BÀI 7. KHÔNG QUỲ LẠY HÌNH TƯỢNG (HV)
in ẤU NHI, QUÍ I. 2016 on 13 Tháng Sáu, 2017
BÀI 7. KHÔNG QUỲ LẠY HÌNH TƯỢNG
CÂU GỐC: “Ngươi chớ quỳ lạy trước các thần tượng” (Xuất 20:5).
BÀI 7. KHÔNG QUỲ LẠY HÌNH TƯỢNG
CÂU GỐC: “Ngươi chớ quỳ lạy trước các thần tượng” (Xuất 20:5).
BÀI 7. KHÔNG QUỲ LẠY HÌNH TƯỢNG
I. KINH THÁNH: Đa-ni-ên 3:1-30.
II. CÂU GỐC: “Ngươi chớ quỳ lạy trước các thần tượng” (Xuất 20:5).
III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:
– Biết: Ba bạn của Đa-ni-ên nhất quyết không quỳ lạy hình tượng.
– Cảm nhận: Chỉ có Chúa là Đức Chúa Trời duy nhất, đáng cho chúng ta thờ lạy mà thôi.
– Hành động: Không quỳ lạy bất cứ vị thần nào ngoài Chúa.
IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.
A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.
Đặt một bàn dài (hoặc vài bàn nhỏ ghép lại) giữa lớp, rồi đặt lên đó nhiều quyển Kinh Thánh nhỏ (có thể thay bằng vật khác để tượng trưng cho niềm tin). Số lượng quyển Kinh Thánh luôn ít hơn 1 quyển so với số các em tham dự chơi. Các em đi vòng quanh bàn, vừa đi vừa hát. Khi có hiệu lịnh ngưng hát, các em đứng tại chỗ và cầm 1 quyển Kinh Thánh. Em nào chậm tay không lấy được quyển Kinh Thánh thì phải đứng riêng ra, chờ bị phạt. Trò chơi tiếp tục.
* Mỗi lần có một em bị phạt thì lấy bớt ra một quyển Kinh Thánh.
B. BÀI HỌC KINH THÁNH.
1. Vào bài.
Chào các em, cô (thầy) rất vui được gặp lại các em. Bây giờ có em nào còn nhớ câu chuyện Kinh Thánh của lần trước không, cho cô biết xem? (Gọi một em trả lời). Đúng rồi. Cô (thầy) đã kể cho các em nghe về việc Đa-ni-ên và ba người bạn của ông từ chối thức ăn của vua ban. Các em nhớ tốt lắm. Các em biết không, sự can đảm của những người nầy chưa phải là hết đâu mà Kinh Thánh còn kể lại một chuyện khác nữa. Lần nầy thì không có Đa-ni-ên, chỉ có ba người bạn của ông mà thôi. Các em theo dõi câu chuyện nhé.
2. Bài học.
Một ngày kia, vua làm một cái tượng rất lớn. Tượng là gì, các em? Tượng là hình của một người hay một vật được tạo ra bằng gỗ, đất, đồng hay vàng… Tượng của vua bằng vàng rất lớn, để cho toàn dân trong nước có thể quỳ lạy.
Khi nghe hiệu lịnh, toàn dân sấp mình xuống quỳ lạy bức tượng đó. Nhưng có ba người nhất quyết không quỳ lạy. Các em có đoán ra được là những ai không? Đúng. Đó là ba người bạn của ông Đa-ni-ên. Khi được vua gọi đến, họ tâu rằng: “Tâu bệ hạ, chúng tôi là con cái của Cha trên trời. Chúng tôi kính yêu Ngài nên quyết không thờ lạy bất cứ một thần tượng nào khác ngoài Ngài”. Nhà vua nổi giận: “Các ngươi không chịu thờ lạy tượng vàng của ta, ta sẽ quăng các ngươi vào lò lửa”. Họ can đảm trả lời: “Chúng tôi tin rằng Đức Chúa Trời mà chúng tôi thờ lạy sẽ giải cứu chúng tôi”. Họ nói dứt lời thì vua hạ lịnh trói họ lại và đem quăng vào lò lửa. Lúc ấy lò lửa được đốt nóng lên gấp mấy lần. Những người quăng họ vào lò lửa đều bị sức nóng làm chết ngay tại chỗ. Nhưng còn ba người nầy thì sao? Lạ thật, ba người nầy không những không bị thiêu cháy mà còn đi lại được trong lò lửa! Nhà vua nhìn chăm vào lò lửa và ngạc nhiên kêu lên: “Có phải ta đã quăng vào ba người không? Vậy sao bây giờ ta thấy có đến bốn người trong đó?” Các em thân mến, vì sao lại có thêm một người trong lò lửa, các em biết không? Đó là thiên sứ của Đức Chúa Trời sai đến để gìn giữ họ. Nhà vua liền cho họ ra khỏi lò lửa. Vua và các quan vây chung quanh ba người nầy, thấy họ không bị phỏng một chút nào, quần áo cũng không hề bị cháy sém. Lúc nầy, nhà vua mới hiểu được rằng Đức Chúa Trời đã cứu họ. Ông nói: “Đức Chúa Trời các ngươi thật đáng ca ngợi, vì Ngài đã làm sự lạ lùng để cứu những người tin cậy Ngài”. Sau đó vua còn yêu thương họ hơn và ban cho họ chức vụ cao hơn nữa.
