CHƯƠNG TRÌNH THỜ PHƯỢNG DÀNH CHO BAN PHỤ NỮ. CHÚA NHẬT 24.10.2021
By Quản trị in PHỤ NỮ on 18 Tháng Mười, 2021
Chúa nhật 24.10.2021.
- Đề tài: KỶ NIỆM 504 NĂM CẢI CHÁNH GIÁO HỘI.
- Kinh Thánh: Ga-la-ti 3:1-14.
- Câu gốc: “Vả, chẳng hề có ai cậy luật pháp mà được xưng công bình trước mặt Đức Chúa Trời, điều đó là rõ ràng lắm, vì người công bình sẽ sống bởi đức tin” (Ga-la-ti 3:11).
- Đố Kinh Thánh: 1Các vua 16-18.
- Thể loại: Chia sẻ.
* CHỈ DẪN: Chia sẻ (Xem chỉ dẫn CN 04.07.2021).
* TÀI LIỆU THAM KHẢO.
LƯỢC SỬ CÔNG CUỘC CẢI CHÁNH HỘI THÁNH
Chúa Giê-xu đã công bố xây dựng Hội Thánh và Đức Thánh Linh đã chính thức thành lập Hội Thánh vào ngày Lễ Ngũ Tuần.
Nhưng đến năm 1054, do quan điểm thần học, chính trị… Hội Thánh Cơ-đốc của Chúa đã có sự phân ly thành Chính Thống giáo Đông Phương và Giáo hội Phổ Thông.
Giáo hội Phổ Thông đã phát triển mạnh mẽ với người đứng đầu là Giám mục hay Giáo hoàng tại Rô-ma. Nhưng sau đó, Giáo hội dần suy đồi vì giáo quyền và thế quyền trộn lẫn vào nhau, tội lỗi tràn ngập Hội Thánh và Hội Thánh đi xa Lời Đức Chúa Trời. Vì thế, Đức Thánh Linh đã cho phép cải chánh Hội Thánh để đưa Hội Thánh về đúng với Kinh Thánh.
Công Cuộc Cải Chánh Hội Thánh Phổ Thông đã bày tỏ ân điển của Đức Chúa Trời khi Ngài khôi phục Hội Thánh và làm thay đổi thế giới sâu xa nhất kể từ khi Hội Thánh được thành lập.
Công Cuộc Cải Chánh Hội Thánh phát sinh tại đâu? Phong trào đầy sức mạnh này xảy ra như thế nào? Ai là những lãnh đạo then chốt đã thắp ngọn đuốc đầu tiên? Lời dạy nào của Kinh Thánh đã làm thay đổi Hội Thánh và thế giới vào giai đoạn đó?
Năm 1383, hôn nhân của công chúa Anne, Tiệp Khắc với vua Richard II nước Anh đã nối kết những sự dạy dỗ “cải chánh” của John Wycliffe tại nước Anh với các học giả trẻ tại Tiệp Khắc như Jean Hus. Hoàng Hậu đã gửi những bài viết của Wycliffe về Tiệp Khắc.
Quan điểm của Wycliffe và Jean Hus về Hội Thánh rất đúng Kinh Thánh: “Hội Thánh là một cộng đoàn dân Chúa với Chúa Cứu Thế là Chủ Tể, là Đầu chứ không phải Giáo Hoàng”.
Đến đầu thế kỷ 16, Đức Chúa Trời đã dấy lên một loạt Các Nhà Cải Chánh với đức tin mạnh mẽ và kiên định. Họ nghiên cứu chuyên sâu vào Kinh Thánh và can đảm đứng vững trước mọi chống đối, để khôi phục Hội Thánh như Kinh Thánh dạy.
Theo các sử gia, các nhà Cải Chánh không tạo ra điều gì mới, nhưng chỉ khôi phục Hội Thánh. Họ làm sống lại những gì đã chết. Họ trở về với Kinh Thánh và Hội Thánh thời các sứ đồ, để tìm ra khuôn mẫu cho Hội Thánh và khôi phục Hội Thánh.
Khẩu hiệu của các nhà Cải Chánh gồm 05 điểm: (1) Chỉ tin vào Kinh Thánh, (2) Chỉ tôn thờ Chúa Cứu Thế, (3) Chỉ nhờ Ân Điển, (4) Chỉ nhờ Đức Tin và (5) Vinh quang chỉ thuộc về Ba Ngôi Đức Chúa Trời.
Vào ngày 31/10/1517, 102 năm sau ngày tu sĩ Jean Hus bị hỏa thiêu tại Tiệp Khắc vì niềm tin của mình, thì một tu sĩ tên là Martin Luther, đã đóng 95 Luận Đề lên cửa nhà thờ Wittenberg ở Đức để kháng nghị Hội Thánh thời đó vì đã bán Phép xá tội. Từ đó, cuộc Cải Chánh lan rộng khắp châu Âu, rồi khắp thế giới.
