Latest News From Our Blog

GIÁO VIÊN NHI ĐỒNG QUÝ 2 NĂM 2020

By K' Abel in NHI ĐỒNG on 24 Tháng Ba, 2020

CUỘC HÀNH TRÌNH  CỦA CON DÂN CHÚA

 

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN

Lớp Nhi Đồng (6-8 Tuổi)

Năm Thứ Ba – Qúy 2

 

 

MỤC LỤC

 

CUỘC HÀNH TRÌNH CỦA CON DÂN CHÚA

 

BÀI 1. Y-SÁC SỐNG HÒA THUẬN.

BÀI 2. GIA-CỐP VÀ LA-BAN.

BÀI 3. GIÔ-SÉP BỊ BÁN LÀM NÔ LỆ

BÀI 4. GIÔ-SÉP LÀM QUAN LỚN.

BÀI 5. SỰ RA ĐỜI CỦA MÔI-SE.

BÀI 6. ĐỨC CHÚA TRỜI GIÁNG TAI VẠ XUỐNG AI-CẬP.

BÀI 7. LỄ VƯỢT QUA.

BÀI 8. NƯỚC RA TỪ HÒN ĐÁ.

BÀI 9. ĐỨC CHÚA TRỜI BAN MƯỜI ĐIỀU RĂN.

BÀI 10. A-RÔN LÀM CON BÒ VÀNG.

BÀI 11. XÂY DỰNG ĐỀN TẠM.

BÀI 12. CON RẮN LỬA VÀ CON RẮN ĐỒNG.

BÀI 13. BÀI ÔN.

TRANG TÀI LIỆU.

 

 

 

 

BÀI 1.                     Y-SÁC SỐNG HÒA THUẬN

 

  1. KINH THÁNH: Sáng thế ký 26.
  2. CÂU GỐC: “…Hãy hết sức mình mà hòa thuận với mọi người” (Rô-ma 12:18).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Y-sác cư xử cách hòa thuận đối với những người tranh chấp với ông.

– Cảm nhận: Chúa muốn em sống hòa thuận.

– Hành động: Viết ra phương cách em sống hòa thuận với mọi người.

  1. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.
  2. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Trả lời câu hỏi.

  1. Vật liệu: Trang tư liệu A trong sách học viên.
  2. Thực hiện: Hướng dẫn các em mở ra trang tư liệu A trong sách học viên, cho các em dựa theo gợi ý để làm bài. Sau đó, căn cứ vào từng tình huống của mỗi cá nhân trong hình vẽ, thảo luận: Tình huống nào dễ dàng đưa đến tranh chấp? Làm thế nào để phòng tránh sự tranh chấp? (Cho các em tự do trả lời).
  3. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị thị trợ: Photo lớn trang tài liệu A trong sách giáo viên rồi tô màu cho đẹp). 

  1. Vào đề.

Các em có bao giờ tranh chấp với ai điều gì chưa? Tranh chấp cũng đồng nghĩa với tranh giành. Khi tranh giành một điều gì đó, em có cảm thấy “cãi nhau” sẽ dễ hơn “hòa giải” không? Vì sao như vậy? (Cho các em nói ra suy nghĩ của mình).

Kinh Thánh có kể lại câu chuyện của một người đã hòa giải cuộc xích mích. Các em cùng theo dõi câu chuyện nầy xem người đó là ai, và ông làm thế nào để hòa giải nhé.

  1. Bài học.

Ngày xưa khi trong xứ gặp nạn đói lớn, Y-sác đưa vợ con cùng tất cả chiên bò, tôi tớ đi xuống Ghê-ra. Ông dự định sẽ di cư sang Ai-cập, nhưng Đức Chúa Trời lại bảo Y-sác: “Con đừng xuống Ai-cập, hãy ở lại xứ nầy”. Thế là cả nhà Y-sác ở lại Ghê-ra. Nơi đó là lãnh thổ của người Phi-li-tin, nhưng cũng có nhiều cư dân từ các xứ khác đến sinh sống. Dân Phi-li-tin và vua của họ là A-bi-mê-léc đều không quan tâm khi gia đình Y-sác đến sống tại đó.

Sau khi ổn định chỗ ở, Y-sác bảo các đầy tớ: “Hãy nhanh chóng gieo hạt giống, hầu cho chúng ta có thu hoạch sớm; khỏi phải mua lương thực của dân Phi-li-tin nữa”. Kinh Thánh chép rằng vụ mùa năm đó, Y-sác thu hoạch được gấp trăm lần hơn. Đức Chúa Trời ban phước cho Y-sác, ông trở nên giàu có, tài sản ngày càng gia tăng nhanh chóng. Dân Phi-li-tin ganh tỵ thưa kiện, khiến vua của họ là A-bi-mê-léc đến nói cùng Y-sác: “Ngươi phải rời khỏi nơi nầy, vì ngươi giàu mạnh hơn dân ta”.

Em thử nghĩ xem, bị ép phải rời khỏi nơi đã cực nhọc canh tác, Y-sác và tôi tớ của ông buồn biết chừng nào! Y-sác đưa cả gia đình đến sống ở thung lũng Ghê-ra. Họ lại phải làm lại từ đầu, ổn định chỗ ở và đi tìm nguồn nước. Y-sác cho đào lại những cái giếng đã đào từ thời Áp-ra-ham, mà dân Phi-li-tin đã lấp đất lại. Nhưng đến khi đào được một cái giếng phun nước giữa trũng, thì những người chăn chiên ở Ghê-ra đến tranh giành. Họ nói: “Đây là đất của chúng tôi, như thế giếng nầy đương nhiên là của chúng tôi”. Những người chăn chiên của Y-sác cãi lại: “Giếng nầy là do chúng tôi bỏ công sức ra đào, nó là của chúng tôi”.

Tuy nhiên Y-sác lại có cái nhìn khác, ông bảo: “Hãy đi, chúng ta sẽ tìm được nguồn nước khác thôi!” Ông đặt tên giếng đó là “Ê-sét” có nghĩa là “tranh giành”. Chẳng bao lâu sau, các đầy tớ Y-sác đào được một giếng khác, nhưng những người chăn chiên đó cũng đến giành nữa. Kinh Thánh cho chúng ta biết Y-sác lại tiếp tục ra đi. Nhưng trước khi rời khỏi đó, ông nói: “Ta đặt tên giếng nầy là Sít-na”. Sít-na có nghĩa là “thù hận”.

Sau đó, có lẽ khi đào đất tìm được nguồn nước mới, một vài đầy tớ của Y-sác cũng không vui, họ nghĩ thầm: “Đào được nguồn nước cũng chẳng có ích gì, lại sẽ bị đuổi đi mà thôi”. Nhưng lần nầy không ai tranh giành với họ cả! Y-sác đặt tên giếng nầy là “Rê-hô-bốt” có nghĩa là “Khoảng khoát”. Ông nói: “Cuối cùng Chúa đã cho chúng ta ở nơi rộng rãi, chúng ta sẽ thịnh vượng tại nơi nầy”.

Một hôm, có một đoàn khách rất đặc biệt đến thăm Y-sác. Các em biết họ là ai không? Đó chính là A-bi-mê-léc, vua Phi-li-tin và các cận thần của ông. Y-sác hỏi: “Các ông đã đuổi tôi đi, bây giờ còn đến đây tìm tôi làm chi?” Họ trả lời: “Chúng tôi đã thấy rõ Đức Chúa Trời ở cùng và ban phước cho ông. Vì vậy chúng tôi đến đây xin ông kết ước với chúng tôi”. Y-sác hỏi: “Các ông nói gì tôi không hiểu?” Họ nói tiếp: “Chúng tôi mong muốn ông hứa rằng sẽ chẳng bao giờ làm hại chúng tôi. Bởi chúng tôi đối với ông cũng không tệ, đã để ông ra đi bình an”.

Đây là cơ hội để Y-sác có thể nói ra những khó khăn, uất ức mà dân Phi-li-tin đã gây ra cho ông trước kia, nhưng Y-sác không làm như vậy. Chẳng những Y-sác đồng ý kết ước với vua A-bi-mê-léc mà còn làm một bữa tiệc linh đình để đãi họ nữa. Sáng sớm hôm sau, Y-sác và vua A-bi-mê-léc lập giao ước sống hoà bình với nhau.

Cũng trong ngày đó, Y-sác nghe các đầy tớ báo tin đã đào được giếng nước tốt. Y-sác liền đặt tên cho giếng đó là “Si-ba” có nghĩa là “Thề nguyện”, để ghi nhớ giao ước mà ông và A-bi-mê-léc cùng lập. Sau nầy tại nơi đó có một thành phố tên là “Bê-e-sê-ba”. Cái tên nầy giúp dân chúng nhớ những cuộc tranh giành trước kia đã ngưng lại, và nó cũng trở nên lời giao ước của họ.

  1. Ứng dụng.

Cho các em mở bài 1 sách học viên ra, hướng dẫn các em dựa theo gợi ý làm bài tập phần A “Câu chuyện của cái giếng”. Sau đó hỏi các em: Qua việc Y-sác giải quyết tranh giành về những cái giếng, em học được điều gì khi có người tranh giành với em?   

Các em ơi, mỗi ngày chúng ta đều gặp gỡ, chơi đùa, học tập với các bạn ở trường học, ở nhà thờ, trong xóm làng của mình. Có lúc, lời nói hoặc hành động của người khác làm cho chúng ta bực tức, nếu chúng ta không có một tâm tình hòa thuận thì sẽ dẫn đến tranh chấp. Các em hãy noi gương Y-sác sống hòa thuận với mọi người các em nhé.

 

 

 

 

BÀI 2.                      GIA-CỐP VÀ LA-BAN

 

  1. KINH THÁNH: Sáng thế ký 29; 30:25-31:55.
  2. CÂU GỐC: “Đừng để điều ác thắng mình, nhưng hãy lấy điều thiện thắng điều ác” (Rô-ma 12:21).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Gia-cốp và La-ban lừa dối lẫn nhau, khiến cả hai đều buồn lòng và tức giận.

– Cảm nhận: Lừa dối chỉ đem đến bất hoà, nghi kỵ, tức giận  nhau mà thôi.

– Hành động: Em dùng điều thiện để thắng điều ác.

  1. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.
  2. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Cái thuẫn thắng lợi.

  1. Vật liệu: Trang tư liệu B trong sách học viên.
  2. Thực hiện: Cho các em đọc Rô-ma 12:21, rồi mở trang tư liệu B trong sách học viên ra, dựa theo gợi ý trong trang nầy để làm. Sau đó cùng nhau thảo luận: Vì sao lấy điều thiện thắng điều ác mới là người thắng lợi? (Cho các em tự do biểu đạt cách nhìn của mình).
  3. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị thị trợ: Photo lớn trang tài liệu B trong sách giáo viên rồi tô màu cho đẹp).

  1. Vào đề.

Người ta luôn cho rằng “Lấy ác báo ác” là cách tốt nhất để đối phó với những kẻ ức hiếp mình. Nhất là đối với người cố ý làm cho ta bị tổn hại. Chẳng ai muốn mình phải chịu thiệt thòi cả. Trong câu chuyện Kinh Thánh hôm nay có hai nhân vật dùng thủ đoạn lừa dối lẫn nhau, họ tưởng lừa được người khác là thắng lợi. Nhưng trong phần sinh hoạt đầu giờ, các em đã tìm được cái thuẫn thắng lợi, đó là gì? (Cho các em trả lời).

  1. Bài học.

Con trai của Y-sác là Gia-cốp vừa đi vừa lau những giọt mồ hôi trên trán, trong lòng suy tính còn bao lâu nữa mới có thể đến nơi. Thấy những người chăn đang cho bầy chiên uống nước bên giếng, Gia-cốp đến làm quen rồi hỏi: “Các anh từ đâu đến?” Họ trả lời: “Cha-ran”. Gia-cốp vui mừng nói: “Tôi cũng đang đi đến đó nè!” Gia-cốp lại hỏi: “Các anh có biết ông La-ban không?” Họ gật đầu: “Biết chứ! Kìa, cô Ra-chên, con gái ông ấy đang dẫn bầy chiên đến chỗ chúng ta”.

Khi Ra-chên đến bên giếng, Gia-cốp giúp nàng múc nước cho đàn chiên uống, rồi cho nàng biết mình là cháu gọi La-ban bằng cậu ruột. Ra-chên liền về nhà báo cho cha mình biết điều nầy. Nghe tin Gia-cốp, cháu mình đã đến, La-ban vội vàng chạy ra đón. Ông ôm Gia-cốp mà hôn rồi mời cháu về ở nhà mình.

