CÂU GỐC: “Xin dạy tôi làm theo ý muốn Chúa, vì Chúa là Đức Chúa Trời tôi” (Thi Thiên 143:10).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Vì con người không vâng lời nên tội lỗi đã vào thế gian, phá hoại sự tương thông tốt đẹp giữa Đức Chúa Trời và loài người.

– Cảm nhận: Loài người cần tiếp nhận Chúa Giê-xu để được cứu khỏi tội, được phục hòa với Đức Chúa Trời.

– Hành động: Tiếp nhận Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa và sống theo ý muốn của Ngài.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Làm nổ bong bóng.

  1. Chuẩn bị: Bong bóng, ghế đẩu.
  2. Thực hiện: Chia các em thành hai tổ, mỗi tổ một số bong bóng tương ứng với số lượng các em. Cho các em trong cả hai tổ xếp hàng dọc, lần lượt ngồi lên bong bóng đặt trên ghế đẩu cho nổ. Tổ nào làm nổ hết bong bóng trước là thắng cuộc.

Sau khi thi đua, hỏi các em làm thế nào để cho bong bóng trở lại hình dạng ban đầu. Giúp các em nhận biết có một số vật hoặc sự việc bị phá hỏng, sẽ không có cách gì phục hồi được.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

Chuẩn bị thị trợ: (1) Photo lớn trang tài liệu 3, rồi tô màu cho đẹp. (2) Chọn ba em trong lớp đóng vai A-đam, Ê-va và con rắn. Hướng dẫn các em tập đóng kịch câm và hoá trang trước. Sau đó trong khi giáo viên kể chuyện, các em diễn theo nội dung câu chuyện).

    1. Vào đề.

Các em có nhớ ai dựng nên con người không? Người đầu tiên tên là gì? Nam hay nữ? Người thứ hai tên gì? Họ sống ở đâu? (Giáo viên có thể hỏi một số câu hỏi liên quan đến bài trước). Bài học nầy sẽ cho các em biết họ sống ở trong vườn Ê-đen như thế nào nhé!

    2. Bài học.

Vườn Ê-đen rất xinh đẹp, cây trái sum suê, quanh năm xanh tốt. Đức Chúa Trời cho phép A-đam và Ê-va ăn tất cả những trái cây trong vườn, ngoại trừ trái cây biết điều thiện và điều ác là không được đụng đến, nếu không sẽ chết.

Một hôm, con rắn là giống quỉ quyệt nhất trong các loài vật, nói với Ê-va: “Có phải Đức Chúa Trời phán dặn các ngươi không được ăn những trái cây ngon ngọt trong vườn nầy không?” Ê-va trả lời: “Ồ, không! Chúng tôi có thể ăn tất cả trái cây nào mình muốn, chỉ trừ trái của cây biết điều thiện và điều ác là Đức Chúa Trời không cho đụng đến, vì nếu ăn e rằng chúng tôi sẽ chết”. Con rắn dụ dỗ người nữ: “Ngươi sẽ chẳng chết đâu! Đức Chúa Trời biết rằng nếu ngươi ăn trái đó sẽ khôn ngoan và thông sáng giống như Ngài, nên Ngài bảo ngươi đừng ăn”. Ê-va nhìn thấy những trái cây chín mọng treo lủng lẳng trên cành thật là hấp dẫn, bà tưởng tượng ăn vào chắc là ngon lắm. Rồi Ê-va nghĩ rằng, sẽ rất tuyệt vời nếu được trở nên khôn ngoan như Đức Chúa Trời, thế là bà quyết định hái trái cấm xuống ăn và đưa cho A-đam ăn nữa.

Sau khi ăn xong, họ không cảm thấy khôn ngoan mà chỉ thấy xấu hổ vì không mặc quần áo. Họ hái những lá cây to để che thân, rồi núp vào giữa bụi cây trong vườn. Khi Đức Chúa Trời đến tìm, họ sợ hãi không dám rời khỏi chỗ nấp. Vì sao như vậy? (Cho các em trả lời). Bởi vì họ đã phạm tội không vâng lời Đức Chúa Trời. Họ cảm thấy xấu hổ và sợ hãi.

