Chuyên mục: NHI ĐỒNG

Bài 5. ĐA-VÍT VÀ NGƯỜI KHỔNG LỒ (GV-HV)

Bài 5. ĐA-VÍT VÀ NGƯỜI KHỔNG LỒ (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ III. 2016 on 16 Tháng Bảy, 2018

BÀI 5. ĐA-VÍT VÀ NGƯỜI KHỔNG LỒ (GV)

I. KINH THÁNH: 1Sa-mu-ên 17.
II. CÂU GỐC: “Hãy vững lòng bền chí, chớ run sợ, chớ kinh khủng; vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi vẫn ở cùng ngươi trong mọi nơi ngươi đi” (Giô-suê 1:9).
III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:
– Biết: Đa-vít tin cậy Chúa, chiến đấu với người khổng lồ và chiến thắng.
– Cảm nhận: Tin cậy Chúa và vâng lời cha mẹ là điều cần thiết.
– Hành động: Em quyết tâm tin cậy, vâng lời.
IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.
A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.
* Người khổng lồ Gô-li-át.
1. Mục đích: Giúp các em so sánh chiều cao giữa mình với Gô-li-át.
2. Vật liệu: Tập học viên bài 6, gạch dưới câu Kinh Thánh 1Sa-mu-ên 17:4, 1 tấm giấy cứng 50 x 30cm, viết chì, viết màu.
3. Thực hiện:
– Giáo viên vẽ hình Gô-li-át (xem hình trong tập học viên bài 31) lên giấy cứng tùy theo kích thước của Gô-li-át.
– Đến lớp, hướng dẫn các em cùng tô màu hình vẽ Gô-li-át.
– Giáo viên hỏi: Khi quan sát, các em sử dụng cơ quan nào trong cơ thể? (Dùng mắt để quan sát).
– Khi các em tô màu xong, giáo viên treo hình Gô-li-át lên tường và so sánh chiều cao giữa các em với Gô-li-át. Giúp các em thấy rõ Gô-li-át là người khổng lồ.
* Gợi ý 2: Em làm được không?
1. Mục đích: Giúp các em biết trũng Ê-la.
2. Vật liệu: Tập học viên bài 5, 1 tờ giấy dày (lớn nhỏ tùy ý), giấy màu vàng hoặc nâu, đất sét, keo dán.
3. Thực hiện:
– Giáo viên hướng dẫn các em làm theo tập học viên bài 5, phần “Em làm được không?” để làm trũng Ê-la.
– Trong khi các em làm, giáo viên hỏi: Các em còn nhớ trũng là gì không? (Trũng là chỗ đất thấp giữa hai ngọn núi).
– Làm xong, giáo viên nói với các em: “Kinh Thánh có thuật lại một câu chuyện xảy ra tại Ê-la. Bài học hôm nay sẽ cho các em biết câu chuyện đó”.
B. BÀI HỌC KINH THÁNH
(Chuẩn bị giáo cụ: Kinh Thánh, trành ném đá, hình Đa-vít và Gô-li-át (xem phụ lục), bối cảnh Kinh Thánh: Trũng Ê-la và Gô-li-át (làm trong phần “Sinh hoạt đầu giờ”).
1. Vào đề.
Các em còn nhớ bài học tuần trước không? Đa-vít đã phục vụ Chúa bằng cách nào? (Hết lòng trong mọi việc). Hôm nay chúng ta sẽ học thêm một cách hầu việc Chúa của Đa-vít.
2. Bài học.
Nhờ tiếng đàn của Đa-vít, vua Sau-lơ khỏe lại. Lúc ấy, quân Phi-li-tin xâm chiếm xứ Y-sơ-ra-ên. Vua Sau-lơ liền đem quân đi chiến đấu chống lại quân thù. Ba người anh của Đa-vít theo Sau-lơ ra chiến trận, Đa-vít lại tiếp tục chăm sóc bầy chiên giúp cha tại quê nhà Bết-lê-hem.
Ngày này qua ngày khác, ông Y-sai lo âu, thấp thỏm mong biết tin các con nơi chiến trường. Thời ấy chưa có bưu điện, Internet hay truyền hình nên ông Y-sai không thể nào biết được tin các con. Một hôm, ông bảo Đa-vít: “Con hãy mang ít thức ăn đến cho các anh rồi về báo cho cha biết tin tức và sức khỏe của các anh như thế nào”. Đa-vít vâng lời cha, chuẩn bị mọi thứ. Hôm sau, Đa-vít dậy sớm, vội vã lên đường vì trại quân cách Bết-lê-hem khá xa. Từ xa, Đa-vít đã nghe tiếng quân lính xôn xao, reo hò như trận chiến sắp xảy ra.
Nhờ một người trông giữ các thứ đem theo, Đa-vít đi tìm các anh và thấy quân lính hai bên đang dàn trận đối diện nhau (mang tác phẩm thủ công các em làm ra trong “Gợi ý 2”). Lúc Đa-vít trông thấy các anh, đang định hỏi thăm tin tức và chuyển lời cha dặn, bỗng một chuyện xảy ra khiến Đa-vít kinh ngạc. Từ hàng ngũ của quân Phi-li-tin, một người khổng lồ bước ra. Đa-vít chưa bao giờ trông thấy ai cao lớn đến thế (cho các em đứng cạnh hình Gô-li-át để biết người khổng lồ cao đến mức nào). Người khổng lồ đó tên là Gô-li-át. Ông ta đang tiến đến khiêu khích quân Y-sơ-ra-ên (giáo viên mở hình phụ trợ cho các em xem).