Gia-cốp sống tại nhà cậu La-ban và giúp cho ông rất nhiều việc. Sau một tháng, La-ban định trả tiền công cho Gia-cốp, nhưng Gia-cốp đề nghị: “Cháu xin giúp việc cho cậu bảy năm nếu cậu gả cho cháu cô Ra-chên, con gái của cậu”. La-ban chấp thuận ngay.

Sau bảy năm, Gia-cốp nhắc La-ban: “Cháu đã làm việc bảy năm như cam kết, xin cậu cho cháu làm lễ cưới”. Thế nhưng La-ban lại cho cô con gái lớn là Lê-a làm cô dâu, lừa gạt Gia-cốp. Sáng hôm sau khi biết sự thật, Gia-cốp giận lắm, chạy đến để hỏi La-ban, vì sao lại lừa gạt như vậy? La-ban giải thích: “Phong tục ở đây không cho phép em gái lấy chồng trước chị mình”. Rồi La-ban lại đưa ra một đề nghị khác: “Nếu cháu chịu giúp việc cho cậu bảy năm nữa, cậu sẽ gả luôn Ra-chên cho cháu”. Gia-cốp nói: “Vì Ra-chên, cháu sẵn lòng giúp việc cho cậu thêm bảy năm nữa”.

Gia-cốp giúp việc cho La-ban nhiều năm sau đó. Rồi Gia-cốp bắt đầu nhớ nhà, anh thưa với La-ban: “Cháu muốn về quê! Cháu đã tận tình phục vụ cậu đúng như cam kết. Vậy xin cậu cho cháu đưa vợ con về nhà”. Nhưng La-ban đáp: “Ồ, xin cháu đừng đi”. Các em đọc Sáng 30:27 xem vì sao La-ban muốn Gia-cốp ở lại? (Cho các em trả lời). La-ban năn nỉ: “Cháu muốn bao nhiêu tiền công, cậu cũng sẵn lòng”. Gia-cốp quyết định: “Được, nếu cậu để riêng những con chiên, con dê nào có rằn, có đốm trong bầy cho cháu, kể như là tiền công vậy”. La-ban gật đầu: “Rồi, cứ làm theo lời cháu”.

Sau đó, Gia-cốp cho lai giống đàn chiên có rằn có đốm của mình với đàn chiên màu trắng của La-ban. Gia-cốp cũng dùng cách đó với đàn dê. Nhờ vậy, Gia-cốp có được rất nhiều chiên và dê có rằn, có đốm. Đồng thời Gia-cốp cũng chọn những con chiên, con dê mập mạnh của La-ban để phối giống cho bầy của mình. Vì thế, bầy gia súc của Gia-cốp đều mập mạnh, hơn hẳn bầy gia súc của La-ban. Cuối cùng La-ban cũng phát hiện ra mưu kế của Gia-cốp. Ông thay đổi hẳn thái độ đối với Gia-cốp.

Một hôm, Gia-cốp nói với Lê-a và Ra-chên: “Ta đã hết lòng, hết sức giúp việc cho cha bấy lâu nay, nhưng hết lần nầy đến lần khác cha cứ lừa gạt ta. Tuy nhiên Đức Chúa Trời lại bảo vệ và chăm sóc ta. Bây giờ Đức Chúa Trời phán bảo ta trở về quê hương”. Các em đọc Sáng-thế-ký 31:14-16, xem Ra-chên và Lê-a nói gì?

Thế là Gia-cốp đem vợ con và bầy súc vật, lặng lẽ rời khỏi Cha-ran, hướng về Ca-na-an nơi nhà cha mình.

Bị Gia-cốp lừa dối một lần nữa, La-ban rất tức giận. Ông lập tức triệu tập người thân đuổi theo Gia-cốp. Khi bắt kịp, La-ban muốn đưa cả gia đình Gia-cốp trở về, nhưng Đức Chúa Trời lại phán dặn ông trong chiêm bao là phải thận trọng, đừng nặng lời với Gia-cốp. Vì thế, La-ban hỏi Gia-cốp: “Vì sao cháu phải lén trốn đi? Cháu để các con gái cậu đi như là tội phạm vậy. Nếu cháu đến từ biệt, cậu sẽ vui vẻ tiễn đưa. Vậy mà ngay cả hôn từ biệt con cháu của cậu, cháu cũng không cho!” Gia-cốp trả lời thẳng thắn, dứt khoát: “Vì cháu không tin cậu. Cháu sợ cậu sẽ bắt hai con gái lại”. La-ban nói: “Chúng đều là con gái và cháu ngoại của cậu, cậu rất yêu chúng. Lẽ nào cậu lại làm hại con cháu của cậu sao? Cậu nghĩ rằng chúng ta nên lập giao ước hoà bình với nhau”.

Gia-cốp liền chọn một tảng đá, dựng lên làm tấm bia, rồi bảo đầy tớ lượm đá dồn thành một đống quanh tấm bia. Đống đá đó được gọi là “Mích-ba” có nghĩa là làm chứng. La-ban và Gia-cốp cùng nói với nhau: “Sau khi chúng ta chia cách nhau, nguyện Đức Chúa Trời soi xét để chúng ta không lừa gạt, làm hại nhau nữa”.

Sau đó, La-ban hôn từ biệt các con gái và cháu ngoại, rồi quay trở về nhà; còn Gia-cốp dẫn cả gia đình đi đến Ca-na-an.     

  1. Ứng dụng.

Cho các em mở bài 2, sách học viên, dựa theo gợi ý làm bài tập “Ghép lại với nhau” trong phần A. Sau đó hỏi các em: La-ban lừa gạt Gia-cốp như thế nào? (Gả Lê-a cho Gia-cốp). Gia-cốp lừa gạt La-ban như thế nào? (Làm cho những con chiên mới đẻ của La-ban có đốm).

Trong phần B, cho các em dựa theo gợi ý làm bài tập “Em sẽ nói như vậy…” Sau đó chia sẻ: Em sẽ giải quyết những việc nầy như thế nào? (Giáo viên hướng dẫn các em thấy được rằng lấy điều thiện thắng điều ác mới là thắng lợi).   

 

 

 

 

BÀI 3.               GIÔ-SÉP BỊ BÁN LÀM NÔ LỆ

 

  1. KINH THÁNH: Sáng thế ký 37.
  2. CÂU GỐC: “Chớ tìm kiếm danh vọng giả dối mà trêu chọc nhau và ghen ghét nhau” (Ga-la-ti 5:26).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Vì đố kỵ mà các anh của Giô-sép bắt Giô-sép bán cho các lái buôn người Ma-đi-an.

– Cảm nhận: Ghen ghét và đố kỵ dẫn đến những điều ác.

– Hành động: Em cầu nguyện xin Chúa giúp em không ghen ghét và đố kỵ với người khác.

  1. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.
  2. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Tìm người.

  1. Vật liệu: Trang tư liệu C trong sách học viên.
  2. Thực hiện: Trước hết giáo viên hỏi các em: Nhà em có bao nhiêu anh chị em? Sau đó cho các em mở trang tư liệu C trong sách học viên, dựa theo gợi ý để làm phần nầy.
  3. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị thị trợ: Photo lớn trang tài liệu C trong sách giáo viên rồi tô màu cho đẹp).

  1. Vào đề.

Các em có thích có nhiều anh chị em không? Vì sao? Em có cho rằng người lớn nhất hay nhỏ nhất trong nhà được yêu thương nhiều hơn không? Câu chuyện Kinh Thánh hôm nay kể về một gia đình có đông anh em, mà các anh trai lại rất ghét cậu em trai nhỏ tuổi của mình. Các em cùng theo dõi bài học nầy để biết rõ hơn nhé.

  1. Bài học.

Gia-cốp có mười hai người con, Giô-sép là con đầu lòng của Ra-chên, người vợ mà Gia-cốp hết lòng yêu thương. Chắc các em còn nhớ, để cưới Ra-chên, Gia-cốp phải làm công cho cậu mười bốn năm. Vì thế Gia-cốp thương Giô-sép nhất, và điều đó khiến các anh của Giô-sép bất mãn. Đã thế, Giô-sép thường đem chuyện xấu của các anh thuật cho cha nghe, khiến họ bị cha la rầy, nên căm tức Giô-sép lắm.

Gia-cốp may cho Giô-sép một chiếc áo dài nhiều màu rất đẹp. Kinh Thánh chép rằng, các anh thấy cha thiên vị nên càng ghét Giô-sép hơn nữa. Rồi Giô-sép lại còn kể với các anh giấc mơ của mình khiến họ thêm tức giận. Các em đọc Kinh Thánh Sáng thế ký 37:7 xem giấc mơ của Giô-sép như thế nào? Các anh mỉa mai Giô-sép: “Chẳng lẽ mầy muốn làm vua chúng tao sao?”

Tiếp sau đó, Giô-sép lại có một giấc mơ nữa. Theo các em, lần nầy Giô-sép có dám nói ra không? Giô-sép không những thuật cho các anh nghe mà còn thuật cho cha mình nữa. Đọc Kinh Thánh Sáng thế ký 37:9 xem Giô-sép lại có chiêm bao gì?

Giấc mơ nầy khiến các anh trai nổi giận! Thậm chí cả người cha cũng quở trách Giô-sép. Nhưng các anh thì căm tức, còn cha họ lại ghi nhớ những điều ấy trong lòng.

Một ngày kia, các anh của Giô-sép dẫn bầy gia súc đi tìm những đồng cỏ xanh tươi và dòng nước trong lành. Gia-cốp sai Giô-sép đi thăm xem các anh có mạnh khỏe không vì đã lâu họ không về nhà.

Từ xa, các anh đã nhìn thấy Giô-sép bởi chiếc áo choàng nhiều màu cậu đang mặc trên người, điều đó khơi dậy sự ganh ghét trong lòng họ. Họ bàn với nhau: “Chúng ta hãy giết ‘thằng nằm mộng’ nầy đi, để xem những giấc mơ của nó sẽ ra sao”. Ru-bên, người anh lớn nhất, không muốn giết em trai, nên đề nghị: “Chúng ta đừng giết nó, hãy quăng nó xuống hố để dạy cho nó một bài học”.

Giô-sép vui mừng vì gặp các anh, nhưng họ lại túm lấy cậu, lột chiếc áo đẹp Giô-sép đang mặc trên người, rồi quăng cậu xuống một cái hố sâu. Mặc cho Giô-sép kêu cứu, các anh thản nhiên ngồi ăn uống với nhau cách vui vẻ.

 Lúc ấy có một đoàn lái buôn đi ngang qua, một người anh của Giô-sép lại đề nghị: “Sao chúng ta không bán Giô-sép cho bọn lái buôn? Như thế thật là tiện lợi vô cùng”.

Tất cả đều đồng ý, ngoại trừ Ru-bên không có ở đó. Họ kéo Giô-sép lên khỏi hố sâu, bán cho đoàn lái buôn được hai mươi miếng bạc. Sau khi mua bán xong xuôi, đoàn lái buôn lại tiếp tục cuộc hành trình đến Ai-cập.

Chẳng bao lâu sau, Ru-bên trở lại bên cái hố sâu để giải cứu cho Giô-sép. Không tìm thấy Giô-sép, Ru-bên hốt hoảng chạy đến bảo các em: “Làm sao đây? Giô-sép mất tích rồi”. Sau khi biết Giô-sép vẫn bình an, Ru-bên thở phào nhẹ nhõm, nhưng phải thưa với cha như thế nào về Giô-sép? Các em đọc Sáng thế ký 37:31-32, xem họ nghĩ ra cách gì?

Nhận ra chiếc áo dài là của Giô-sép, Gia-cốp đau buồn khóc lóc thảm thiết. Ông đâu ngờ rằng Giô-sép không phải bị thú dữ giết hại, mà là bị các anh bán đi. Vì cớ sự đố kỵ của các anh mà Giô-sép phải xa người cha yêu thương để đến một nơi xa lạ. Nhưng Đức Chúa Trời vẫn ở cùng Giô-sép.

  1. Ứng dụng.

Cho các em mở bài 3 sách học viên ra, dựa theo gợi ý làm bài tập phần A để ôn lại bài học, sau đó hỏi các em: Vì sao các anh trai ganh ghét Giô-sép? Vì ganh ghét Giô-sép, họ đã làm gì?