Đức Chúa Trời hỏi A-đam: “Con đã ăn trái cây ta cấm phải không?” A-đam thưa: “Người nữ mà Chúa cho sống với con đưa con trái cây đó, và con đã ăn rồi!” Đức Chúa Trời hỏi người nữ: “Sao con lại làm như vậy?” Ê-va trả lời: “Con rắn dụ dỗ con, nên con đã ăn!” Các em thấy họ có nhận lỗi không? Thật ra, Đức Chúa Trời biết tất cả, Ngài hỏi là để cho họ có cơ hội nhận lỗi, nhưng họ chỉ muốn đổ lỗi cho người khác.

Vì không vâng lời nên con người phải chịu hình phạt của Đức Chúa Trời. Người nữ phải chịu đau đớn khi sinh con, người nam phải làm lụng khó nhọc mới có thức ăn, họ phải rời khỏi khu vườn Ê-đen xinh đẹp. Nhưng Đức Chúa Trời vẫn yêu thương con người, Ngài lấy da thú kết thành áo choàng mặc cho A-đam và Ê-va trước khi đuổi họ ra khỏi vườn.

Từ khi A-đam và Ê-va phạm tội, tội lỗi đã vào thế gian. Sự sáng tạo tốt đẹp của Đức Chúa Trời bị phá hoại. Các em có nhận thấy người ta tàn sát và công kích lẫn nhau không? Chẳng những thế, con người không ngừng phá hoại thiên nhiên, rất nhiều động vật quí hiếm bị diệt chủng, nạn phá rừng bừa bãi ảnh hưởng đến môi trường sống chung quanh. Nhưng điều quan trọng nhất là mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với Đức Chúa Trời bị phá vỡ. Tội lỗi ngăn cách con người với Đức Chúa Trời. Đó là lý do vì sao Đức Chúa Trời nói, nếu con người ăn trái cây cấm sẽ phải chết.

Cũng giống như các em sau khi chơi trò chơi “làm bể bong bóng”, thì không cách gì làm quả bóng trở lại như cũ. Khi đã phạm tội, chẳng có phương cách gì để phục hồi. Nhưng Đức Chúa Trời yêu thương con người, Ngài không muốn một ai phải chết mất trong tội lỗi. Vì vậy, Ngài chuẩn bị cho con người ơn cứu rỗi. Ngài ban Chúa Giê-xu xuống thế gian, chịu chết thay cho loài người trên cây thập tự và Ngài đã sống lại. Chỉ cần tin nhận Chúa Giê-xu, con người được tha tội, trở thành con cái Đức Chúa Trời.

Mỗi chúng ta đều đã từng phạm tội. Tội lỗi khiến chúng ta xa cách Đức Chúa Trời. Muốn khôi phục lại mối quan hệ thân mật với Đức Chúa Trời, chúng ta phải tiếp nhận ơn cứu rỗi. Các em có bằng lòng tiếp nhận Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa không? (Nếu tất cả các em đều đã tiếp nhận Chúa, có thể cho các em một lần nữa khẳng định niềm tin của mình).

    3. Ứng dụng.

Giáo viên hướng dẫn các em thảo luận bằng những câu hỏi sau: Con rắn nói gì với Ê-va? Tại sao Ê-va ăn trái của cây biết điều thiện, điều ác? A-đam có ăn trái cây đó không? Họ làm như vậy có đúng không? Tại sao? Sau khi A-đam, Ê-va phạm tội, thế giới có gì biến đổi? Mối quan hệ giữa con người với Đức Chúa Trời bị phá vỡ, có cách gì cứu vãn không?

Sau khi các em thảo luận xong, cho các em làm bài tập “Chúng ta cần ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời”. Rồi cho các em lần lượt chia sẻ: Thập tự giá tượng trưng cho điều gì?

Cuối cùng cầu nguyện cảm tạ Đức Chúa Trời ban Chúa Giê-xu xuống thế gian để cứu con người ra khỏi tội.

BÀI 2. ĐỨC CHÚA TRỜI DỰNG NÊN CON NGƯỜI (HV)

BÀI 2. ĐỨC CHÚA TRỜI DỰNG NÊN CON NGƯỜI (HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ I. 2016 on 31 Tháng Năm, 2017

BÀI 2. ĐỨC CHÚA TRỜI DỰNG NÊN CON NGƯỜI

 

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 1:26-31; 2:7-23.