Gô-li-át cất tiếng quát lớn: “Các ngươi dàn trận làm gì? Hãy chọn một người ra đấu với ta! Nếu giết được ta, quân ta sẽ làm nô lệ cho các ngươi. Ngược lại, nếu ta thắng, các ngươi phải làm nô lệ cho chúng ta. Hãy cử người ra chiến đấu với ta đi! Ha ha ha!” Cả quân Y-sơ-ra-ên đều khiếp sợ trước người khổng lồ nầy. Đây không phải là ngày đầu tiên quân thù khiêu chiến nhưng đã trải qua bốn mươi ngày rồi.
Một người lính đứng gần Đa-vít nói: “Có nghe người khổng lồ ấy sỉ nhục chúng ta không? Vua Sau-lơ hứa thưởng công lớn cho bất cứ ai giết được Gô-li-át đấy”. Đa-vít định hỏi thêm nhưng anh cả của Đa-vít là Ê-li-áp vội ngăn em mình: “Nầy, em đến đây làm gì? Em để bầy chiên cho ai chăn? Chắc em muốn xem chiến trận nên mới đến đây chứ gì?” Đa-vít trả lời: “Em chỉ hỏi vậy thôi!” Rồi Đa-vít dan xa anh mình, tiếp tục hỏi những gì muốn biết. Thấy vậy, quân lính biết Đa-vít muốn chiến đấu với Gô-li-át. Tin nầy loan đi nhanh chóng. Có người cho vua Sau-lơ hay. Vua Sau-lơ đòi Đa-vít đến gặp.
Đa-vít lập tức đến thưa với vua: “Tâu bệ hạ, xin bệ hạ chớ lo ngại, con sẽ ra chiến đấu với Gô-li-át”. Vua Sau-lơ ngạc nhiên hỏi: “Ngươi nói đùa à? Ngươi chỉ là đứa trẻ, làm sao chống lại người khổng lồ kia được!?” Nhưng Đa-vít trả lời: “Tâu bệ hạ, con làm được. Khi con chăn chiên, Đức Chúa Trời giúp con giết chết gấu và sư tử. Bây giờ Đức Chúa Trời sẽ giúp con đánh bại tên khổng lồ kia. Ngài sẽ gìn giữ con”. Sau-lơ nói: “Vậy thì con đi đi. Nguyện Đức Chúa Trời ở cùng và giữ gìn con”.
Gô-li-át mặc áo giáp, đội mão đồng, còn Đa-vít không quen nên mặc vào khó đi đứng. Vì thế, Đa-vít cởi áo giáp ra và quyết định dùng loại vũ khí quen thuộc. Đa-vít ra suối chọn lấy năm viên đá bóng láng bỏ vào cái túi chăn chiên đeo bên mình, tay cầm gậy, tay cầm trành ném đá, chạy đến nơi dàn trận (cho các em xem hình).
Thấy Đa-vít cầm gậy bước tới, Gô-li-át khinh bỉ nói: “Ta có phải là con chó đâu mà ngươi cầm gậy đến cùng ta?” Đa-vít trả lời: “Ngươi chiến đấu với ta bằng gươm, bằng giáo, nhưng ta chiến đấu với ngươi bởi Danh Đức Giê-hô-va vạn quân”. Gô-li-át tiến về phía Đa-vít; Đa-vít thò tay vào túi lấy một viên đá đặt vào trành và vung thẳng vào trán Gô-li-át. Viên đá bay vút đi, lọt thấu vào bên trong trán khiến Gô-li-át ngã xuống. Đa-vít xông tới, rút gươm của Gô-li-át ra và chặt đầu kẻ thù. Quân Phi-li-tin thấy Gô-li-át bị giết chết, hoảng hốt chạy tứ phía nên bị quân Sau-lơ đuổi theo tiêu diệt.
Đa-vít tin vào quyền năng và sự gìn giữ của Đức Chúa Trời. Chúa cũng sẽ cứu giúp khi con cái Ngài gặp khó khăn. Xin Chúa cho chúng ta cứ luôn tin cậy, vâng lời Ngài trong bất cứ cảnh ngộ nào.
3. Ứng dụng.
– Cho các em xem câu gốc hôm nay và hỏi: Khi sợ hãi, câu gốc nào có thể giúp các em? Sau khi các em trả lời, giáo viên hỏi: Nếu các em không vâng lời cha mẹ hoặc sợ hãi, các em sẽ làm gì? (Cho các em trả lời). Hãy chia sẻ với các em những cảm xúc hoặc kinh nghiệm của bạn khi sợ hãi.
– Hướng dẫn các em học thuộc câu gốc. Sau đó, giúp các em áp dụng vào cuộc sống (ví dụ: Ở nhà phải vâng lời ba mẹ, xếp dọn áo quần, đồ đạc… cũng đừng sợ hãi vì Đức Chúa Trời luôn ở cùng các em).
– Hướng dẫn các em làm bài tập trong sách học viên.
– Cuối cùng, giáo viên hướng dẫn các em cầu nguyện cảm tạ Chúa đã luôn ở cùng. Xin Chúa giúp các em biết sống trong sự tin cậy và vâng lời Ngài.