Vì ganh ghét, chúng ta có thể làm một số việc xấu. Cho các em dựa theo gợi ý làm bài tập phần B xong, hỏi các em: Khi chúng ta cảm thấy đố kỵ, ganh ghét, sự cầu nguyện giúp chúng ta điều gì? (Cho các em trả lời). Vì sao chúng ta không nên đố kỵ người khác? (Đức Chúa Trời yêu thương mỗi người như nhau, Ngài sẵn lòng tiếp nhận mọi người vào gia đình Ngài).

BÀI 4.               GIÔ-SÉP LÀM QUAN LỚN

 

  1. KINH THÁNH: Sáng thế ký 41-46:7.
  2. CÂU GỐC: “Vậy, nhờ ơn đã ban cho tôi, tôi nói với mỗi người trong anh em chớ có tư tưởng cao quá lẽ, nhưng phải có tâm tình tầm thường, y theo lượng đức tin mà Đức Chúa Trời đã phú cho từng người” (Rô-ma 12:3).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Khi Giô-sép làm quan lớn, ông đối đãi tốt với những người đã làm hại mình. 

– Cảm nhận: Chúa muốn chúng ta sử dụng những điều mình có để giúp đỡ người khác.

– Hành động: Em quyết tâm đối đãi tốt với mọi người.

  1. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.
  2. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Cảnh ngộ của Giô-sép.

  1. Vật liệu: Trang tài liệu D trong sách học viên.
  2. Thực hiện: Hướng dẫn các em mở trang tư liệu D trong sách học viên, dựa theo gợi ý trong trang nầy sẽ biết được một số điều về Giô-sép.
  3. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Photo lớn hình vẽ trang tư liệu D trong sách giáo viên rồi tô màu cho đẹp).

  1. Vào đề.

Em từng đảm nhiệm vai trò lớp trưởng chưa? Lớp trưởng là người lãnh đạo của một lớp, phải gánh lấy một chức trách quan trọng. Thế nào là một lớp trưởng tốt? (Cho các em chia sẻ).

Trong bài học trước các em đã biết các anh của Giô-sép bán cậu cho một đoàn lái buôn đem sang Ai-cập. Hôm nay các em sẽ được biết, khi có cơ hội, Giô-sép sẽ trả thù hay là giúp đỡ các anh của mình? Các em cùng theo dõi bài học nhé.  

  1. Bài học.

Sau khi đến Ai-cập, Giô-sép bị bán cho một người tên là Phô-ti-pha, rồi lại bị bà chủ vu cáo là phạm tội, nên Giô-sép phải ở tù. Tại nhà giam, Giô-sép ở chung phòng với hai vị quan từng làm việc cho vua Ai-cập. Cả hai vị nầy đều nằm mơ thấy những giấc mơ kỳ lạ và được Giô-sép giải nghĩa giúp: Một vị quan sẽ được vua tha và một vị quan sẽ chết.

Vị quan được tha là quan tửu chánh của Pha-ra-ôn. Hai năm sau, vua nằm mơ thấy một giấc mơ kỳ lạ, không ai giải nghĩa được, quan tửu chánh sực nhớ đến Giô-sép, liền báo cho vua hay.

Giô-sép được triệu tập đến hoàng cung. Pha-ra-ôn bảo: “Ta nghe nói ngươi có khả năng giải mộng, ta có hai giấc mơ, ngươi hãy mau giải nghĩa cho ta nghe”. Giô-sép tâu: “Tâu bệ hạ, giấc mơ ấy như thế nào? Chính tôi không thể giải thích, nhưng Đức Chúa Trời sẽ giải thích mọi điều cho bệ hạ”. Các em đọc Sáng thế ký 41:17-24, xem giấc mơ của Pha-ra-ôn như thế nào? Sau khi nghe xong, Giô-sép thưa: “Tại xứ Ai-cập sẽ có bảy năm được mùa, tiếp theo sau là bảy năm đói kém”. Pha-ra-ôn liền hỏi: “Ta phải làm thế nào đây?” Giô-sép tiếp lời: “Tâu bệ hạ! Xin bệ hạ hãy chọn một người khôn ngoan và giao cho người ấy trông coi việc cung cấp lương thực. Người ấy sẽ thâu góp lương thực trong bảy năm được mùa, để cho mọi người có đủ lương thực dùng trong những năm mất mùa”. Pha-ra-ôn rất hài lòng về những lời khuyên của Giô-sép. Vua bảo: “Ngươi thật khôn ngoan, vì vậy ta đặt ngươi trông coi mọi điều cần phải làm trong toàn xứ Ai-cập, ngươi sẽ làm quan tể tướng của ta”.

Thế là trong những năm được mùa, Giô-sép thâu góp tất cả lương thực chứa vào các kho vựa trong cả nước. Khi những năm đói kém đến, rất nhiều người tìm đến Giô-sép để mua lương thực. Tại xứ Ca-na-an, nhà của cha Giô-sép cũng thiếu ăn. Gia-cốp sai các con trai đến Ai-cập để mua lương thực, nhưng giữ lại con trai út là Bên-gia-min ở nhà với mình.

Vừa nhìn thấy các anh đến mua lúa, Giô-sép đã nhận ra họ ngay, nhưng các anh không nhận ra Giô-sép. Giả vờ như không biết họ, Giô-sép hỏi: “Các ngươi là những thám tử đến đây để dòm ngó phải không?” Họ trả lời: “Chúng tôi không phải là thám tử. Chúng tôi có mười hai anh em trong một gia đình lương thiện. Hiện em út ở nhà với cha, còn một người đã mất tích”. Cuối cùng, Giô-sép quyết định giữ lại anh Si-mê-ôn, và ra lệnh cho những người khác đem lương thực về nhà, rồi dẫn em trai út là Bên-gia-min đến Ai-cập, để chứng minh họ không phải là thám tử.

Sau đó, Giô-sép dặn các đầy tớ đổ đầy lúa vào bao cho các anh, bỏ túi bạc vào bao của mỗi người, chuẩn bị đầy đủ lương thực để họ dùng dọc đường, rồi cho họ về xứ Ca-na-an. Khi về đến nhà, họ thuật lại mọi việc xảy ra cho cha nghe. Họ mở các bao lúa và phát hiện túi bạc ở trên miệng bao, mọi người đều sợ hãi. Gia-cốp không chịu để cho Bên-gia-min đi theo các anh đến Ai-cập. Ông sợ lại phải mất thêm một đứa con yêu quí nữa.

Nhưng một thời gian sau, lương thực lại cạn dần, Gia-cốp đành phải để các con dẫn Bên-gia-min đến Ai-cập. Lần nầy họ được đưa đến nhà của Giô-sép, cùng dùng bữa với ông. Si-mê-ôn cũng được thả ra. Giô-sép sắp xếp chỗ ngồi theo thứ tự tuổi tác khiến họ rất ngạc nhiên. Sau đó, Giô-sép ra lệnh cho quản gia đổ đầy lương thực vào bao và để lại bạc của họ trong bao. Các em đọc Sáng thế ký 44:2, xem thứ gì được bỏ vào trong bao của Bên-gia-min?

Mọi người vui vẻ lên đường, nhưng họ đi chưa được bao lâu, quản gia của Giô-sép đuổi theo hét lớn: “Sao các ngươi dám lấy cắp chén bạc của chủ ta? Nếu ta tìm thấy chén bạc trong bao của ai thì người đó sẽ làm nô lệ cho chủ ta”. Họ lần lượt mở bao ra, cuối cùng phát hiện cái chén bạc ở trong bao của Bên-gia-min!

Các anh đều quay trở lại cùng với Bên-gia-min. Giô-sép nhìn thấy họ liền nói: “Ai đã lấy chén bạc của ta thì phải ở lại làm nô lệ, còn những người khác đều có thể trở về”. Nhưng Giu-đa thưa rằng: “Nếu quan giữ Bên-gia-min lại, cha chúng tôi sẽ chết vì đau khổ. Xin hãy để tôi làm nô lệ thế cho em tôi”. Giô-sép rất xúc động khi nghe như vậy. Ông biết các anh mình đã thực sự thay đổi, liền ra lệnh cho tất cả đầy tớ rời khỏi phòng. Các em đọc Sáng thế ký 45:3, xem chuyện gì xảy ra tiếp sau đó.

Lúc đầu các anh đều rất sợ hãi, nhưng khi Giô-sép nói rằng, Đức Chúa Trời đưa ông đến Ai-cập, để có cơ hội giúp đỡ gia đình tốt hơn thì các anh đều rất vui mừng. Giô-sép bảo các anh trở về đón cha và cả gia đình đến Ai-cập sinh sống. Các em thử tưởng tượng xem, Gia-cốp vui mừng như thế nào khi biết Giô-sép vẫn còn sống, ông liền theo các con đến sống ở Ai-cập.          

  1. Ứng dụng.

Cho các em mở sách học viên bài 4, dựa theo gợi ý làm bài tập đúng hoặc sai. Sau đó hỏi các em: Giô-sép không dùng quyền lực để hãm hại các anh của mình, như vậy, Giô-sép đã làm gì cho các anh? Em học được gương tốt của Giô-sép trong việc đối đãi với người khác như thế nào? (Tha thứ lỗi lầm của người khác, sử dụng khả năng hoặc chức vụ của mình để giúp đỡ người khác).

Giô-sép yêu thương các anh mình, sẵn lòng tha thứ mọi việc làm sai trái của họ. Đức Chúa Trời cũng yêu thương chúng ta, Ngài sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta. Ngài muốn chúng ta trở nên một thành viên trong nhà Ngài.   

 

 

 

BÀI 5.                   SỰ RA ĐỜI CỦA MÔI-SE

 

  1. KINH THÁNH: Xuất Ê-díp-tô ký 1-2:15.
  2. CÂU GỐC: “Người khôn ngoan thấy điều tai vạ, và ẩn mình; nhưng kẻ ngu muội cứ đi luôn, và mắc phải vạ” (Châm ngôn 22:3).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Mẹ và chị của Môi-se tìm đủ mọi cách để cứu Môi-se thoát khỏi tình huống đáng sợ lúc bấy giờ.

– Cảm nhận: Trong mọi tình huống em phải nhờ Chúa giúp đỡ để có những quyết định khôn ngoan.

– Hành động: Vạch ra phương cách để đối phó với những cảnh ngộ đáng sợ trong sự hướng dẫn của Lời Chúa.

  1. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.
  2. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Dễ dàng như 1, 2, 3.

  1. Vật liệu: Trang tư liệu E trong sách học viên.
  2. Thực hiện: Giáo viên nói với các em: Tục ngữ có câu: Dễ như đếm 1, 2, 3 vậy! Bây giờ các em mở trang tư liệu E trong sách học viên, dựa theo gợi ý để hoàn tất phần nầy bằng cách, từ trong những con số 1, 2, 3, tìm ra 3 lời giải thích danh từ riêng để hiểu rõ bài học hơn.
  3. BÀI HỌC KINH THÁNH.

 (Chuẩn bị thị trợ: Photo lớn trang tư liệu E trong sách giáo viên rồi tô màu cho đẹp).

  1. Vào đề.

Có khi nào các em gặp phải tình huống đáng sợ chưa? Em ứng phó với những điều đó như thế nào? (Cho các em trả lời).

Hôm nay các em sẽ được nghe câu chuyện về một người mẹ và con gái của bà đã có những cách khôn ngoan để bảo vệ cậu trai bé bỏng vừa mới ra đời.

  1. Bài học.

Trước khi bắt đầu bài học hôm nay, chúng ta cùng nhớ lại câu chuyện tuần trước về Giô-sép. Sau khi đến Ai-cập để nương tựa vào Giô-sép trong những năm đói kém, cả nhà cha và các anh của Giô-sép ở luôn tại đó. Họ được vua Ai-cập hậu đãi vì công lao của Giô-sép đối với đất nước nầy. Thời gian trôi qua, Giô-sép và các anh của mình lần lượt qua đời. Con cháu của họ ngày càng đông đúc, trở thành một dân cường thịnh trong xứ Ai-cập.

Khi ấy, tại Ai-cập có một vị vua mới lên ngôi. Vua nầy không biết gì về Giô-sép. Thấy dân Y-sơ-ra-ên đông đúc, mạnh mẽ, vua sợ họ liên kết với kẻ thù rồi chiếm lấy xứ mình. Vì thế, vua ngăn cản việc sinh sản của họ bằng cách bắt họ làm việc nặng nhọc đến kiệt sức. Nhưng càng bị ngược đãi, dân số Y-sơ-ra-ên lại ngày càng gia tăng. Điều đó khiến dân Ai-cập càng thêm sợ hãi. Vị vua độc ác còn ra lệnh: “Hãy giết tất cả các bé trai mới sinh của dân Y-sơ-ra-ên”. Vua tin rằng, với kế hoạch nầy, dân số Y-sơ-ra-ên sẽ giảm bớt.