II. CÂU GỐC: “Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh” (Sáng Thế Ký 2:7).

III. BÀI TẬP.

A. ĐỨC CHÚA TRỜI CHUẨN BỊ CHO CON NGƯỜI.

Trong những gợi ý phía dưới, hãy tô màu hình vẽ cùng một ngày tạo dựng để giúp em tìm được đáp án. Sự sáng tạo từ ngày thứ nhất đến ngày thứ sáu gợi ý cho đáp án từ câu 1-6.

Đức Chúa Trời dùng ………………… làm nên con người, hà sanh khí vào lỗ mũi thì người trở nên một loài sanh linh. Người đầu tiên tên là …………… Đức Chúa Trời chuẩn bị ……………… làm nơi ở cho A-đam, và công việc cho con người đó là …………… và …………… vườn. Ngài còn chuẩn bị một người …………………… để giúp đỡ A-đam.

* Gợi ý: Bụi đất    trồng    A-đam    phối ngẫu    giữ   Ê-đen.

B.  YÊU QUÍ SỰ SÁNG TẠO CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI.

Hành động nào dưới đây là yêu quí thế giới mà Đức Chúa Trời đã dựng nên? Nếu “phải” đánh dấu v, nếu “không phải” đánh dấu x. Em suy nghĩ xem mình có giống bạn nhỏ trong hình vẽ không?

Tiết kiệm nước   Không bỏ rác bừa bãi      yêu thương loài vật          hái hoa, cỏ.

BÀI 2. ĐỨC CHÚA TRỜI DỰNG NÊN CON NGƯỜI (GV)

BÀI 2. ĐỨC CHÚA TRỜI DỰNG NÊN CON NGƯỜI (GV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ I. 2016 on 31 Tháng Năm, 2017

BÀI 2. ĐỨC CHÚA TRỜI DỰNG NÊN CON NGƯỜI

 

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 1:26-31; 2:7-23.

II. CÂU GỐC: “Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh” (Sáng Thế Ký 2:7).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Đức Chúa Trời là Đấng dựng nên con người.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời yêu thương và chăm sóc con người chu đáo.

– Hành động: Cảm tạ Đức Chúa Trời đã dựng nên em.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Trồng đậu xanh.

  1. Vật liệu: Cây đậu xanh.
  2. Thực hiện: Cho mỗi em tự chuẩn bị vật liệu để trồng đậu xanh ở nhà trước (ly giấy hoặc lon sữa bò, đất hoặc bông gòn, đậu xanh, nước, gạo, muối, giấy vụn…).

Dặn các em mang tác phẩm của mình đến lớp, giáo viên phân tích vì sao đậu xanh của một số em trồng trong đất hoặc bông gòn có thể nảy mầm, và đậu xanh của những em trồng trong lon gạo, muối, giấy vụn… lại không thể. Qua đó, cho các em biết các loại sinh vật cần phải có môi trường thích hợp mới có thể tăng trưởng.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị trị trợ: Photo lớn trang tài liệu 1-2, sau đó tô màu cho đẹp).

    1. Vào đề.

Các em còn nhớ sự sáng tạo của Đức Chúa Trời không? Ngày thứ nhất, Đức Chúa Trời dựng nên cái gì? (Cho các em ôn lại sự sáng tạo của Đức Chúa Trời từ ngày thứ nhất đến ngày thứ sáu).

Ngày thứ sáu, ngoài các loài thú vật và côn trùng được Đức Chúa Trời dựng nên, còn có một loài được dựng nên trong ngày nầy, các em nghĩ xem khi ấy trên trái đất còn thiếu điều gì? (Cho các em trả lời). Đúng rồi! Đó là loài người. Tại sao cuối cùng Đức Chúa Trời mới dựng nên con người? (Cho các em trả lời).

Vừa rồi trong phần sinh hoạt đầu giờ các em đã biết, cần phải có môi trường thích hợp đậu xanh mới có thể sinh trưởng. Đây cũng là lý do con người được Đức Chúa Trời dựng nên sau cùng. Mọi vật trong thiên nhiên đã sẵn sàng, môi trường thích hợp cho con người sinh sống, Đức Chúa Trời mới dựng nên loài người.