3. Ứng dụng.
Các em thân mến, Đức Chúa Trời của chúng ta thật quyền năng, lạ lùng, phải không các em? Ba người bạn của Đa-ni-ên đã can đảm vâng lời Ngài, không chịu quỳ lạy thần tượng mặc dù bị ném vào lò lửa và Chúa đã cứu họ một cách lạ lùng. Chúng ta nên noi gương họ không thờ lạy bất cứ tượng thần nào ngoài ra Chúa của chúng ta, các em nhé.
BÀI 6. KHÔNG DÙNG THỨC ĂN ĐÃ CÚNG
CÂU GỐC: “Chúng ta… làm những điều đẹp ý Ngài” (1Giăng 3:22).
BÀI 6. KHÔNG ĂN ĐỒ CÚNG
I. KINH THÁNH: Đa-ni-ên 1:1-21.
II. CÂU GỐC: “Chúng ta… làm những điều đẹp ý Ngài” (1Giăng 3:22).
III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:
– Biết: Đa-ni-ên và ba người bạn của ông nhất định từ chối thức ăn đã cúng của vua.
– Cảm nhận: Noi gương Đa-ni-ên, làm đẹp lòng Chúa.
– Hành động: Không ăn thức ăn cúng.
IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.
A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.
* Trò chơi: “TÔI BẢO”.
– Cách chơi: Cho các em đứng vòng tròn, NHD sẽ hô bất kỳ một câu nào có chữ “Tôi bảo” thì các em phải làm ngay, còn nếu không có chữ “Tôi bảo” thì không làm.
Ví dụ như: “Tôi bảo các em vỗ tay”, các em vỗ tay. “Tôi bảo các em ngồi xuống”, các em ngồi xuống. “Đứng lên!” Các em sẽ không đứng, vì không có chữ “Tôi bảo”.
Giáo viên nói lên sự dạy dỗ: “Trò chơi nầy cho thấy các em ngoan ngoãn, làm theo lời cô bảo. Nếu các em cũng luôn vâng theo lời Chúa dạy bảo thì còn quý hơn, vì điều đó đem lại nhiều điều tốt cho các em và giúp cho những người chung quanh biết về Chúa nữa”.
B. BÀI HỌC KINH THÁNH.
1. Vào bài.
Các em thân mến, các em đã mời Chúa Giê-xu ngự vào lòng mình chưa? Nếu các em đã mời Chúa Giê-xu ngự vào lòng rồi, thì các em là con cái của Cha trên trời. Các em có kính yêu Chúa không? Các em có biết kính yêu Chúa thì phải vâng lời Chúa không? Hôm nay cô (thầy) sẽ kể câu chuyện Kinh Thánh nầy cho các em nghe để các em biết có những người rất kính yêu Chúa và họ đã vâng lời Chúa như thế nào nhé.
2. Bài học.
Người Y-sơ-ra-ên là những người rất yêu mến Chúa. Từ nhỏ họ đã được dạy là: “Chớ thờ lạy thần tượng” (giáo viên giải thích cho các em thần tượng là gì). Vì vậy, mỗi một người Y-sơ-ra-ên đều nhớ rõ điều Chúa đã dạy.
Có một lần nọ, nước Y-sơ-ra-ên đánh trận với một nước khác, và nước Y-sơ-ra-ên bị thua. Vua của nước thắng trận bắt nhiều người Y-sơ-ra-ên về nước của mình. Trong những người bị bắt có bốn người nầy (cho các em xem hình). Một người tên là Đa-ni-ên, còn ba người kia là bạn của ông. Họ bị bắt sang một nước thờ thần tượng, nhưng họ vẫn không quên lời của Đức Chúa Trời đã dạy là không thờ lạy thần tượng.