Có một gia đình Y-sơ-ra-ên vừa sinh được một bé trai. Họ giấu không cho lính Ai-cập biết điều đó. Nhưng sau ba tháng, tiếng khóc của đứa bé ngày càng to, xem ra không thể giấu lâu hơn được nữa rồi!

Thế rồi người mẹ là Giô-kê-bết nghĩ ra một cách để bảo toàn đứa bé. Các em đọc Xuất Ê-díp-tô ký 2:3, xem bà nghĩ ra cách gì? Cây mây, dầu chai và nhựa thông là gì? (Các em làm xong phần “Sinh hoạt đầu giờ” có thể chia sẻ). Chị của đứa bé là Mi-ri-am nhận nhiệm vụ canh giữ cái rương đó.

Mi-ri-am núp sau đám sậy nơi mé sông cẩn thận canh giữ em. Nhưng bỗng cô hoảng hốt vì tiếng cười nói xôn xao. Mi-ri-am không tin vào mắt mình, công chúa và các nàng hầu đang đi đến tắm nơi mé sông nầy. Tim Mi-ri-am đập nhanh khi nghe công chúa nói: “Xem kìa, có một cái rương mây trong đám sậy, hãy mang nó lại đây”. Các nàng hầu lội xuống nước, vớt cái cái rương lên, đem đến cho công chúa. Mở ra, thấy một chú bé đang khóc. Công chúa động lòng thương xót, ẵm đứa bé lên, dịu dàng bảo: “Tội nghiệp em bé, chắc nó là con của một người Y-sơ-ra-ên”.

Ánh mắt nhân từ của công chúa làm cho Mi-ri-am thêm can đảm. Cô bé bước ra, hỏi: “Công chúa có cần vú nuôi để chăm sóc em bé không?” Công chúa nói: “Được, hãy đi tìm giúp ta”. Mi-ri-am chạy vội về nhà dắt mẹ đến. Công chúa nói với bà Giô-kê-bết: “Ta sẽ trả tiền công chăm sóc đứa bé nầy. Khi đứa bé lớn lên, nó sẽ vào hoàng cung ở và được xem như con của ta. Ta đặt tên nó là Môi-se”.

Sung sướng quá, bà Giô-kê-bết và Mi-ri-am ẵm em bé về nhà nuôi nấng. Môi-se dần lớn lên, vào cung điện sống với công chúa. Tuy được nuôi dạy như một hoàng tử Ai-cập, nhưng Môi-se vẫn nhớ những lời dạy dỗ của mẹ từ thuở ấu thơ, vẫn hiểu rõ mình là người Y-sơ-ra-ên. Thấy người Ai-cập đánh người Y-sơ-ra-ên, Môi-se nhìn quanh tưởng không có ai chú ý liền giết người Ai-cập, và đem xác vùi dưới cát.

Hôm sau, thấy hai người Y-sơ-ra-ên đánh nhau, Môi-se nói với họ: “Sao các anh lại đánh nhau? Các anh đều là người Y-sơ-ra-ên cả mà!” Một người cãi lại: “Ngươi tưởng mình là ai? Có phải ngươi muốn giết ta giống như đã giết người Ai-cập hôm qua chăng?”

Môi-se lo sợ sẽ bị Pha-ra-ôn giết khi vua biết chuyện nầy, nên trốn sang đồng vắng xứ Ma-đi-an để bảo toàn tính mạng.

  1. Ứng dụng.

Cho các em mở bài 5 sách học viên ra, dựa theo gợi ý làm bài tập phần A, sau đó hỏi các em: Mẹ và chị của Môi-se đã dùng phương cách gì để bảo toàn tính mạng của Môi-se?

Câu chuyện Kinh Thánh hôm nay cho chúng ta thấy trong tình huống đáng sợ, mẹ và chị của Môi-se đã đưa ra ứng phó chính xác.

Có lúc chúng ta đối mặt với một số việc khiến chúng ta lo sợ. Ví dụ: Em lo sợ ngày mai kiểm tra môn toán. Tùy theo cách mà em lựa chọn sẽ đem lại kết quả khác nhau. Giáo viên hướng dẫn các em làm bài tập phần B, sau đó hỏi các em: Làm thế nào có thể có cách giải quyết chính xác trong tình huống đáng sợ? (Vâng theo sự dạy bảo của Lời Chúa).    

 

 

 

 

BÀI 6.      ĐỨC CHÚA TRỜI GIÁNG TAI VẠ XUỐNG AI-CẬP

 

  1. KINH THÁNH: Sáng thế ký 3-10.
  2. CÂU GỐC: “Trong ngày sợ hãi, tôi sẽ để lòng nhờ cậy nơi Chúa …Người xác thịt sẽ làm chi tôi?” (Thi-thiên 56:3,4).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Dù sợ hãi, nhưng Môi-se vẫn tin cậy, vâng lời Đức Chúa Trời đến gặp Pha-ra-ôn.

– Cảm nhận: Tin cậy nơi Chúa sẽ giúp em thắng được sợ hãi.

– Hành động: Em hết lòng tin cậy, vâng lời Đức Chúa Trời. 

  1. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.
  2. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Lúc lo sợ.

  1. Mục đích: Gợi mở sự suy nghĩ của các em để đi vào chủ đề của bài nầy.
  2. Thực hiện: Giáo viên nói với các em: Có những lúc các em cảm thấy lo sợ. Ví dụ: (1) Khi thầy, cô mời em đọc một bài thơ hoặc hát lúc sinh hoạt đầu giờ. (2) Khi trái banh của em bị rơi vào trong vườn có chó dữ. Trong tình huống nầy, em lo sợ chuyện gì sẽ xảy ra? (Để các em chia sẻ).
  3. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị thị trợ: Photo lớn trang tư liệu G trong sách giáo viên rồi tô màu cho đẹp).

  1. Vào đề.

Các em có nhận thấy rằng, có những người em cảm thấy gần gũi, dễ nói chuyện với họ, nhưng cũng có những người em cảm thấy xa cách, rất khó nói chuyện. Vì sao như vậy?

Kinh Thánh có kể về một người, Đức Chúa Trời bảo ông đi một mình đến nói chuyện với một người khác, nhưng ông lại sợ hãi. Ông là ai? Đức Chúa Trời bảo ông làm gì? Theo dõi bài học nầy, các em sẽ biết rõ hơn.

  1. Bài học.

Tuần trước các em đã nghe kể về Môi-se. Vì giết một người Ai-cập, nên ông phải chạy vào đồng vắng ẩn náu. Rồi Môi-se trở thành người chăn chiên, tiếp tục cư ngụ tại vùng đồi núi.

Một ngày nọ, khi bầy chiên đang ăn cỏ bên sườn núi, Môi-se nhìn thấy một bụi gai cháy mãi không tàn. Bỗng, ông nghe một giọng nói vang ra từ bụi gai: “Hỡi Môi-se, hãy cởi giày ra, vì đây là đất thánh”. Biết Chúa đang phán với mình, Môi-se lập tức làm theo. Chúa lại phán: “Ta đã thấy Pha-ra-ôn áp bức dân Y-sơ-ra-ên, ta đã nghe tiếng thở than, khóc lóc của dân sự. Ta sẽ giải cứu dân ta khỏi ách nô lệ. Ngươi hãy dẫn họ ra khỏi Ai-cập để vào vùng đất mà ta hứa ban cho dòng dõi Áp-ra-ham”. Môi-se rất sợ hãi khi nghe Chúa bảo như vậy. Ông thưa: “Con là ai mà dám bảo Pha-ra-ôn để cho dân Y-sơ-ra-ên đi? Mọi người sẽ không nghe lời con nói”. Đức Chúa Trời hứa với Môi-se: “Ta sẽ ở cùng con và để A-rôn, anh con cùng đi với con”.

Môi-se và A-rôn đến xin gặp vua Ai-cập. Họ tâu rằng: “Đức Chúa Trời muốn bệ hạ cho phép dân Y-sơ-ra-ên tự do đi khỏi xứ nầy”. Pha-ra-ôn giận dữ nói lớn: “Trẫm chẳng biết Đức Chúa Trời nào hết và cũng chẳng cho dân Y-sơ-ra-ên đi đâu cả. Họ sẽ phải làm việc nhọc nhằn hơn nữa”.

Thế là vua ban một lệnh mới cho các đốc công Ai-cập: “Đừng phát rơm để làm gạch, dân Y-sơ-ra-ên phải tự đi kiếm lấy, nhưng vẫn phải giữ đúng số lượng gạch sản xuất như cũ”. Dân Y-sơ-ra-ên oán giận Môi-se và A-rôn đã làm cho cuộc sống họ khốn khổ hơn. Môi-se cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời, Ngài lại sai họ đến gặp Pha-ra-ôn lần nữa.

Môi-se và A-rôn trở lại báo cho vua biết rằng, nếu vua không vâng lời Đức Chúa Trời, thả dân Y-sơ-ra-ên đi, thì những tai họa kinh khiếp sẽ giáng xuống xứ Ai-cập. Nhưng Pha-ra-ôn vẫn không đếm xỉa gì đến điều đó. Theo lệnh của Đức Chúa Trời, Môi-se đập cây gậy xuống bờ sông. Thật lạ lùng! Nước dưới sông bỗng biến thành huyết. Tất cả tôm cá dưới sông đều chết hết, dân chúng không thể uống nước sông nầy được.

Rồi ếch nhái nhảy khỏi dòng nước hôi thối, đi khắp nơi. Chúng nhảy vào trong nhà, lên gường ngủ, vào bếp lò, thậm chí trong hoàng cung cũng đầy dẫy ếch nhái. Pha-ra-ôn cho gọi Môi-se đến, nói: “Trẫm đã sai rồi. Đức Chúa Trời của các ngươi là công bình. Ngươi hãy cầu nguyện xin Đức Chúa Trời ngưng các tai vạ, trẫm sẽ lập tức tha dân Y-sơ-ra-ên đi”. Môi-se cầu nguyện với Đức Chúa Trời thì ếch nhái trong xứ Ai-cập liền chết hết. Nhưng vua lại đổi ý, không cho dân Y-sơ-ra-ên đi.

Đức Chúa Trời lại làm cho khắp xứ Ai-cập đầy dẫy muỗi, rồi đến ruồi khiến cho dân Ai-cập và súc vật khổ sở vô cùng. Sau đó, vô số súc vật bị chết vì bệnh; rồi đến người lại bị ung nhọt, đau đớn, ngứa ngáy. Tiếp sau đó là những cục mưa đá rớt xuống gây hư hại hoa màu trên đồng ruộng.

Các em ơi, đến lúc nầy, Đức Chúa Trời đã giáng bao nhiêu tai vạ xuống cho dân Ai-cập rồi? (Cho các em sử dụng hình vẽ Kinh Thánh, đếm những tai vạ đã giáng xuống).

Pha-ra-ôn lại gọi Môi-se đến cầu nguyện xin Đức Chúa Trời ngưng tai vạ, vua sẽ tha cho dân Y-sơ-ra-ên đi. Nhưng khi Đức Chúa Trời cho ngưng mưa đá, vua lại không giữ lời hứa.

Vì thế, Đức Chúa Trời khiến vô số cào cào bay đến xứ Ai-cập, phá hại mùa màng. Pha-ra-ôn lại nhờ Môi-se cầu nguyện xin Đức Chúa Trời đuổi tất cả cào cào đi, thì vua sẽ cho dân Y-sơ-ra-ên tự do. Nhưng rồi vua cũng không giữ lời hứa.

Đức Chúa Trời lại giáng tai vạ tối tăm xuống. Suốt ba ngày, cả xứ Ai-cập chìm trong bóng đen, trời tối như mực. Nhưng tại Gô-sen, dân Y-sơ-ra-ên được bảo vệ an toàn khỏi những tai họa nầy.

Pha-ra-ôn lại gọi Môi-se đến thương lượng, nhưng thất bại. Vua tức giận quát lên: “Hãy đi cho khuất mắt ta! Ta không bao giờ muốn thấy ngươi nữa”.

Phải gặp Pha-ra-ôn có tấm lòng cứng cỏi để đàm phán không phải là việc dễ dàng đối với Môi-se. Nhưng ông biết Đức Chúa Trời ở cùng ông, ông tin cậy nơi Ngài nên không sợ hãi.      

  1. Ứng dụng.