Martin Luther sinh ngày 10/11/1483 tại Đức. Năm 1502, Martin Luther nhận bằng cử nhân, và năm 1505 ông nhận học vị thạc sĩ tại Đại học (Erfurt). Mùa hè năm 1505, trên đường trở lại đại học, Martin Luther bị sét đánh suýt chết. Nhận biết Chúa đã cứu mình, ông bỏ trường luật và vào dòng tu kín Augustine.
Năm 1507, ông được truyền chức linh mục. Năm 1508, ông học thần học tại Đại học Wittenberg và được Trường mời làm giáo sư dạy môn vật lý và triết học. Ông nhận bằng cử nhân về nghiên cứu Kinh Thánh và tu từ học vào năm 1509. Năm 1512, Đại học Wittenberg cấp bằng tiến sĩ thần học cho ông. Ông được phong chức giáo sư Kinh Thánh và đã giữ chức vụ đó suốt đời.
Luther thường xuyên kiêng ăn, tự hành xác, dành nhiều thì giờ để cầu nguyện, đi hành hương và xưng tội. Nhưng càng nỗ lực, Luther càng thấy không thỏa lòng và sau khi trở về từ chuyến hành hương đến tòa thánh Vatican tại Rô-ma vào năm 1511, Luther càng chìm sâu trong tuyệt vọng.
Nhưng sau đó, khi Luther nghiên cứu các sách Thi Thiên, Rô-ma và Ga-la-ti để dạy, thì Lời Chúa trong Thi Thiên 31:1 và Rô-ma 3:23-24 đã chiếu rọi vào linh hồn ông, giúp ông khám phá chân lý cứu rỗi và sự xưng công bình bởi đức tin:
“Xin hãy lấy sự công chính Ngài mà giải cứu tôi” và “Vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất vinh quang của Đức Chúa Trời; nhờ ân điển Ngài, bởi sự cứu chuộc trong Đấng Christ Giê-xu, họ được xưng công chính mà không phải trả một giá nào”.
Với niềm vui tìm ra chân lý, Martin Luther bắt đầu giảng dạy: Sự Cứu rỗi là sự ban cho bởi ân điển của Đức Chúa Trời, được nhận lãnh bởi đức tin vào lời hứa của Đức Chúa Trời tha thứ tội lỗi, nhờ sự chết của Chúa Giê-xu trên thập tự giá và sự xưng công chính là công việc của Đức Chúa Trời, là món quà đến từ Ngài.
Trong lúc này, Giáo hoàng Leo X (1513-1521) cần tiền để hoàn tất việc tái thiết Quảng Trường Thánh Phê-rô. Giáo hoàng đẩy mạnh việc bán Phép xá tội để gây quỹ và giao việc bán Phép xá tội ở Đức cho Tổng Giám mục giáo phận Mainz. Số tiền thu được, Tổng Giám mục được phép giữ lại phân nửa để trả món nợ mà ông đã vay của ngân hàng mua chức Tổng Giám mục.
Được chỉ định, tu sĩ Tetzel vào các giáo đường, ra đường phố, nhân danh Giáo hoàng hứa rằng, hễ ai mua Phép xá tội sẽ được tha mọi tội, tội đã phạm, cả tội sẽ phạm, và nếu mua Phép xá tội cho người thân đã chết, thì linh hồn họ ở Ngục Luyện Tội sẽ bay lên thiên đàng ngay. Martin Luther vốn đã từng chống đối việc buôn bán Phép xá tội của Giáo hoàng, nên ông càng tức giận khi Giáo Hội lừa bịp con dân Chúa để thu lợi bất chính. Ông can đảm viết một kháng nghị gồm 95 luận đề và ngày 31/10/1517, ông dán kháng nghị đó trên bản yết thị của Đại Thánh đường Wittenberg.
Đại ý của kháng nghị nói rằng: Giáo hoàng không có quyền tha tội. Người nào giảng dạy dùng Phép xá tội để chuộc tội là sai lầm, Phép xá tội là một tà thuyết. Người có tiền mà không dùng giúp người nghèo, lại dùng tiền để mua Phép xá tội là mua lấy sự thịnh nộ của Đức Chúa Trời về cho mình.
Đến năm 1518, quan tư pháp của Giáo hoàng gửi trát đòi Martin Luther qua Rô-ma để chịu xét xử về tội phổ biến và giảng dạy tà thuyết. Martin Luther bác bỏ trát lệnh vì cho rằng Kinh Thánh không bao giờ sai lầm, chỉ có Giáo hoàng mới sai lầm mà thôi.