Một ngày nọ, nhà vua chọn ra một số người có gương mặt đẹp, thông sáng và cho họ học thêm để sau nầy phục vụ trong cung vua. Đa-ni-ên và ba người bạn của ông cũng được chọn. Các em biết không, sau đó, một vị quan mang thức ăn ngon và rượu ngon của vua đến cho họ và nói: “Đây là thức ăn của vua ban. Mỗi ngày các anh sẽ dùng thức ăn nầy và sau một thời gian, các anh chắc sẽ khỏe, đẹp và thông sáng hơn”. Nhưng Đa-ni-ên và các bạn của ông đã trả lời: “Thưa ông, xin cho chúng tôi không ăn những thức ăn nầy mà chỉ cho chúng tôi ăn rau và uống nước thôi ạ”. Vị quan ngạc nhiên hỏi: “Tại sao các anh lại không ăn thức ăn do vua ban? Nếu nhà vua biết các anh do không ăn những thức ăn nầy mà ốm yếu, xanh xao, thì vua sẽ phạt tôi đó”. “Thưa ông, xin ông cứ cho chúng tôi ăn rau và uống nước thử trong mười ngày. Nếu thấy chúng tôi gầy ốm hơn những người khác thì chúng tôi sẽ ăn những thức ăn nầy”. Vị quan đồng ý. Các em có biết tại sao ông Đa-ni-ên và ba người bạn của ông từ chối những thức ăn nầy không? Vì trước khi ăn, người ta đã đem thức ăn cúng cho thần tượng của họ. Nếu chúng ta ăn đồ cúng, cũng giống như chúng ta thờ lạy thần tượng rồi. Do đó, Đa-ni-ên và các bạn của ông vâng lời Chúa dạy, nhất định không dùng những thức ăn nầy.
Bây giờ, các em ơi, chúng ta đếm thử từ 1 đến 10 đi nhé. (Để các em đếm theo giáo viên) 1,2,3… 10. Mười ngày trôi qua thật nhanh, các em có thể đoán xem ông Đa-ni-ên và ba người bạn của ông như thế nào? Ồ, thật là lạ, chẳng những họ không gầy ốm, xanh xao, mà lại mạnh khỏe, thông minh hơn những người khác nữa đó. Đa-ni-ên thưa với vị quan: “Đó là do Đức Chúa Trời giúp đỡ chúng tôi, vì chúng tôi nghe theo lời Ngài”. Vị quan không ép họ ăn thịt và uống rượu nữa, nhưng cho họ ăn rau uống nước.
Về sau, Đa-ni-ên và ba người bạn của ông được nhà vua quí trọng hơn những người khác.
3. Ứng dụng.
Các em ạ, qua câu chuyện nầy chúng ta nhớ không nên ăn đồ cúng các em nhé. Nếu biết vâng lời Cha trên trời, chắc chắn các em sẽ nhận được điều tốt, vì đó là điều đẹp ý Ngài. Bây giờ các em cùng đứng lên, chúng ta cầu nguyện xin Chúa giúp chúng ta luôn làm theo điều Chúa dạy, để là người bạn tốt của Ngài. (Cho các em đứng lên, cầu nguyện theo giáo viên).
BÀI 5. CHĂM LO CHO NGƯỜI THIẾU THỐN
CÂU GỐC: “Hãy thương yêu người như mình” (Lê-vi ký 19:34).
BÀI 5. CHĂM LO CHO NGƯỜI THIẾU THỐN
I. KINH THÁNH: Công Vụ 9:36-43.
II. CÂU GỐC: “Hãy thương yêu người như mình” (Lê-vi Ký 19:34).
III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:
– Biết: Bà Đô-ca chăm lo cho người nghèo khó.
– Cảm nhận: Giúp đỡ người khác thì chính mình cũng vui.
– Hành động: Sẵn lòng giúp đỡ người khác khi cần.
IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.
A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.
* Băng reo: YÊU THƯƠNG.
– NHD: Phước cho người.
– TC: Biết yêu thương (nắm tay nhau bước một bước về bên phải).
– NHD: Phước cho người.
– TC: Biết giúp đỡ (nắm tay nhau bước về bên trái một bước).