Cho các em mở bài 6 sách học viên ra, dựa theo gợi ý làm bài tập phần A, để ôn lại trọng điểm của câu chuyện nầy.

Có những lúc các em tin cậy hoàn toàn vào Đức Chúa Trời, nhưng có khi lại không thể. Vì thế, các em làm bài tập “kiểm tra sự tin cậy”, rồi cùng nhau thảo luận: Làm thế nào để luôn tin cậy nơi Đức Chúa Trời? (Giáo viên hướng dẫn các em nhận biết Đức Chúa Trời và Lời Ngài giúp cho em luôn hết lòng tin cậy Ngài).     

 

 

 

 

BÀI 7.                      LỄ VƯỢT QUA

 

  1. KINH THÁNH: Xuất Ê-díp-tô ký 11-15:18.
  2. CÂU GỐC: “Tôi sẽ hằng gìn giữ luật pháp Chúa… Vì đã tìm kiếm các giềng mối Chúa” (Thi-thiên 119:44-45).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Môi-se và dân chúng làm theo sự chỉ dẫn của Chúa và được sự bình an, vui mừng.

– Cảm nhận: Vâng theo Lời Chúa sẽ có được sự bình an, vui mừng.

– Hành động: Cầu xin Chúa giúp em biết vâng theo sự chỉ dẫn của Ngài.

  1. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.
  2. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Tổ hợp tư liệu.

  1. Vật liệu: Trang tư liệu G, sách học viên.
  2. Thực hiện: Cho các em biết lễ Vượt Qua là lễ quan trọng của người Do-thái. Vào bữa tối lễ Vượt Qua, họ ăn một số thức ăn đặc biệt, và mỗi loại thức ăn đều có ý nghĩa riêng.

Chia các em thành hai nhóm, và hướng dẫn các em mở ra trang tư liệu G trong sách học viên. Theo sự chỉ dẫn của trang nầy, nhóm thứ nhất làm từ câu 1-3, nhóm thứ hai làm câu 4-5. Các tư liệu sẽ được chia sẻ trong phần dạy bài. 

  1. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị thị trợ: Photo lớn trang tư liệu H trong sách giáo viên rồi tô màu cho đẹp).

  1. Vào đề.

Các em thử nghĩ xem mỗi ngày có những việc nào em phải làm theo sự chỉ dẫn? (Cho các em chia sẻ).

Bài học trước các em đã biết vì cớ Pha-ra-ôn không để cho dân Y-sơ-ra-ên ra đi, nên Đức Chúa Trời đã giáng chín tai vạ xuống Ai-cập. Bài học hôm nay sẽ cho các em biết Đức Chúa Trời ban cho dân Y-sơ-ra-ên một chỉ thị đặc biệt, và bảo họ phải vâng giữ.

  1. Bài học.

Đức Chúa Trời bảo Môi-se và A-rôn đến cảnh báo cho Pha-ra-ôn biết: “Tối nay, khoảng nửa đêm, các con trai đầu lòng của người Ai-cập đều sẽ chết”. Đây là cơ hội để Pha-ra-ôn có thể đổi ý, nhưng thật đáng tiếc, vua lại không thèm nghe.

Đức Chúa Trời nói cùng Môi-se rằng, dân Y-sơ-ra-ên sẽ được bảo vệ khỏi tai họa cuối cùng nầy, nhưng họ phải làm theo lời chỉ dẫn của Ngài do Môi-se truyền lại. Môi-se triệu tập dân chúng lại và dặn bảo: “Mỗi gia đình phải giết một con chiên đực vừa giáp năm, không có tì vít gì, rồi lấy huyết bôi lên hai cây cột và đà cửa. Huyết trên cửa sẽ là dấu để Đức Chúa Trời biết các ngươi vâng lời Ngài và thiên sứ sẽ vượt qua, không giết con đầu lòng”. Đây thật là một chỉ thị kỳ lạ! Môi-se nói tiếp: “Phải chuẩn bị một bữa ăn tối đặc biệt. Các ngươi phải quay thịt chiên con trên lửa, ăn chung với bánh không men (không có bột nổi) và rau đắng”.

Các em ơi, bữa tối lễ Vượt Qua có thức ăn gì đặc biệt? Chúng có ý nghĩa gì? (Cho các em làm xong phần “Sinh hoạt đầu giờ” trả lời).

Môi-se lại nói tiếp: “Còn một việc nữa, đó là lúc ăn, phải thắt dây lưng, chân mang giày, tay cầm gậy, ăn hối hả”. Dân Y-sơ-ra-ên chăm chú nghe những lời Môi-se truyền dạy. Đức Chúa Trời muốn dân sự của Ngài ghi nhớ đêm đặc biệt nầy để kỷ niệm Đức Chúa Trời đã giải cứu họ. Bữa ăn nầy được gọi là bữa tiệc lễ Vượt Qua. 

Dân Y-sơ-ra-ên làm đúng theo lời Đức Chúa Trời phán dặn. Lấy huyết chiên con bôi lên hai cây cột và đà cửa, vội vàng ăn bữa tối lễ Vượt Qua rồi chờ đợi. Đến nửa đêm, bỗng tiếng kêu khóc khủng khiếp phá tan sự tĩnh lặng của đêm khuya. Tất cả con trai đầu lòng của những gia đình không bôi huyết chiên con trước cửa đều bị chết, cả đến súc vật cũng vậy. Khắp xứ Ai-cập, từ thành thị đến làng quê, từ cung vua cho đến nhà dân đều ở trong cảnh tang tóc. Nhưng những gia đình Y-sơ-ra-ên vẫn bình an vô sự, vì họ tin cậy Chúa, vâng theo sự chỉ dẫn của Ngài.

Ngay trong đêm đó, Pha-ra-ôn cho đòi Môi-se và A-rôn vào cung. Các em đọc Xuất Ê-díp-tô ký 12:31, xem Pha-ra-ôn nói gì với họ?

Lập tức, Môi-se truyền lệnh cho dân Y-sơ-ra-ên nhanh chóng rời khỏi Ai-cập. Bột nhồi chưa kịp làm bánh họ phải gói theo trong những mảnh vải. Mọi người đều vui mừng, họ bắt đầu cuộc hành trình dưới sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời.

Sau đó, Pha-ra-ôn cảm thấy hối tiếc vì để cho dân Y-sơ-ra-ên ra đi. Vua muốn họ trở về, tiếp tục làm nô lệ cho đất nước Ai-cập. Việc đầu tiên bây giờ là phải đuổi theo, bắt họ trở về. Vua ra lệnh cho quân lính chuẩn bị ngựa xe đuổi theo dân Y-sơ-ra-ên. Khi phát hiện quân Ai-cập đang đuổi theo, dân Y-sơ-ra-ên rất sợ hãi. Họ không biết phải làm sao bây giờ vì trước mặt là biển, sau lưng là quân Ai-cập! Dân chúng vây quanh Môi-se và than khóc: “Tại sao ông dẫn chúng tôi ra khỏi Ai-cập để chúng tôi phải chết nơi nầy?” Môi-se an ủi họ: “Đừng sợ, Đức Chúa Trời sẽ giải cứu chúng ta thoát khỏi người Ai-cập”.

Đức Chúa Trời bảo Môi-se đưa cây gậy trên mặt biển. Một trận gió đông thổi mạnh, khiến nước biển rẽ ra, dạt thành hai tấm vách hai bên, tạo ra một lối đi khô ráo ngang qua biển. Dân Y-sơ-ra-ên nhanh chóng đi qua biển Đỏ như đi trên đất khô.

Quân Ai-cập cũng truy đuổi dân Y-sơ-ra-ên theo con đường đó. Khi tất cả dân Y-sơ-ra-ên đã lên bờ, Môi-se liền đưa cây gậy trên mặt biển, nước chảy lại như cũ, cả đoàn quân Ai-cập đều bị chìm dưới lòng biển sâu.

Đức Chúa Trời đã giúp đỡ Môi-se dẫn dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập bình an. Môi-se và cả dân Y-sơ-ra-ên cùng vui mừng ca ngợi Ngài. 

  1. Ứng dụng.

Cho các em mở bài 7 sách học viên ra, theo gợi ý làm bài tập phần A, rồi hỏi các em: Lễ kỷ niệm Đức Chúa Trời dẫn dắt dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập là lễ gì? (Lễ Vượt Qua).

Theo em trong các Điều Răn của Đức Chúa Trời, có điều nào là khó vâng giữ? (Cho các em trả lời). Sau đó hướng dẫn các em làm bài tập phần B, rồi cho các em thảo luận: Làm thế nào để có thể vâng lời Đức Chúa Trời? (Cầu xin Đức Chúa Trời giúp đỡ).  

 

 

BÀI 8.                       NƯỚC RA TỪ HÒN ĐÁ

 

  1. KINH THÁNH: Xuất Ê-díp-tô ký 16-17:7.
  2. CÂU GỐC: “Còn tôi kêu cầu cùng Đức Chúa Trời… Ngài ắt sẽ nghe tiếng tôi” (Thi-thiên 55:16,17).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Bị dân sự oán trách, Môi-se kêu cầu Đức Chúa Trời và Ngài bảo Môi-se đập hòn đá cho nước chảy ra.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời luôn chăm sóc chúng ta, vì vậy, khi gặp khó khăn, hãy kêu cầu Ngài.

– Hành động: Xin Chúa giúp em biết kêu cầu cùng Ngài khi gặp khó khăn chứ không oán trách người khác.

  1. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.
  2. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Sự cần thiết của nước.

  1. Vật liệu: Bảng đen, bút.
  2. Thực hiện: Hỏi các em: Nước có công dụng gì trong đời sống hằng ngày? (Cho các em kể ra công dụng của nước. Ví dụ: Tắm giặt, ăn uống v.v… Giáo viên viết tất cả lên bảng đen). Khi thiếu nước dùng, em nghĩ rằng chúng ta phải bớt đi hạng mục nào? (Cho các em nói ra cách nghĩ của mình).
  3. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị thị trợ: Photo lớn trang tài liệu I trong sách giáo viên rồi tô màu cho đẹp).

  1. Vào đề.

Có bao giờ các em ở trong những cảnh ngộ khốn khổ và phải oán trách không? Câu chuyện Kinh Thánh hôm nay kể về một số người luôn nói lời oán trách với con người, mà không kêu cầu cùng Đức Chúa Trời là Đấng có thể giải quyết mọi việc cách thỏa đáng. Các em cùng lắng nghe câu chuyện nầy nhé.  

  1. Bài học.

Sau khi vượt qua Biển Đỏ bình an, dân Y-sơ-ra-ên tiếp tục đi về vùng đất mà Đức Chúa Trời hứa ban cho. Thế nhưng họ đang phải băng qua sa mạc chỉ toàn cát và đá, khó có thể tìm được nguồn nước ở nơi nầy. Lương thực họ mang theo cũng đã cạn kiệt. Giữa sa mạc mênh mông nầy không thể mua thực phẩm được. Dân chúng bắt đầu oán trách Môi-se và A-rôn! Các em đọc Xuất Ê-díp-tô ký 16:3, xem dân Y-sơ-ra-ên nói những lời oán trách gì với Môi-se và A-rôn?

Môi-se đem những lời oán trách của dân sự đến thưa cùng Đức Chúa Trời, và Ngài dạy cho ông cách giải quyết. Ông nói với dân sự: “Đức Chúa Trời phán rằng, Ngài đã nghe lời oán trách của các ngươi. Chiều nay Ngài sẽ cho mọi người có thịt ăn, và sáng mai sẽ có bánh ăn dư dật. Các ngươi sẽ nhận biết Ngài chính là Đức Chúa Trời của các ngươi”.

Chiều hôm đó chim cút bay đến đen nghịt cả bầu trời. Chúng bao phủ khắp các lều trại của dân Y-sơ-ra-ên, chỉ cần quơ tay ra là có thể bắt được chúng. Dân Y-sơ-ra-ên rất vui mừng, ai nấy đều có thể thưởng thức mùi vị thơm ngon của thịt chim cút cách thỏa thuê.

Sáng sớm hôm sau, việc đáng kinh ngạc nữa lại xảy ra. Dân sự nhìn thấy trên mặt đất xung quanh lều trại đều phủ một lớp sương trắng xóa. Khi sương đã tan, có cái gì đó màu trắng, sáng lóng lánh nằm trên khắp mặt đất. Mọi người hỏi lẫn nhau: “Đây là cái gì?”. Môi-se bảo: “Đây là bánh Đức Chúa Trời ban cho chúng ta!” Họ nếm thử, thấy có vị ngọt như bánh có pha mật ong. Họ không biết đó là cái gì nên gọi là Ma-na (Có nghĩa là “cái chi vậy?”).