Đến ngày 15/6/1520, Giáo hoàng ra giáo lệnh dứt phép thông công Martin Luther và cho phép chính quyền bắt Martin Luther giải về Rô-ma để Giáo hội trị tội.
Martin Luther đem giáo lệnh dứt phép thông công ra đốt trước đám đông gồm các giáo sư, sinh viên và dân chúng để bày tỏ, ông hoàn toàn phủ nhận quyền hạn cũng như chức vụ Giáo hoàng, và ông chấm dứt mối liên hệ với Giáo Hội.
Đến ngày 17/4/1521, Hoàng đế Charles V (Sạt thứ năm) triệu tập hội nghị để nghe Luther và vị tư pháp của Giáo hoàng tường trình quan điểm của hai bên. Hội nghị cũng có sứ thần của Giáo hoàng, các Hồng y, Tổng Giám mục, Giám mục… cùng đại biểu của các nước Âu Châu về tham dự.
Viên tư pháp của Giáo hoàng chỉ vào hơn 20 quyển sách của Luther, rồi hỏi ông: “Có phải ông là tác giả của các sách này không? Ông có bằng lòng tiêu hủy các sách đó cùng các quan điểm chứa đựng trong các sách đó không?”
Martin Luther công nhận ông là tác giả của các sách đó và đưa ra các lý do không thể tiêu hủy các sách đó và cũng không thể để Giáo hoàng hay các Giáo hội nghị có quyền xét đoán niềm tin của mình. Nếu ai muốn thay đổi quan điểm của ông thì phải chỉ cho ông biết điểm nào trong sách ông viết là không đúng với Kinh Thánh.
Qua ngày sau, hội nghị tái nhóm và biểu quyết nghiêm cấm lưu hành các sách, thu hồi quyền công dân của Martin Luther và đặt ông ra ngoài vòng pháp luật.
Cảm tạ Chúa vì ngay lúc đó Ngài đã dùng tiểu vương Frederick tổ chức bắt cóc Luther đem giấu trong lâu đài, vì vua biết phe phái của Giáo hoàng có thể sát hại Luther bất cứ lúc nào.
Trong thời gian 10 tháng ẩn náu trong lâu đài, Martin Luther đã viết nhiều sách để phổ biến quan điểm cải chánh. Ông đã dịch Cựu Ước từ tiếng Hê-bơ-rơ ra tiếng Đức, nên bây giờ tiếp tục dịch Tân Ước từ tiếng Hy Lạp qua tiếng Đức. Còn ở bên ngoài, các nhà Cải Chánh khác tiếp tục lãnh đạo và đẩy mạnh cuộc cải chánh lan tràn khắp nước Đức.
Cũng trong thời gian này, ở Wittenberg có một số người theo cải chánh nhưng quá khích, muốn chấn chỉnh Giáo Hội bằng bạo lực. Khi Luther hay thì lo ngại việc đó sẽ làm cho chính quyền và giáo quyền có cớ dùng vũ lực đàn áp phong trào cải chánh, nên ông tức tốc rời nơi ẩn náu, trở về Wittenberg – dù ông biết mình có thể bị giáo quyền và chính quyền giết hại. Với lòng tin cậy mãnh liệt vào sự bảo vệ của Chúa, ông vào giáo đường giảng dạy tám ngày liên tiếp. Lời giảng dạy của Luther có sức mạnh cảm hóa được thành phần quá khích, lập lại trật tự…
Vào tháng 12/1524, Luther cởi áo linh mục và hoàn tục. Đến ngày 27/6/1525, Luther thành hôn với một nữ tu sĩ hồi tục. Ông bà Luther có 2 trai và 3 gái. Họ còn nuôi thêm 11 cô nhi nữa.
Trong thời gian trở lại sống ở Wittenberg, Luther tiếp tục làm giáo sư ở Trường Đại Học. Ông viết sách để phổ biến những quan điểm cải chánh của mình về Ngục Luyện Tội, sùng kính bà Ma-ri, việc cầu bầu các thánh, thẩm quyền của Giáo hoàng…
Martin Luther về Nước Chúa vào ngày 18/02/1546 tại quê nhà, hưởng thọ 63 tuổi. Thành quả lớn nhất trong cuộc đời của Luther là bản dịch Kinh Thánh ra tiếng Đức. Ông đã làm Kinh Thánh trở nên quyển sách của mọi người, có mặt khắp mọi nơi. Công trình này cũng giúp chuẩn hóa ngôn ngữ Đức, và được xem là dấu mốc quan trọng trong lịch sử văn học Đức. Những bài thánh ca do ông sáng tác đã làm thay đổi các nghi thức thờ phượng, thích hợp với chiều hướng mới của công cuộc cải chánh. Cảm tạ Chúa.