– NHD: Vì sẽ là.
– TC: Bạn của Chúa (nắm tay nhau, giơ lên cao).
Tất cả cùng hát bài “Em ngoan để Chúa vui”.
B. BÀI HỌC KINH THÁNH.
1. Vào bài.
Các em thân mến, cô (thầy) rất vui khi được gặp các em và Chúa Giê-xu cũng rất vui khi thấy các em đến nhà thờ thờ phượng Ngài, càng vui hơn nữa khi các em làm theo lời Chúa Giê-xu dạy, luôn biết giúp đỡ người khác.
2. Bài học.
Cách đây lâu lắm, tại làng Giốp-bê có một người phụ nữ tên là Đô-ca. Bà Đô-ca luôn làm theo lời Chúa dạy là yêu thương, giúp đỡ người khác, nhất là những người nghèo khổ, thiếu thốn. Bà cũng thường đi thăm, kể chuyện Chúa Giê-xu và chơi đùa với các em nhỏ. Vì vậy, cả người lớn lẫn trẻ em đều yêu mến bà Đô-ca.
Các em nhỏ rất thích nghe bà kể chuyện, vì vậy, càng lúc chúng kéo đến càng đông hơn. Cha mẹ các em vui lắm khi thấy các em ngày càng ngoan ngoãn, biết yêu kính Chúa. Bà Đô-ca cũng rất vui nên thường đem theo bánh hoặc trái cây cho các em ăn.
Một hôm, bà Đô-ca mang đến một cái giỏ lớn và hỏi các em: “Các con đoán xem trong nầy đựng gì?” “Trái cây ạ!” Một em trả lời. Bà cười, lắc đầu. Các em khác nhao nhao lên: “Vậy là bánh ạ!” Bà nói: “Cũng không phải”. Đến khi bà lấy ra thì các em cùng ồ lên: “Ô, quần áo mới, đẹp quá!” “Đây là những bộ quần áo mới tự tay cô may để tặng cho các con đấy!” Các em vui thích nhảy lên hò reo. Mỗi em đều ướm thử bộ đồ vào người, xoay tới xoay lui, thích thú lắm! Nhiều em đến ôm choàng lấy bà Đô-ca và nói: “Con cám ơn cô rất nhiều vì đã may quần áo cho con!”.
3. Ứng dụng.
Các em ơi, sống và làm việc tốt như bà Đô-ca thì được nhiều người yêu thương quá, phải không? Chúa cũng yêu thương người đó nữa. Các em có thích đem niềm vui cho mọi người và được mọi người yêu thương như vậy không?
BÀI 4. GIÚP ĐỠ NGƯỜI BỊ NẠN
CÂU GỐC: “Hãy yêu kẻ lân cận như mình” (Luca 10:27).
BÀI 4. GIÚP ĐỠ NGƯỜI BỊ NẠN
I. KINH THÁNH: Lu-ca 10:25-37.
II. CÂU GỐC: “Hãy yêu kẻ lân cận như mình” (Lu-ca 10:27).
III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:
– Biết: Người Sa-ma-ri biết yêu thương và giúp đỡ người bị nạn.
– Cảm nhận: Người biết yêu thương người khác thì người ấy là bạn tốt của Đức Chúa Trời.
– Hành động: Sẵn lòng giúp đỡ người cần được giúp.
IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.
A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.
– Cho một số em đóng vai khách đi đường mệt mỏi, người nghèo đói, bị thương… Các em còn lại đóng vai những người giúp đỡ.
Giáo viên quan sát các em để có thể hướng dẫn thêm và kết thúc: “Các em làm những điều nầy là tốt, rất đáng khen. Chúa vui lắm khi nhìn thấy các em như thế”.
B. BÀI HỌC KINH THÁNH.
1. Vào bài.
Các em có biết không, Chúa Giê-xu thích chúng ta vui lòng giúp đỡ người khác. Chúng ta có thường hay giúp đỡ những người cần được giúp đỡ không? Cụ Áp-ra-ham đã giúp đỡ ba người khách đi đường. Bà góa đã cho Ê-li bánh ăn. Ê-li-sê đi khắp nơi giảng lời Chúa và cần có chỗ nghỉ chân thì người đàn bà ở Su-nem đã cất một phòng cho ông. Đây chính là ý nghĩa “giúp đỡ những người cần giúp đỡ”.