    2. Bài học.

Các em có biết Đức Chúa Trời dựng nên con người như thế nào không? (Giáo viên có thể làm động tác lấy đất lên giả vờ như đang nắn hình người và cho các em trả lời). Đức Chúa Trời dựng nên con người theo hình ảnh của Ngài. Điều nầy không phải là Đức Chúa Trời có thân xác như chúng ta, nhưng chúng ta giống Ngài, có tâm trí để suy nghĩ, có lòng yêu thương để tương giao với Ngài.

Sau khi dùng bụi đất dựng nên con người, Đức Chúa Trời hà sinh khí vào lỗ mũi (giáo viên thổi hơi), thì người có sự sống. Đó là con người đầu tiên trên thế giới, Đức Chúa Trời đặt tên là A-đam.

Đức Chúa Trời đã chuẩn bị một khu vườn xinh đẹp có nhiều cây trái ngon ngọt để con người dùng làm thức ăn. Ngài dặn A-đam: “Ngươi được tự do ăn các loại cây trái trong vườn, nhưng đừng ăn trái của một cây ở giữa vườn, là cây biết điều thiện và điều ác. Nếu ngươi ăn trái của cây ấy, ngươi sẽ chết”. Đức Chúa Trời cũng dặn bảo A-đam trồng và giữ vườn.

Sau đó, Đức Chúa Trời đem các loài vật đến cho A-đam đặt tên. Hễ A-đam đặt tên chúng nó thế nào, thì đó là tên gọi của chúng. (Giáo viên có thể chỉ vào những hình ảnh các loài động vật dán sẵn trong lớp cho các em đọc tên). A-đam không tìm được ai giúp đỡ giống như mình. Vì vậy, Đức Chúa Trời khiến A-đam ngủ mê, rồi lấy một cái xương sườn của A-đam làm nên một người nữ, dẫn đến trước mặt A-đam.

Người nữ trở thành vợ của A-đam, giúp đỡ A-đam chăm sóc và bảo vệ vườn Ê-đen. A-đam gọi vợ là “Ê-va” vì là mẹ của cả loài người.

Các em ơi! Các em thấy Đức Chúa Trời có yêu thương con người không? Ngài yêu thương con người như thế nào? (Cho các em trả lời). Đức Chúa Trời ban cho con người có thức ăn, chuẩn bị chỗ ở (vườn Ê-đen), việc làm (chăm sóc và bảo vệ vườn).

    3. Ứng dụng.

Hướng dẫn các em thảo luận bằng những câu hỏi sau: Đức Chúa Trời dựng nên con người như thế nào? Vì sao Đức Chúa Trời dựng nên người nữ? Đức Chúa Trời giao cho A-đam công việc gì? Đức Chúa Trời chuẩn bị những gì cho con người?

Sau đó, cho các em mở sách học viên bài 2 làm bài tập “Yêu quí sự sáng tạo của Đức Chúa Trời”. Khi các em hoàn tất bài tập cho các em suy nghĩ xem em sẽ làm gì để bày tỏ bằng hành động rằng em yêu quí những gì Đức Chúa Trời dựng nên.

Cuối cùng cho các em luân phiên nói lời cảm tạ Đức Chúa Trời đã dựng một điều gì đó. Ví dụ: “Cảm tạ Đức Chúa Trời dựng nên mặt trời”; “Cảm tạ Đức Chúa Trời dựng nên cây cối”; “Cảm tạ Đức Chúa Trời cho em có ba mẹ”.

BÀI 1. ĐỨC CHÚA TRỜI DỰNG NÊN THẾ GIỚI (HV)

BÀI 1. ĐỨC CHÚA TRỜI DỰNG NÊN THẾ GIỚI (HV)

in NHI ĐỒNG on 31 Tháng Năm, 2017

BÀI 1. ĐỨC CHÚA TRỜI DỰNG NÊN THẾ GIỚI

 

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 1:1-25.

II. CÂU GỐC: “Chính Đức Giê-hô-va đã làm nên đất bởi quyền năng Ngài, đã lập thế gian bởi sự khôn ngoan Ngài, đã giương các từng trời bởi sự thông sáng Ngài” (Giê-rê-mi 10:12).

III. BÀI TẬP.

A. CON SỐ SÁNG TẠO.

Những vật trong hình vẽ phía dưới được dựng nên vào ngày thứ mấy? Viết chữ số của ngày mà lòai đó dược dựng nên dưới mỗi hình vẽ.

B .YÊU THÍCH CỦA EM.