Các em đọc Xuất Ê-díp-tô ký 16:16-17, xem Đức Chúa Trời chỉ dạy dân Y-sơ-ra-ên như thế nào trong việc thu lượm Ma-na? Xem ra, dân chúng đều vâng theo lời phán dặn của Chúa, nhưng cũng có vài người đã dự trữ Ma-na dành cho ngày mai. Đức Chúa Trời khiến cho những Ma-na ấy hóa sâu, hư thối hết, vì Chúa muốn dân sự tin cậy và vâng lời Ngài.

Đức Chúa Trời cũng muốn nhắc dân Y-sơ-ra-ên đừng quên sự chăm sóc của Ngài đối với họ. Đức Chúa Trời bảo Môi-se lấy một ôme Ma-na đựng trong một cái bình để con cháu họ có thể thấy Ngài đã yêu thương và chăm sóc tổ phụ họ như thế nào trong đồng vắng.

Dân sự tiếp tục cuộc hành trình. Không bao lâu sau, họ lại phải đối mặt với một khó khăn khác, đó là không có nước. Dân chúng cãi lộn với Môi-se, đòi ông phải cho họ nước uống, nhưng họ không nhớ đến Đức Chúa Trời, Đấng cung ứng mọi cần dùng cho họ.

Các em đọc Xuất Ê-díp-tô ký 17:3, xem dân chúng nói gì với Môi-se? Sau đó, Môi-se cầu hỏi Đức Chúa Trời: “Con có thể làm gì cho đoàn dân nầy?” Đức Chúa Trời phán: “Hãy cầm lấy cây gậy của ngươi rồi cùng các trưởng lão đi tới hòn đá mà ta sẽ chỉ cho, hãy đập cây gậy vào hòn đá ấy”. Môi-se làm theo như lời Đức Chúa Trời phán. Khi ông giơ cây gậy đập hòn đá, nước liền phun ra như suối. Dân sự mừng rỡ, uống nước chảy ra từ hòn đá.

Môi-se gọi nơi đó là “Ma-sa”, có nghĩa là ướm thử, còn dân sự gọi nơi đó là “Mê-ri-ba”, có nghĩa là cãi lộn, vì dân chúng cãi lộn tại nơi đó và ướm thử Đức Chúa Trời có thật sự chăm sóc họ không?

  1. Ứng dụng.

Cho các em mở bài 8 sách học viên ra, dựa theo gợi ý làm bài tập phần A. Sau đó hỏi các em: Trong sa mạc, dân Y-sơ-ra-ên có cầu xin Đức Chúa Trời ban cho họ thức ăn và nước uống không? Họ đã dùng cách gì để biểu đạt nhu cầu của họ? (Cho các em trả lời).

Giáo viên nói với các em: Dân Y-sơ-ra-ên luôn lằm bằm oán trách tại đồng vắng, sai lầm của họ ở đâu? (Khi gặp khó khăn, họ dùng sự trách móc để thay thế cho việc cầu xin Đức Chúa Trời. Các em có phạm sai lầm tương tự như vậy không?     

 

 

 

 

 

BÀI 9.            ĐỨC CHÚA TRỜI BAN MƯỜI ĐIỀU RĂN

 

  1. KINH THÁNH: Xuất Ê-díp-tô ký 19-20.
  2. CÂU GỐC: “Lời Chúa là ngọn đèn cho chân tôi, ánh sáng cho đường lối tôi” (Thi-thiên 119:105).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Đức Chúa Trời ban Mười điều răn cho dân Y-sơ-ra-ên để làm chuẩn mực cho đời sống họ.

– Cảm nhận: Vâng giữ Điều răn của Đức Chúa Trời, là sống đẹp lòng Ngài.

– Hành động: Em quyết tâm vâng theo Điều răn của Đức Chúa Trời. 

  1. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.
  2. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Đại loạn trong lớp học.

  1. Học liệu: Trang tư liệu H trong sách học viên, bút.
  2. Thực hiện: Trước hết hỏi các em: Trong lớp học của em ở trường có những qui tắc gì mà em phải vâng giữ? Nếu trong lớp không có nội qui, em nghĩ sẽ như thế nào? (Cho các em trả lời). Sau đó hướng dẫn các em mở trang tư liệu H trong sách học viên, dựa theo gợi ý để hoàn tất phần nầy.
  3. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị thị trợ: Photo lớn trang tài liệu J trong sách giáo viên rồi tô màu cho đẹp).

  1. Vào đề.

Em thử suy nghĩ nếu chúng ta không phải vâng giữ một luật lệ nào thì tốt hay là không tốt? Chúng ta sẽ sống tự do thoải mái hay là mọi việc sẽ rối loạn cả lên? Trong một ngày, em có bao nhiêu qui tắc phải vâng giữ? (Cho các em tự do chia sẻ). Khi em chơi một trò chơi nào đó, nếu không có luật chơi, nhất định sẽ gây ra tranh cãi.

Ngày xưa Đức Chúa Trời cũng đã ban cho dân Y-sơ-ra-ên những qui tắc đặc biệt để vâng giữ. Những qui tắc đó cũng là cơ sở pháp luật ngày nay của chúng ta.  

  1. Bài học.

Dân Y-sơ-ra-ên đi đến chân núi Si-nai và đóng trại tại đó. Đức Chúa Trời gọi Môi-se lên núi và phán dặn: “Con hãy thuật lại cho dân Y-sơ-ra-ên nghe những lời mà ta phán với con trong thì giờ nầy”. Môi-se chăm chú nghe những lời Đức Chúa Trời phán dạy, rồi vội vàng xuống núi mời các trưởng lão Y-sơ-ra-ên đến. Các em đọc Xuất 19:4-6, xem Đức Chúa Trời phán dạy dân Y-sơ-ra-ên điều gì? Sau khi nghe xong, mọi người đồng thanh đáp: “Chúng tôi xin làm mọi việc Đức Chúa Trời đã dạy bảo”.

Môi-se trình những lời đó lên cho Đức Chúa Trời. Ngài hứa với Môi-se: “Ta sẽ đến cùng con trong đám mây dày đặc, để dân sự sẽ nghe tiếng ta nói với con, và sẽ luôn tin tưởng nơi con”. Đức Chúa Trời cũng cho biết, dân sự phải chuẩn bị thật tốt cho việc Ngài đến.

Thế là, mọi người trong dân Y-sơ-ra-ên đều giữ mình thanh sạch, giặt áo xống, chuẩn bị đón tiếp Đức Chúa Trời. Môi-se cũng bảo dân sự phải vạch đường ranh giới chung quanh núi như lời Đức Chúa Trời phán dặn. Ông nói với dân sự: “Không ai được vượt qua ranh giới. Phải cẩn thận, không ai được leo lên núi. Nếu ai chạm đến ranh giới cũng phải tội chết. Chỉ khi nào có tiếng kèn thổi lên mọi người mới được phép đến gần chân núi”.

Đến sáng ngày thứ ba, mọi người run sợ khi chớp nhoáng, sấm sét nổi lên, một đám mây mù mịt bao trùm lấy núi, tiếng kèn thổi lên vang động. Môi-se dẫn dân sự ra khỏi trại, đứng dưới chân núi nghênh đón Đức Chúa Trời. Lúc nầy mây bao phủ núi biến thành khói bốc lên cuồn cuộn, bởi vì Đức Chúa Trời giáng xuống trên núi. Tiếng kèn càng lúc càng vang rền khiến dân chúng run rẩy, sợ hãi. Môi-se thưa chuyện với Đức Chúa Trời, Ngài đáp lời ông, tiếng vang như sấm. Đức Chúa Trời bảo Môi-se lên núi để nghe Ngài phán dạy. Một lần nữa, Đức Chúa Trời phán cùng Môi-se rằng: “Con xuống núi nghiêm cấm dân chúng không được vượt qua ranh giới tìm xem Đức Chúa Trời, vì như thế họ phải chết”.

Môi-se lại căn dặn dân sự một lần nữa về việc không được vượt qua ranh giới. Ông vừa dứt lời, thì một giọng nói oai nghi, vang rền được truyền ra từ làn khói bao phủ núi Si-nai. Các em đọc Xuất 20:1-3, xem Đức Chúa Trời bắt đầu phán điều gì với dân chúng? Đây là điều thứ nhất trong bốn Điều răn đầu, Đức Chúa Trời dạy bảo dân sự phải tôn thờ Ngài như thế nào. Ngoài ra, Đức Chúa Trời còn phán dặn họ: “Không được làm tượng chạm và thờ lạy bất cứ thần tượng nào; không được lấy danh của Đức Chúa Trời mà làm chơi và giữ ngày sa-bát (ngày thứ bảy) là ngày thánh, không được làm việc trong ngày đó”.

Sau đó Đức Chúa Trời còn phán dạy sáu Điều Răn sau để mọi người biết cách đối xử với nhau: “Hãy hiếu kính cha mẹ, chớ giết người, chớ phạm tội tà dâm, chớ trộm cướp, chớ làm chứng dối, và chớ tham muốn bất cứ vật gì của người lân cận”.

Toàn dân nghe tiếng sấm sét, tiếng kèn vang dội và thấy chớp nhoáng với khói từ núi bốc lên thì run rẩy, sợ sệt. Họ đứng tận đằng xa và nói với Môi-se: “Xin ông cứ nói lại cho chúng tôi những gì Đức Chúa Trời dạy bảo, chúng tôi sẽ vâng lời. Xin Đức Chúa Trời đừng phán trực tiếp với chúng tôi kẻo chúng tôi chết mất”. Môi-se trấn an dân chúng: “Đừng sợ, Đức Chúa Trời đến đây chứng tỏ uy quyền của Ngài, để các ngươi không dám phạm tội với Ngài nữa”.

Sau đó Môi-se lại một lần nữa trở lên núi. Ở đó Đức Chúa Trời truyền dạy cho Môi-se những mạng lệnh của Ngài đối với dân Y-sơ-ra-ên.

  1. Ứng dụng.

Câu chuyện Kinh Thánh hôm nay kể rằng Môi-se nhiều lần lên núi Si-nai nói chuyện với Đức Chúa Trời và đem lời phán dạy của Ngài truyền lại cho dân Y-sơ-ra-ên. Hướng dẫn các em mở bài 9 sách học viên ra và theo gợi ý làm bài tập trong phần A. 

Mười Điều răn mà Đức Chúa Trời ban cho chúng ta để dạy chúng ta biết sống đẹp lòng Ngài. Cho các em làm bài tập “Điều răn và đời sống” trong phần B.   

 

 

BÀI 10.             A-RÔN LÀM CON BÒ VÀNG

 

  1. KINH THÁNH: Xuất Ê-díp-tô ký 24,32.
  2. CÂU GỐC: “Vậy, các ngươi khá cẩn thận làm theo, y như Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi đã phán dặn các ngươi; chớ xây qua bên hữu, hoặc qua bên tả” (Phục truyền 5:32).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Dân Y-sơ-ra-ên không vâng giữ Điều Răn của Đức Chúa Trời, làm con bò vàng để thờ lạy.

– Cảm nhận: Vâng theo Lời Chúa giúp em không phạm tội với Ngài.

– Hành động: Xin Chúa giúp em luôn làm theo Lời Chúa.

  1. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.
  2. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Đi theo ai?

  1. Mục đích: Cho các em lấy thí dụ tiêu biểu để suy nghĩ tầm quan trọng của việc vâng theo chỉ thị.
  2. Thực hiện: Kể cho các em nghe một ví dụ như: Giả sử em phải tìm một địa điểm du lịch tại ngoại ô. Vừa lúc gặp A và B. A nói với em: “Đi theo tôi, tôi đã từng đến chỗ đó, chúng ta sẽ không bị lạc đường”. B nói với em: “Tốt nhất bạn hãy đi với tôi, bởi vì tôi có tấm bản đồ của khu vực nầy. Chúng ta có thể dựa theo sự chỉ dẫn trên bản đồ tìm ra chỗ đó”. Sau đó hỏi các em: Em sẽ đi theo ai? Vì sao? Nếu em đi theo A, em nghĩ có thể xảy ra chuyện gì? (Cho các em nói ra cách nghĩ của mình).
  3. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị thị trợ: Photo lớn trang tài liệu K trong sách giáo viên rồi tô màu cho đẹp).