Trong Kinh Thánh, Chúa Giê-xu có kể lại một câu chuyện nữa về một người có lòng yêu thương, biết giúp đỡ người khi cần được giúp, các em theo dõi câu chuyện nhé.
Cách đây rất lâu, có một người ở thành Giê-ru-sa-lem đi xuống thành kia. Ông đem theo rất nhiều tiền. Đến một quãng đường vắng, thình lình, có một nhóm người xông ra, hét to: “Đứng lại!” Bọn cướp đánh ông, cướp hết tiền bạc của ông, rồi bỏ đi.
Ông bị thương rất nặng, cả người đau nhức, nằm lả bên lề đường. Một lúc sau, ông nghe tiếng chân đi từ đằng xa đến, ông mừng thầm: “Có người đến rồi, ta được cứu rồi!” Nhưng không ngờ, người nầy chỉ nhìn qua rồi bỏ đi. Các em có biết người nầy là ai không? Người nầy là một thầy lo việc dâng tế lễ trong đền thờ của Chúa đó.
Vết thương càng lúc càng đau nhức, ông rên rỉ vì khát nước và đau không chịu nổi. Trong khi đang nản lòng, ông lại nghe tiếng chân đi đến. Ông hi vọng: “Mong sao người nầy giúp đỡ…”. Lần nầy là một người Lê-vi, chuyên coi sóc mọi việc trong đền thờ của Chúa. Trong khi người bị thương đang còn suy nghĩ thì người nầy đã đứng gần ông rồi. Nhưng sau khi nhìn kỹ, ông cũng vội bỏ đi như người trước. “Chắc là mình sẽ chết thôi!” Ông nhủ thầm và không còn trông mong gì nữa. Một lát sau, lại nghe có tiếng chân người và lừa đến gần. Ông nghĩ: “Người nầy chắc cũng không cứu mình đâu!”
Người ngồi trên lưng lừa là một người Sa-ma-ri. Các em biết không, người Y-sơ-ra-ên rất ghét và không thích nói chuyện với người Sa-ma-ri. Nhưng thật lạ, khi người Sa-ma-ri thấy người bị nạn, ông vội xuống lừa, xem xét vết thương, lấy dầu xức cho người bị nạn, băng bó vết thương… Sau đó, ông dìu người bị thương lên lưng lừa, chở đến nhà trọ. Sáng hôm sau, người Sa-ma-ri đưa tiền và bảo chủ nhà trọ: “Ông cho người nầy ở đây cho đến khi lành. Khi tôi trở lại sẽ trả những khoản còn thiếu! Bây giờ tôi có việc phải đi vội”. Người bị thương cảm động nói: “Tôi cảm ơn ông vì đã đối xử tốt với tôi!”.
2. Ứng dụng.
Các em ơi, khi chúng ta bị thương, rất cần người giúp đỡ, phải không? Vì vậy, khi thấy người khác cần được giúp đỡ, chúng ta phải giúp ngay. Đó là điều đem lại niềm vui cho người được giúp, cho chính các em và Chúa Cha ở trên trời nữa!
BÀI 3. CHUẨN BỊ VỚI LÒNG YÊU THƯƠNG
CÂU GỐC: “Hãy tỏ… sự yêu thương mình” (2Cô-rinh-tô 8:24).
BÀI 3. CHUẨN BỊ VỚI LÒNG YÊU THƯƠNG
I. KINH THÁNH: 2Các Vua 4:8-16.
II. CÂU GỐC: “Hãy tỏ… sự yêu thương mình” (2Cô-rinh-tô 8:24).
III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:
– Biết: Người đàn bà ở Su-nem tiếp đãi Ê-li-sê với tấm lòng sốt sắng, đầy yêu thương.
– Cảm nhận: Yêu thương, giúp đỡ người khác tức là yêu mến Chúa.
– Hành động: Tiếp đãi khách với lòng yêu thương.
IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.
A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.
* Trò chơi: DỌN CHỖ ĐÓN KHÁCH.
– Rèn luyện: Phán đoán, vận dụng trí nhớ.