Và hơn nữa, thành quả của công cuộc Cải Chánh Hội Thánh là vào ngày 25/9/1555, Hoàng đế Charles V phải ký hòa ước, theo như đòi hỏi của Hội Thánh Cải Chánh cho họ được tự do tín ngưỡng, thừa nhận Hội Thánh Cải Chánh là hợp pháp và bình đẳng với Giáo Hội Công giáo La-mã trên mọi bình diện. Thế là Giáo Hội Phổ Thông đã bị chia đôi thành Giáo Hội Công giáo La-mã và Hội Thánh Cải Chánh.
Cảm tạ Đức Chúa Trời vì Ngài đã khôi phục Hội Thánh của Ngài. A-men./-
TẦM QUAN TRỌNG CỦA
CÔNG CUỘC CẢI CHÁNH HỘI THÁNH
Một sử gia nổi danh của Hội Thánh (Philip Schaff), đã viết: “Công Cuộc Cải Chánh Hội Thánh Cơ đốc trong thế kỷ 16, bên cạnh việc giới thiệu Cơ Đốc Giáo, thì đó là một sự kiện vĩ đại nhất trong lịch sử. Công Cuộc Cải Chánh Hội Thánh ghi dấu sự chấm dứt của thời Trung Cổ và khởi đầu của thời Hiện Đại.” Trung tâm của Công Cuộc Cải Chánh Hội Thánh là tìm lại Phúc âm chân chính của Chúa Cứu Thế Giê-xu. Cuộc khôi phục này ảnh hưởng không gì so sánh được đối với Hội Thánh, các quốc gia và cả dòng văn minh Tây Phương.
Dưới sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời, Hội Thánh lúc đó phải được khôi phục vì tình trạng đen tối tâm linh đã xâm nhập vào Hội Thánh. Kinh Thánh là quyển sách bị đóng kín. Sự ngu dại tâm linh cai quản tâm trí con người. Phúc Âm bị bóp méo. Truyền thống Hội Thánh thắng hơn chân lý thiêng liêng. Thánh khiết cá nhân bị bỏ quên. Việc buôn bán chức thánh, ngay cả chức vị Giáo hoàng, cũng như tình trạng thối nát trong hàng giáo phẩm đã làm cho Giáo hội băng hoại.
John Piper đã viết: “Ngày kỷ niệm Cuộc Cải Chánh Tin Lành là một ngày đáng để chúng ta cùng nhau vui mừng. Vui mừng vì lý do gì?
Thứ nhất, chúng ta vui mừng vì từ ngày đó hàng trăm triệu tín hữu đã quay lại với niềm xác tín rằng, chỉ Lời Chúa có thẩm quyền tối cao trên đời sống họ (Sola Scriptura) và sự cứu rỗi là món quà được ban cho bởi ân điển của Chúa (Sola Gratia) thông qua phương tiện duy nhất là đức tin (Sola Fide) nơi sự chết và sự sống lại của Đấng Trung Bảo và Cứu Thế duy nhất là Chúa Giê-xu (Sola Christus); vì thế mọi vinh hiển phải quy về Chúa Ba Ngôi mà thôi (Sola Deo Gloria).
Thứ hai, chúng ta vui mừng vì nhận ra rằng, mình được xưng công bình chỉ nhờ ân điển bởi đức tin, chứ không phải bởi việc làm, càng không phải bởi tiền bạc để mua Phép xá tội.
Thứ ba, chúng ta vui mừng vì Kinh Thánh cuối cùng cũng được dịch ra nhiều ngôn ngữ và con người thuộc mọi giai cấp của mọi dân tộc đều được tự do đến với Kinh Thánh. Nếu quý vị biết Giáo hội thời Trung Cổ ra sức ngăn cấm dịch Kinh Thánh ra tiếng Anh, nếu quý vị biết tội đọc Kinh Thánh vào những năm 1400 là tử hình ở Anh Quốc, thì mới thấy mỗi ngày được nuôi dưỡng tâm linh bằng Lời Chúa trong tiếng mẹ đẻ của mình là điều đáng quý biết dường nào.
Thứ tư, chúng ta vui mừng vì những tín đồ bình thường nhất cũng có thể diện kiến và trò chuyện trực tiếp cách thân mật với Cha Thiên Thượng mà không phải thông qua một ai khác nữa.
Cha kính yêu, chúng con cảm tạ Ngài vì tất cả những sự kiện này đều nằm trong kế hoạch vĩ đại và tốt lành của Ngài cho chúng con”.
(Biên soạn theo tài liệu của tập san Đuốc Thiêng, Nguyễn Sinh và Bách khoa toàn thư mở Wikipedia).