BÀI 5. ĐA-VÍT VÀ NGƯỜI KHỔNG LỒ (HV)

I. KINH THÁNH: 1Sa-mu-ên 17.

II. CÂU GỐC: “Hãy vững lòng bền chí, chớ run sợ, chớ kinh khủng; vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi vẫn ở cùng ngươi trong mọi nơi ngươi đi” (Giô-suê 1:9).

III. BÀI TẬP.

1. EM LÀM ĐƯỢC KHÔNG?

Câu chuyện Kinh Thánh hôm nay xảy ra tại một thung lũng.

Em và bạn cùng làm một thung lũng. Dùng giấy màu vàng nâu làm đất, dùng đất sét làm núi, thêm cỏ xanh và hoa cho đẹp.

2. CHIỀU CAO CỦA GÔ-LI-ÁT.

Giáo viên giúp các em:

a. Xem Kinh Thánh 1Sa-mu-ên 17:4, cho biết Gô-li-át cao bao nhiêu? (Xem Bản diễn ý).

b. Cả lớp vẽ hình Gô-li-át lên giấy cứng khổ lớn theo sự hướng dẫn của giáo viên.

c. Dán hình Gô-li-át lên tường.

d. Cho các em đứng bên bức tranh để biết Gô-li-át cao như thế nào so với em.

 

 

3. EM SẼ NÓI GÌ?

* Viết câu trả lời của em.

BÀI 4.  NHẠC SĨ CUNG ĐÌNH (GV-HV)

BÀI 4.  NHẠC SĨ CUNG ĐÌNH (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ III. 2016 on 16 Tháng Bảy, 2018

BÀI 4.  NHẠC SĨ CUNG ĐÌNH (GV)

 I. KINH THÁNH: 1Sa-mu-ên 16:14-23.

II. CÂU GỐC: “Hễ làm việc gì, hãy hết lòng mà làm, như làm cho Chúa, chớ không phải làm cho người ta” (Cô-lô-se 3:23).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Để tỏ lòng yêu mến Chúa, Đa-vít hết lòng làm tốt mọi việc theo ý Ngài.