– Cách chơi: Người hướng dẫn (NHD) để ra giữa vòng tròn 2 chiếc ghế, cách nhau khoảng 2m; đặt chiếc hộp đựng dép trước 2 chiếc ghế, cách khoảng 3m. Chọn hai em rồi cho 2 em đã được chọn nhìn thật kỹ vị trí chiếc hộp để dép và vị trí chiếc ghế của mình. Sau đó, bịt mắt 2 em nầy lại. NHD cho lịnh bắt đầu. Mỗi em tìm đến chỗ đựng dép, lấy một chiếc, đi về ghế của mình, kê vào một chân ghế, rồi lại đi lấy chiếc dép thứ hai, kê vào chân thứ hai… Cứ như thế, em nào làm nhanh nhất và kê đủ 4 chân ghế thì thắng. Những em chung quanh vỗ tay lớn khi bạn đến gần chiếc hộp đựng dép hoặc chiếc ghế, còn ở xa thì vỗ tay nhỏ để bạn có thể đoán được.
Sau đó giáo viên nhấn mạnh sự dạy dỗ: “Các em thấy hai bạn của mình đã kê ghế, dọn chỗ đón khách đến, chắc là khách sẽ rất vui và Chúa cũng đẹp lòng vì Ngài dạy chúng ta phải vui vẻ, hết lòng đón khách như vậy”.
B. BÀI HỌC KINH THÁNH.
1. Vào bài.
Các em thân mến, có khi nào họ hàng đến chơi và ở lại nhà của các em chưa? Các em có giúp mẹ rót nước mời khách không? Có lễ phép với khách không? Nếu có bạn nhỏ nào bằng các em đến chơi, các em có vui vẻ, cho bạn cùng chơi đồ chơi với mình không? Hôm nay cô (thầy) kể cho các em nghe về gia đình nầy, các em xem họ tiếp khách như thế nào nhé.
2. Bài học.
Tại làng kia tên là Su-nem, có một gia đình chỉ có hai vợ chồng. Hai ông bà rất kính yêu Chúa và rất yêu quí những người hầu việc Ngài.
Một hôm, có một người tiên tri tên là Ê-li-sê đến làng Su-nem để giảng lời Chúa. Sau khi giảng xong, hai ông bà nầy chào tiên tri Ê-li và nói: “Chúng tôi rất vui được mời ông về nhà dùng cơm”. Ê-li-sê thấy họ vui vẻ mời với tấm lòng thành, cho nên bằng lòng đến.
Từ đó trở đi, Ê-li-sê mỗi lần đến giảng lời Chúa tại làng nầy, đều được gia đình đó mời về nhà dùng cơm, nghỉ ngơi. Một hôm, bà nói với chồng: “Ông Ê-li-sê là người của Chúa. Tôi nghĩ rằng mình nên làm một căn phòng ở trên cao, để mỗi lần đến đây thì ông ấy có chỗ nghỉ ngơi và chuẩn bị công việc”. Chồng của bà thấy ý đó thật hay, nên ông liền chuẩn bị cho thợ cất một căn phòng. Những người thợ bắt đầu cưa gỗ (giáo viên diễn tư thế cưa gỗ), rồi lấy búa ra đóng đinh (diễn tư thế dùng búa đóng đinh)… Ai nấy nhanh chóng lo phần việc của mình và chẳng bao lâu, căn phòng đã được cất xong. Ông gọi vợ: “Bà ơi, lên mà xem”. Bà tấm tắc khen: “Căn phòng đẹp thật!”.
Thế rồi ông bà dọn dẹp phòng thật sạch sẽ, đặt vào đó một cái giường, một cái bàn, một cái ghế, một cây đèn. Hai ông bà cảm thấy vui vẻ vì đã làm một điều tốt cho tiên tri của Chúa.
Khi Ê-li-sê đến, ông ngạc nhiên, vui mừng và nói: “Hai ông bà tốt quá, đã lo cho tôi có một chỗ ở thật dễ chịu, thoải mái. Tôi rất cảm ơn ông bà”. Ê-li-sê nói tiếp: “Ông bà muốn tôi làm điều chi để báo đáp tấm lòng của ông bà?” “Chúng tôi chỉ làm việc cần phải làm cho người hầu việc Chúa thôi mà”.
3. Ứng dụng.
Các em ạ, chúng ta học được nơi hai ông bà nầy là phải tiếp đãi người hầu việc Chúa với lòng yêu thương, vì họ làm việc cho Chúa, đi khắp nơi rao giảng lời Chúa cho chúng ta. Nếu không có họ, chúng ta khó biết Chúa để tin nhận Ngài và khó có thể hiểu được lời Chúa để làm theo. Vì thế, tiếp đãi họ cách tử tế, đầy lòng yêu thương là điều Chúa đã dạy và Ngài rất vui khi chúng ta làm điều đó.