  1. Vào đề.

Tuần trước các em đã biết Đức Chúa Trời phán cùng dân Y-sơ-ra-ên từ trong đám mây mịt mù phủ khắp núi Si-nai. Các em có nhớ Mười Điều răn của Đức Chúa Trời ban cho dân sự không? Trong số Mười Điều răn, có những điều dạy dân sự cách tôn thờ Chúa và những điều dạy dân sự cách đối xử với nhau. Khi Môi-se thuật lại những luật lệ của Đức Chúa Trời, dân sự chú tâm nghe Lời Chúa phán dặn, và đồng thanh hứa rằng sẽ vâng giữ luật lệ của Ngài. Thế nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó họ lại thất hứa. Bài học nầy sẽ giúp các em biết rõ hơn về điều đó.     

  1. Bài học.

Đức Chúa Trời lại bảo Môi-se lên núi, Ngài sẽ giao cho hai bảng đá ghi Mười Điều răn dùng để dạy dân sự. Môi-se liền sắp xếp cho A-rôn và Hu-rơ thay ông lo cho dân sự, rồi ông dẫn theo người trợ giúp mình là Giô-suê lên núi. Môi-se đi khuất vào đám mây. Dân chúng đứng dưới núi nhìn lên thấy đám mây trên đỉnh núi rực sáng chói lòa. Nhưng nhiều ngày trôi qua, Môi-se vẫn chưa trở lại. Dân chúng nói với A-rôn: “Chúng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra với Môi-se. Ông hãy làm nên một thần để dẫn dắt chúng tôi thay cho Môi-se”.

Trong các Điều răn mà Đức Chúa Trời ban cho dân Y-sơ-ra-ên, có một điều cấm họ không được làm hoặc thờ bất cứ hình tượng nào. Và mọi người đều hứa sẽ vâng giữ luật lệ của Đức Chúa Trời. Vậy mà chỉ trong một thời gian ngắn họ đã quên mất lời hứa của mình.

A-rôn bảo: “Các ngươi hãy cởi những bông tai bằng vàng đem đến cho ta”. Dân chúng phấn khởi tháo đồ trang sức. A-rôn nấu chảy tất cả vàng thu được, rồi làm một con bò vàng. Dân chúng sung sướng reo hò: “Đây là thần của chúng ta”. Thấy dân sự vui mừng như vậy, A-rôn liền lập một bàn thờ trước tượng con bò đó và nói rằng: “Ngày mai chúng ta sẽ có một lễ hội tôn vinh thần”.

Sáng sớm hôm sau, họ dâng của lễ thiêu, nhảy múa chung quanh tượng con bò đó. Họ ăn uống, vui chơi thỏa thích. Đức Chúa Trời biết tất cả mọi sự đang xảy ra, Ngài phán với Môi-se: “Con hãy xuống núi, dân Y-sơ-ra-ên đang làm trái Điều răn của ta”. Đức Chúa Trời buồn giận vì việc làm của dân Y-sơ-ra-ên, Ngài định hủy diệt họ. Nhưng Môi-se khẩn xin Đức Chúa Trời tha thứ cho dân sự, vì cớ Ngài đã từng hứa sẽ cho Y-sơ-ra-ên trở nên một nước lớn. Đức Chúa Trời nhậm lời cầu nguyện của Môi-se, không trừng phạt họ nữa.

Môi-se vội vàng xuống núi, cầm theo hai bảng đá có khắc Mười Điều răn. Khi đến gần nơi dân Y-sơ-ra-ên đóng trại, Môi-se và Giô-suê nghe thấy tiếng ồn ào, la hét. Giô-suê nói: “Nghe như một trận chiến đang diễn ra nơi đó”. Môi-se đáp: “Đó không phải là tiếng reo hò chiến đấu, mà là tiếng ca hát cuồng nhiệt”.

Khi đến gần, Môi-se thấy dân sự đang nhảy múa quanh tượng con bò vàng. Quá tức giận, Môi-se liệng hai bảng đá bể ra từng mảnh dưới chân núi. Ông lấy tượng con bò vàng đốt trong lửa rồi đem nghiền ra thành bột, rắc trên nước, bắt dân Y-sơ-ra-ên uống. Môi-se hỏi A-rôn: “Tại sao anh lại khiến dân sự phạm tội nặng như thế?” A-rôn phân bua: “Em đừng giận anh! Em biết rằng những người nầy độc ác và bướng bỉnh. Họ bảo anh làm cho họ một thần tượng, nên anh bảo họ đem vàng đến và làm thành con bò vàng nầy”.

Môi-se đứng nơi cửa trại, kêu gọi: “Ai thuộc về Đức Chúa Trời đến đây với ta”. Lập tức có một số người đứng về phía Môi-se. Còn những người không chịu nhận tội, từ chối vâng phục thì bị chết hết.

Qua hôm sau, Môi-se nói cùng dân sự rằng: “Các ngươi đã phạm một tội rất nặng. Nhưng bây giờ ta sẽ lên núi cầu xin Đức Chúa Trời tha tội cho các ngươi”.

Môi-se yêu thương dân sự, ông nài xin Đức Chúa Trời tha thứ cho dân Y-sơ-ra-ên, nếu không, ông sẵn lòng gánh lấy hình phạt thay họ. Nhưng Đức Chúa Trời phán rằng: “Ta phải trừng phạt họ vì những tội họ đã phạm”. Đức Chúa Trời giáng xuống cho dân Y-sơ-ra-ên một bệnh dịch đáng sợ.

  1. Ứng dụng.

Cho các em mở bài 10 sách học viên ra, dựa theo gợi ý làm bài tập trong phần A để ôn lại câu chuyện.

Nói với các em: Đôi khi chúng ta cũng giống như A-rôn vậy, chiều theo sự cám dỗ mà phản nghịch Đức Chúa Trời. Em thử nghĩ xem, có người nào hoặc điều gì làm cho em không vâng theo Lời Chúa không? (Cho các em tự do chia sẻ). Sau đó, để các em dựa theo gợi ý làm bài tập “Nên hoặc không nên làm”.    

 

 

 

 

 

 

BÀI 11.                   XÂY DỰNG ĐỀN TẠM

 

  1. KINH THÁNH: Xuất Ê-díp-tô ký 25:1-9; 35:4-36:7; 39:32-40:34.
  2. CÂU GỐC: “Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi rằng: Ta hãy đi đến nhà Đức Giê-hô-va” (Thi-thiên 122:1).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Dân Y-sơ-ra-ên xây dựng Đền Tạm để thờ phượng Chúa.

– Cảm nhận: Được góp phần xây dựng nhà Chúa để thờ phượng Ngài là điều vui mừng đối với mọi người.

– Hành động: Em góp phần vào việc xây dựng nhà Chúa theo khả năng của mình.

  1. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.
  2. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Bí mật trong Đền Tạm.

  1. Học liệu: Trang tư liệu I trong sách học viên.
  2. Thực hiện: Nói với các em: Đền tạm là nơi dân Y-sơ-ra-ên thờ phượng Đức Chúa Trời, trong đó có những vật dụng được đặt cố định ở những nơi khác nhau. Giáo viên cho các em mở trang tư liệu I trong sách học viên ra, sau đó chia các em thành 3 nhóm. Mỗi nhóm phụ trách đặt hai vật dụng vào đúng chỗ trong Đền Tạm. Các tư liệu sẽ được các em chia sẻ khi nghe dạy bài.
  3. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị thị trợ: Photo hình vẽ trang tài liệu L trong sách giáo viên, rồi cắt hình đền tạm và những vật dụng ra, sau đó lấy hình vẽ đền tạm dán lên tờ giấy cứng. Trong khi dạy bài, dựa theo nội dung và thứ tự mà dán các vật dụng vào hình vẽ).

  1. Vào đề.

Thờ phượng Đức Chúa Trời là gì? Thờ phượng Đức Chúa Trời là hết lòng yêu thương, tôn thờ Ngài. Trong giờ thờ phượng chúng ta có những phương thức gì để bày tỏ lòng của chúng ta với Đức Chúa Trời? (Hát Thánh ca, cầu nguyện, đọc Kinh Thánh, nghe giảng Lời Chúa, dâng hiến v.v…). Phương thức nào em thích dùng để thờ phượng Đức Chúa Trời? (Cho các em trả lời).

Ngày xưa Đức Chúa Trờ i phán dặn Môi-se và dân Y-sơ-ra-ên dựng lên một nơi đặc biệt để họ có thể thờ phượng Ngài khi đang đi trong đồng vắng. Để biết rõ hơn, mời các em theo dõi bài học nầy nhé.    

  1. Bài học.

Suốt cuộc hành trình về Đất Hứa, dân Y-sơ-ra-ên phải di chuyển liên tục, nên họ chỉ sống trong lều trại và không thể xây dựng một đền thờ để thờ phượng Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời đã có kế hoạch để giải quyết nan đề nầy. Khi Môi-se ở trên núi bốn mươi ngày đêm, Đức Chúa Trời bảo Môi-se phải làm một cái lều đặc biệt để Đức Chúa Trời ngự giữa dân sự. Lều đó được gọi là “Đền Tạm”. Mọi cấu trúc và vật liệu đều do Đức Chúa Trời thiết kế, Ngài chỉ dẫn mọi việc cho Môi-se rất cặn kẽ.

Môi-se triệu tập dân sự lại, nói cho họ biết Đức Chúa Trời muốn dân Y-sơ-ra-ên dựng một Đền tạm để làm nơi thờ phượng Ngài. Đền tạm nầy cũng nhắc nhở dân sự rằng Đức Chúa Trời đang ở giữa họ. Và mỗi khi dân sự di chuyển đến nơi khác đều có thể đem theo Đền Tạm cách dễ dàng. Có lẽ các em nóng lòng muốn biết Đền Tạm đó như thế nào phải không? Các em đọc Xuất 35:5-9, xem dân Y-sơ-ra-ên cần dâng những gì để xây dựng Đền Tạm? Môi-se cũng kêu gọi những ai có tay nghề, giỏi chuyên môn đều phải đến làm Đền Tạm theo kiểu mẫu mà Đức Chúa Trời dạy bảo.

Bắt đầu từ hôm đó, dân Y-sơ-ra-ên liên tục đem đến dâng cho Chúa những vật liệu mà Môi-se yêu cầu. Càng lúc mọi người càng bận rộn hơn trong việc xây dựng Đền Tạm. Một số người lo nấu chảy vàng, bạc và đồng ra, một số người lo cưa gỗ, làm những vật dụng, hoặc dát vàng lên những miếng ván, có những người lo dệt chỉ màu, may những bộ áo cho thầy tế lễ v.v…

Mỗi sáng sớm, dân Y-sơ-ra-ên đều đem lễ vật dâng vào việc làm Đền Tạm. Họ đem nhiều đến nỗi Môi-se phải bảo họ đừng đem các tặng phẩm đến nữa; vì mọi thứ đã đủ rồi!

Mọi người tiếp tục làm theo chỉ thị của Đức Chúa Trời, cuối cùng Đền Tạm to lớn, đẹp đẽ cũng đã hoàn tất. (Đưa hình vẽ Đền Tạm lên và theo thứ tự đem mọi vật dụng đặt vào trong Đền Tạm cho đúng chỗ. Tham khảo hình vẽ Đền Tạm).

Họ đem hòm bảng chứng vào Đền Tạm, rồi dùng bức màn ngăn nơi đó lại thành một gian phòng được gọi là nơi chí thánh. Mỗi năm chỉ có thầy tế lễ thượng phẩm được phép đi vào nơi nầy một lần để dâng của lễ chuộc tội cho dân sự.

Tiếp đến, dân Y-sơ-ra-ên đem cái bàn làm bằng vàng dùng để bánh trần thiết, chân đèn và bàn thờ xông hương đặt vào trong Đền Tạm, rồi treo một tấm màn ngang qua thành một căn phòng khác, gọi là nơi thánh, nơi đó chỉ có thầy tề lễ mới có thể vào hành lễ.

Thùng rửa và bàn thờ bằng đồng rất lớn được đặt ở trước cửa Đền Tạm. Thầy tế lễ mỗi lần đi vào trong hội mạc, đều phải rửa tay chân trong thùng rửa. Dân Y-sơ-ra-ên thờ phượng Đức Chúa Trời tại khoảng giữa hội mạc, để dâng của lễ thiêu cho Đức Chúa Trời.

Sau cùng là một tấm màn bao quanh hành lang cũng được treo lên. Đền Tạm nhìn vào cực kỳ tinh sạch và đẹp đẽ. Nhưng cái đẹp nhất của Đền Tạm là có áng mây bao phủ hội mạc và sự vinh hiển của Đức Chúa Trời đầy dẫy Đền Tạm. Môi-se và dân Y-sơ-ra-ên đều vui mừng vì biết rằng Đức Chúa Trời ở cùng họ, và từ nay họ có một nơi đặc biệt để thờ phượng Đức Chúa Trời.   