Trong sự sáng tạo của Đức Chúa Trời, vẽ ra ba thứ mà em yêu thích nhất, rồi viết lời cầu nguyện cảm tạ của em.

BÀI 1. ĐỨC CHÚA TRỜI DỰNG NÊN THẾ GIỚI (GV)

BÀI 1. ĐỨC CHÚA TRỜI DỰNG NÊN THẾ GIỚI (GV)

in NHI ĐỒNG on 29 Tháng Năm, 2017

BÀI 1. ĐỨC CHÚA TRỜI DỰNG NÊN THẾ GIỚI

 

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 1:1-25.

II. CÂU GỐC: “Chính Đức Giê-hô-va đã làm nên đất bởi quyền năng Ngài, đã lập thế gian bởi sự khôn ngoan Ngài, đã giương các từng trời ra bởi sự thông sáng Ngài” (Giê-rê-mi 10:12).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

   – Biết: Đức Chúa Trời là Đấng dựng nên thế giới nầy.

   – Cảm nhận: Đức Chúa Trời là Đấng quyền năng.

   – Hành động: Ca ngợi và cảm tạ sự sáng tạo quyền năng của Đức Chúa Trời.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY. 

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

    * Đố em.

    1. Vật liệu: Viết, giấy, bảng.

    2. Thực hiện: Giáo viên viết các câu đố dưới đây vào giấy (mỗi câu đố một mảnh giấy riêng biệt), ghi đáp án phía sau. Giơ cao mảnh giấy cho các em cùng đọc lớn câu đố, rồi trả lời. Nếu trong vòng hai phút các em không trả lời được thì lật mảnh giấy phía sau ra cho các em xem đáp án.

   + Câu đố:

(1) Nước cuốn không trôi, lửa đốt không cháy, ăn vào không no, không ăn không thể sống. Đáp án: Không khí.

(2) Leo lên không dễ, dời đi rất khó, viết thì dễ, thấy không khó. Đáp án: Núi.

(3) Có khi ở chỗ nầy, có khi ở chỗ khác, có khi như cái đĩa, có lúc như lưỡi liềm. Đáp án: Mặt trăng.

(4) Thân đầy lông, khi ngồi như con người, khi chạy như con chó. Đáp án: Con khỉ.

(5) Mùa xuân may chế y phục, mùa hè toàn thân xanh lục, mùa thu bắt đầu cởi áo, mùa đông chỉ thấy da thịt. Đáp án: Cây xanh.

(6) Đến từ sông biển, phủ trên bầu trời; mặt trắng chuyển mặt đen; nước mắt bèn rơi xuống. Đáp án: Mây.

Sau khi đố xong, cho các em sắp xếp lại theo thứ tự thời gian những thứ ấy xuất hiện trên thế gian.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

     1. Vào đề.

Kinh Thánh cho chúng ta biết (đưa cao quyển Kinh Thánh lên) trước khi có thế giới nầy, đã có Đức Chúa Trời, Ngài là Đấng khôn ngoan và quyền năng. Vũ trụ nầy được dựng nên theo ý muốn của Ngài.

Các em có thấy khi làm thủ công, chúng ta cần chuẩn bị vật liệu, và phải dùng tay làm mới hoàn thành. Nhưng Đức Chúa Trời dựng nên thế giới nầy chỉ bằng lời nói, Ngài chỉ cần ra lệnh, lập tức những vật trên thế gian nầy được dựng nên. Các em có biết Đức Chúa Trời dựng thế giới nầy trong bao lâu và Ngài dựng cái gì trước tiên không? Các em cùng theo dõi bài học nầy để thấy sự sáng tạo của Đức Chúa Trời kỳ diệu như thế nào nhé.

     2. Bài học.

Ngày xưa thật xa xưa, thế giới nầy chỉ là một màu đen tăm tối. Đức Chúa Trời phán: “Phải có sự sáng”, lập tức sự sáng tràn ngập khắp nơi. Ngài phân sự sáng ra cùng sự tối, Ngài đặt tên sự sáng là ngày, sự tối là đêm. Ấy là ngày thứ nhất. (Hỏi các em: Ngày thứ nhất Đức Chúa Trời dựng nên điều gì? Sau đó dùng phấn kẻ tấm bảng làm sáu ô, ô thứ nhất ghi “Ngày thứ nhất”, rồi cho các em viết ra sự sáng tạo của Đức Chúa Trời trong ngày đó).