– Cảm nhận: Chúa vui lòng khi các em biết dùng khả năng Ngài ban để phục vụ Chúa và giúp đỡ người khác.

– Hành động: Noi gương Đa-vít, em làm mọi việc thật tốt để bày tỏ lòng yêu mến Chúa.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

Hội họa.

1. Mục đích: Giúp các em biết dùng hình vẽ diễn đạt lòng yêu mến Chúa.

2. Vật liệu: Giấy vẽ, viết chì màu, một tờ giấy cứng gấp đôi (20 x 30cm). Ghi lên giấy như sau:

  1. Thực hiện:

– Các em làm theo hướng dẫn trên tờ giấy cứng.

– Giáo viên hỏi: “Các em có thích vẽ không? Các em vẽ rất đẹp. Các em biết không, vẽ tranh cũng là một cách bày tỏ lòng yêu mến Chúa”. Sau đó cho các em học câu gốc và cầu nguyện cảm tạ Chúa về mọi điều Ngài ban cho các em.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

  1. Vào đề.

Các em thân mến, trong phần “Sinh Hoạt Đầu Giờ” các em đã được sinh hoạt: Đàn hát, vẽ và đọc Kinh Thánh. Các em thấy không, những điều các em vừa làm đều biểu hiện lòng yêu mến, ca ngợi và cảm tạ Chúa. Các em có thể dùng Thi Thiên của Đa-vít làm lời cầu nguyện của mình. Chúng ta cùng đọc Thi Thiên 19:4. Nhờ sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời nên Đa-vít làm được nhiều việc. Trong bài học tuần trước, các em còn nhớ Đa-vít làm được những gì nào? (Cho các em trả lời). Hôm nay các em chú ý lắng nghe bài học nầy xem Đa-vít sử dụng tài năng của mình như thế nào nhé!

  1. Bài học.

Mọi người trong gia đình đều tin Đức Chúa Trời sẽ giao công việc đặc biệt cho Đa-vít, nhưng chưa rõ việc gì vì chưa đến thời điểm Đa-vít lên ngôi. Vì vậy, Đa-vít vẫn tiếp tục chăn chiên, Sa-mu-ên trở về với công việc của mình, còn Sau-lơ vẫn làm vua.

Dù làm vua của một nước, được mọi người hầu hạ, vâng phục, nhưng Sau-lơ vẫn không cảm thấy vui (cho các em xem hình Sau-lơ), không ai có thể làm cho ông vui vẻ được! Một hôm, một vị quan của Sau-lơ tâu rằng: “Thưa bệ hạ, xin để tôi tìm một người đàn thật hay đến cùng bệ hạ. Có thể tiếng đàn êm ái du dương sẽ giúp bệ hạ vui lên”. Sau-lơ đồng ý: “Tốt lắm, hãy tìm cho ta một người đàn hay”. Một người khác nói tiếp: “Tâu bệ hạ, có một người đàn rất hay. Đó là con trai ông Y-sai ở Bết-lê-hem, một cậu bé dũng cảm và có Đức Chúa Trời ở cùng”. Các em biết người này đang nói về ai không? Chính là Đa-vít. Vua Sau-lơ bảo: “Hay lắm! Hãy tìm con trai của Y-sai đến đàn cho ta nghe”.

Thấy người của vua đến, Y-sai kinh ngạc và lo sợ vô cùng. Người của vua bảo: “Hãy gởi con trai ông là Đa-vít đến cung vua, vì vua muốn nghe cậu ấy đàn”. Y-sai càng ngạc nhiên hơn khi nghe như vậy. Ông liền chuẩn bị bánh, rượu và chiên con cho Đa-vít làm lễ vật dâng vua.

Đa-vít vâng lời cha, vào cung ra mắt vua. Từ đó, mỗi khi vua cảm thấy không vui, Đa-vít liền đàn cho vua nghe (xem hình). Tiếng đàn êm dịu của Đa-vít khiến Sau-lơ được an ủi, tâm hồn nhẹ nhàng, vui vẻ trở lại.