  1. Ứng dụng.

Cho các em mở bài 11 sách học viên ra, dựa theo chỉ dẫn làm phần “Đền Tạm của Đức Chúa Trời”, rồi hỏi các em: Dân Y-sơ-ra-ên có sẵn lòng dâng vật liệu để làm Đền Tạm không? Vì sao? (Họ yêu mến Đức Chúa Trời, sẵn lòng vâng theo Lời Ngài). Theo suy nghĩ của em, vì sao Đức Chúa Trời muốn dân Y-sơ-ra-ên có một nơi đặc biệt để thờ phượng Ngài? (Cho các em nói ra suy nghĩ của mình).

Dân Y-sơ-ra-ên vâng theo lời phán dặn của Đức Chúa Trời, dâng hiến vàng bạc, công sức cho việc xây dựng Đền Tạm. Các em cũng có thể góp phần công sức của mình cho Hội Thánh, nơi các em thờ phượng Chúa. Hướng dẫn các em làm bài tập: “Cơ hội của em” (Giáo viên dựa vào tính khả thi của sự việc, khích lệ các em bày tỏ tấm lòng của mình một cách thực tế).          

 

                          HÌNH VẼ ĐỀN TẠM

NẮP THI ÂN

HÒM BẢNG CHỨNG

TẤM MÀN THỨ NHẤT

BÀN THỜ XÔNG HƯƠNG

CHÂN ĐÈN     

BÀN ĐỂ BÁNH TRẦN THIẾT

TẤM MÀN THỨ HAI

THÙNG RỬA

BÀN THỜ BẰNG ĐỒNG

NƠI CHÍ THÁNH

NƠI THÁNH

HÀNH LANG

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

BÀI 12.         CON RẮN LỬA VÀ CON RẮN ĐỒNG

 

  1. KINH THÁNH: Dân số ký 20:1-21; 21:4-9.
  2. CÂU GỐC: “Ai tin Con, thì được sự sống đời đời; ai không chịu tin Con, thì chẳng thấy sự sống đâu, nhưng cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời vẫn ở trên người đó” (Giăng 3:36).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Vì dân sự oán trách nên Chúa đưa rắn lửa đến để phạt họ, nhưng Ngài cũng cho họ giải pháp để được giải cứu.

– Cảm nhận: Tin vào Đức Chúa Trời và Lời của Ngài sẽ được cứu.

– Hành động: Em hết lòng tin nơi Đức Chúa Trời và Lời Ngài.

  1. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.
  2. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Chuyện gì?

  1. Vật liệu: Trang tư liệu K trong sách học viên.
  2. Thực hiện: Cho các em mở sách học viên trang tư liệu K, chọn ra một bức hình, rồi trả lời các câu hỏi sau: “Người trong hình vẽ gặp phải chuyện gì? Họ đang tin cậy vào ai hoặc cái gì? Kể ra một sự từng trải em từng tin cậy vào một ai đó hoặc một điều gì đó”. (Cho các em trả lời và chia sẻ).
  3. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị thị trợ: Photo lớn trang tài liệu M và bản đồ Kinh Thánh trong sách giáo viên rồi tô màu cho đẹp).

  1. Vào đề.

Mỗi ngày các em đều phải tin cậy vào một ai đó hoặc một điều gì đó. Ví dụ: Tin vào sự chăm sóc của ba mẹ đối với các em; ngồi trên xe buýt, chúng ta tin rằng tài xế sẽ chở chúng ta đến nơi; thậm chí khi ngồi trên một cái ghế, chúng ta cũng phải tin nó có thể chịu được trọng lượng của chúng ta.

Câu chuyện Kinh Thánh nầy cho biết, vì dân Y-sơ-ra-ên không tin vào sự chăm sóc của Đức Chúa Trời, lằm bằm oán trách Môi-se; nên Đức Chúa Trời đã trừng phạt họ rất nặng nề. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời vẫn yêu thương dân sự, Ngài cho họ một giải pháp để được giải cứu nếu họ vâng theo Lời Ngài.

  1. Bài học.

Vào tháng giêng, dân Y-sơ-ra-ên đi đến Ca-đe và dựng trại nghỉ tại đó. (Chỉ ra vị trí của Ca-đe trên bản đồ Kinh Thánh). Họ gặp phải một khó khăn lớn, là nơi đó không có nước uống. Dân chúng họp nhau lại oán trách Môi-se và A-rôn. Họ nói: “Vì sao các ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập, rồi dẫn chúng tôi đến đồng vắng nầy để chúng tôi chết tại đây?” Môi-se và A-rôn liền đi đến trước cửa Đền Tạm, quì mọp xuống thưa với Đức Chúa Trời nan đề của dân sự. 

Các em đọc Dân 20:8, xem Đức Chúa Trời phán gì với Môi-se? Đây thật là một việc dễ làm phải không các em? Môi-se chỉ cần làm theo chỉ thị của Đức Chúa Trời, bảo hòn đá chảy nước ra thì cả dân chúng và súc vật đều có nước uống rồi.

Nhưng Môi-se cầm lấy cây gậy và tập trung dân chúng lại ngay chỗ hòn đá. Ông nhìn dân chúng, trong lòng cảm thấy tức giận vì những lời lằm bằm oán trách của họ, Môi-se nói lớn: “Hãy nghe đây, hỡi dân phản nghịch nầy! Ta phải làm cho nước chảy từ hòn đá nầy cho các ngươi sao?” Các em đọc tiếp câu 10, 11, xem Môi-se đã làm việc gì? Ông không làm theo như Lời Đức Chúa Trời đã phán, thay vào đó, trong cơn tức giận, ông làm theo ý mình mà đập hòn đá hai lần. Nước chảy tràn ra, dân chúng và súc vật đều có nước uống thoả thích.

Nhưng Đức Chúa Trời trách Môi-se và A-rôn: “Vì các con không tin ta, trước mặt dân Y-sơ-ra-ên không tôn thánh ta, nên các con sẽ không dẫn họ vào đất ta hứa cho”. Chắc chắn Môi-se cảm thấy hối tiếc vì cớ không vâng lời Chúa. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời vẫn yêu thương ông và dân Y-sơ-ra-ên, Ngài sẵn lòng tiếp tục dẫn dắt họ.

Môi-se lại lên kế hoạch cho dân sự tiếp tục tiến về Đất Hứa, họ sắp phải đi ngang qua địa phận xứ Ê-đôm. Môi-se cử người đến gặp vua Ê-đôm, để xin đi qua đất nước của ông, nhưng vua Ê-đôm từ chối. Không thể thuyết phục được vua Ê-đôm, Môi-se chỉ còn cách dẫn dân Y-sơ-ra-ên đi đường vòng qua Ê-đôm. Con đường nầy vừa xa lại vừa khó đi. Thật là không dễ để bảo dân chúng vừa nóng vừa khát đó nhớ rằng Đức Chúa Trời luôn ở cùng họ. (Chỉ tuyến đường mà dân Y-sơ-ra-ên phải đi vòng qua trên bản đồ Kinh Thánh).

Khi thiếu thức ăn và nước uống, dân Y-sơ-ra-ên lại oán trách và quên rằng Đức Chúa Trời luôn ở cùng chăm sóc họ. Vì thế Đức Chúa Trời muốn dạy cho họ một bài học. Các em đọc Dân 21:6 xem có chuyện gì xảy ra? Tại lều trại của dân Y-sơ-ra-ên xuất hiện một loài rắn lửa rất đáng sợ. Loại rắn độc nầy vô cùng hung dữ, cắn bị thương và chết rất nhiều người. Dân Y-sơ-ra-ên chạy đến nói với Môi-se: “Chúng tôi có tội vì đã xúc phạm đến Đức Chúa Trời và ông. Xin ông kêu cầu với Chúa để Ngài đuổi rắn độc đi”. Môi-se liền cầu thay cho dân sự. Đức Chúa Trời bảo Môi-se: “Con hãy làm một con rắn đồng, treo lên một cây sào, nếu ai bị rắn cắn chỉ cần nhìn nó thì được cứu sống”.

Tin nầy nhanh chóng được truyền ra, mọi người đều được quyền lựa chọn, tin hoặc không tin vào phương cách chữa trị mà Đức Chúa Trời đã phán dặn. Kết quả những ai tin và làm theo Lời Đức Chúa Trời đều được chữa lành. Thật ra, đây không phải là con rắn đồng có quyền năng, mà là Đức Chúa Trời muốn dân Y-sơ-ra-ên phải có lòng tin và vâng lời Ngài.                             

  1. Ứng dụng.

Trước hết hỏi các em: Trong suốt cuộc hành trình gian nan của dân Y-sơ-ra-ên, Đức Chúa Trời đã làm gì cho họ? (Chăm sóc, dẫn dắt và cung ứng). Đức Chúa Trời yêu cầu họ điều gì? (Có lòng tin nơi Đức Chúa Trời và Lời của Ngài). Sau đó cho các em mở ra bài 12 trong sách học viên, dựa theo gợi ý làm bài tập phần A để ôn lại bài học Kinh Thánh.

Câu chuyện Kinh Thánh hôm nay cho chúng ta thấy dân Y-sơ-ra-ên bị rắn độc cắn bị thương, nhưng khi họ ăn năn, tin vào Đức Chúa Trời thì được chữa lành. Hướng dẫn các em dựa theo gợi ý làm bài tập: “Nên làm thế nào?” Sau đó cho các em chia sẻ: Em nên làm thế nào để khi gặp khó khăn không oán trách mà tin cậy nơi Đức Chúa Trời? (Cho các em trả lời).          

 

 

 

 

 

 

BÀI 13.                       BÀI ÔN

 

  1. KINH THÁNH: Tất cả các đoạn Kinh Thánh đã học trong quí.
  2. CÂU GỐC: Tất cả các câu gốc đã học trong quí.

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Trong hành trình theo Chúa, con dân Ngài phải luôn tin cậy và vâng lời Ngài.

 – Cảm nhận: Tin cậy, vâng lời Chúa sẽ giúp em vượt qua những khó khăn trong hành trình theo Chúa.

 – Hành động: Em quyết tâm sống xứng đáng là con dân của Chúa.

  1. ÔN CÂU GỐC.

Chuẩn bị một số giấy trắng (số giấy tương ứng với số các em). Viết lên mỗi tờ giấy một câu gốc nhưng không viết địa chỉ, hoặc viết địa chỉ nhưng không viết câu gốc (những câu gốc đã học trong quí). Xếp giấy lại, cho các em lần lượt lên rút một tờ giấy và nói lên địa chỉ hoặc câu gốc còn thiếu. Em nào đáp đúng được thưởng một chiếc kẹo.

  1. ÔN BÀI.
  2. Dùng thị trợ: Dùng những hình vẽ đã sử dụng khi dạy bài học để ôn bài sẽ có hiệu quả hơn. Bạn nên cùng các em hát xen vào lúc ôn bài để tạo sự hứng thú cho các em.
  3. Dùng những câu gợi ý cách gián tiếp: Giúp các em đoán ra nhân vật.

Ví dụ:

  1. a) Tôi không muốn tranh giành với ai cả. Vậy tôi là ai?
  2. b) Tôi lên núi Si-nai để gặp Đức Chúa Trời. Vậy tôi là ai?

 

TRANG TÀI LIỆU A.

TRANG TÀI LIỆU B.

TRANG TÀI LIỆU C.

TRANG TÀI LIỆU D.

TRANG TÀI LIỆU E.

TRANG TÀI LIỆU F.

TRANG TÀI LIỆU G.

Nước hóa thành huyết

Tai vạ ếch nhái

Tai vạ muỗi

Tai vạ ruồi mòng

Tai vạ súc vật bị dịch lệ

Tai vạ ghẻ chốc

Tai vạ mưa đá

Tai vạ cào cào

Tai vạ sự tối tăm

TRANG TÀI LIỆU H.

TRANG TÀI LIỆU I.

TRANG TÀI LIỆU J.

TRANG TÀI LIỆU K.

TRANG TÀI LIỆU L.

Hòm bảng chứng

Bàn thờ xông hương

Bàn để bánh trần thiết

Chân đèn

Thùng rửa

Bàn thờ bằng đồng

TRANG TÀI LIỆU M.

BẢN ĐỒ KINH THÁNH.

 

 

 

Post CommentLeave a reply