Đến ngày thứ hai, Đức Chúa Trời phán: “Phải có một khoảng không ở giữa nước đặng phân rẽ nước cách với nước”. Ngài dựng nên khoảng không, phân rẽ nước ở dưới khoảng không với nước ở trên khoảng không. Như vậy là có bầu trời. (Hỏi các em: Ngày thứ hai, Đức Chúa Trời dựng nên cái gì? Viết “ngày thứ hai” lên ô thứ hai trên bảng, cho các em viết ra sự sáng tạo của Đức Chúa Trời trong ngày nầy).

Ngày thứ ba, Đức Chúa Trời phán: “Tất cả nước ở dưới trời phải tụ lại một nơi, và phải có chỗ khô cạn bày ra”. Đức Chúa Trời đặt tên chỗ khô cạn là đất, còn nơi nước tụ lại là biển. Đức Chúa Trời thấy những gì Ngài dựng nên thật là tốt lành. Ngài lại phán: “Đất phải sanh cây cỏ, cỏ kết hột giống, cây kết trái”. Đất liền sinh ra các loại rau cải, cỏ xanh, cây cối khác nhau và những bông hoa xinh đẹp. (Hỏi các em: Ngày thứ ba Đức Chúa Trời dựng nên cái gì? Viết ngày thứ ba lên ô thứ ba trên bảng, cho các em ghi ra sự sáng tạo của Đức Chúa Trời, bao gồm đất, biển và tên gọi của các thực vật khác nhau. Có thể mời từng em trong lớp lần lượt lên bảng viết ra một vật Đức Chúa Trời tạo dựng trong ngày nầy).

Ngày thứ tư, Đức Chúa Trời phán: “Phải có các vì sáng trong khoảng không trên trời để phân ra ngày và đêm”. Vậy Đức Chúa Trời dựng nên hai vì sáng, vì lớn cai trị ban ngày và vì nhỏ cai trị ban đêm. Ngài cũng dựng nên rất nhiều ngôi sao. Các em có biết hai vì sáng đó là gì không? (Cho các em trả lời). Đúng rồi, đó là mặt trời và mặt trăng. (Cho các em viết vào ô số bốn, sự sáng tạo của Đức Chúa Trời vào ngày thứ tư).

Ngày thứ năm, Đức Chúa Trời phán: “Nước phải sanh các vật sống cho nhiều, và phải có các loài chim bay trên các khoảng không trên trời”. Đức Chúa Trời dựng nên các loài động vật sống trong nước và các loài chim bay trên trời. (Cho các em nói ra những loài động vật dưới biển và các loài chim mà các em biết; giáo viên viết tất cả vào ô số năm).

Ngày thứ sáu, Đức Chúa Trời phán: “Đất phải sinh các vật sống tùy theo loại”. Đức Chúa Trời dựng nên các loài thú, súc vật và côn trùng. Trong ngày thứ sáu cũng có một loài được dựng nên rất quan trọng, nhưng ở bài sau các em sẽ được học.

Các em có thích những gì Đức Chúa Trời dựng nên không? (Cho các em trả lời). Đức Chúa Trời cũng rất thích những gì Ngài đã sáng tạo, Ngài thấy mọi thứ đều tốt lành.

Đức Chúa Trời dựng nên cả thế giới nầy vừa xinh đẹp vừa kỳ diệu. Vậy ai có thể sánh với Ngài? (Cho các em trả lời). Đức Chúa Trời cho chúng ta vui hưởng tất cả những gì Ngài đã dựng nên, vì thế chúng ta phải luôn cảm tạ Ngài. Em có cảm tạ Đức Chúa Trời không?

     3. Ứng dụng.

Cho các em mở sách học viên bài 1, vẽ những vật Đức Chúa Trời đã tạo nên. Rồi cho các em nêu lên những vật mà các em đã vẽ trong tập của mình, giáo viên liệt kê lên bảng, hỏi các em vật nào được nhiều người yêu thích nhất. (Có thể cho các em viết lên giấy hoặc giơ tay). Hướng dẫn các em viết lời cảm tạ và ca ngợi Chúa, sau đó cho các em lần lượt đọc lớn, rồi giáo viên cầu nguyện kết thúc.