Các em thấy không, Đa-vít sử dụng tài năng trau dồi bấy lâu nay để giúp vua Sau-lơ. Đức Chúa Trời ban cho Đa-vít năng khiếu âm nhạc. Đa-vít cố gắng tập luyện nên cậu đàn rất hay. Cậu dùng âm nhạc bày tỏ lòng yêu mến Chúa và giúp người khác. Đức Chúa Trời cũng chuẩn bị cho Đa-vít cơ hội hầu việc Ngài. Các em cũng vậy, hãy trau dồi khả năng Chúa ban và làm những việc được giao cách hết lòng. Các em có làm được không? Chúa vui lòng khi các em biết dùng khả năng Chúa ban để giúp người khác và phục vụ Ngài.

  1. Ứng dụng.

– Hướng dẫn các em đọc trong tập học viên và tìm câu trả lời (1) Đa-vít luyện tập gì? (2) Đa-vít giúp Sau-lơ bằng cách nào?

– Trong các em, có em biết đàn giống Đa-vít, có em hát hay, có em vẽ đẹp hoặc có nhiều tài năng khác.Trong mắt Đức Chúa Trời, các em đều đặc biệt. Đức Chúa trời dựng nên mỗi người với khả năng khác nhau.

– Hướng dẫn các em làm bài tập “Em thích làm gì?” Hãy đánh dấu các mục sinh hoạt em thích, vì có khả năng gì, em sẽ thích làm việc ấy.

– Các em không nhìn thấy ưu hay khuyết điểm của mình nhưng bạn bè thấy rất rõ. Vậy, các em hãy luân phiên nêu điểm tốt của nhau, khích lệ nhau những việc làm có ích, ví dụ: “Bạn An cẩn thận, luôn dọn dẹp mọi thứ gọn gàng, ngăn nắp…”. Giúp các em nhận thấy những ưu điểm của mình để phát huy những khả năng khác.

– Giải thích cho các em hiểu, không phải Đức Chúa Trời đòi hỏi mọi việc đều phải làm tốt, nhưng Ngài muốn các em phải làm cách hết lòng để bày tỏ lòng em yêu mến Ngài.

BÀI 4. NHẠC SĨ CUNG ĐÌNH (HV)

I. KINH THÁNH: 1Sa-mu-ên 16:14-23.

II. CÂU GỐC: “Hễ làm việc gì, hãy hết lòng mà làm, như làm cho Chúa, chớ không phải làm cho người ta” (Cô-lô-se 2:23).

III. BÀI TẬP.

A. EM THÍCH LÀM GÌ?

Đánh dấu X vào những việc mà em thích làm:

Bơi lội.           Đàn.

Đọc sách.      Nấu ăn.

Vẽ.      Chơi trò chơi.

Hát.     Những việc khác.

B. CÁC BẠN NẦY ĐÃ LÀM GÌ SAU KHI HỌC LỜI CHÚA?

 

  1. NHỮNG ĐIỀU EM LÀM:
  2. Viết ra những điều em làm trong tuần để bày tỏ lòng yêu mến Chúa…………………………….………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………………………………………

  1. Em sẽ lo trau dồi khả năng nào để giúp đỡ người khác?

………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

BÀI 3. NGƯỜI ĐƯỢC CHỌN (GV -HV)

BÀI 3. NGƯỜI ĐƯỢC CHỌN (GV -HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ III. 2016 on 13 Tháng Bảy, 2018

BÀI 3. NGƯỜI ĐƯỢC CHỌN (GV)

 I. KINH THÁNH: 1Sa-mu-ên 16:1-13.

II. CÂU GỐC: “Nguyện lời nói của miệng tôi, sự suy gẫm của lòng tôi được đẹp ý Ngài” (Thi Thiên 19:14).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Đức Chúa Trời chọn Đa-vít làm vua vì biết ông có lòng kính sợ và vâng phục Ngài.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời biết rõ mỗi lòng của các em, Ngài muốn các em sống đẹp ý Ngài.

– Hành động:

* Đọc Kinh Thánh để tìm hiểu Chúa muốn các em làm gì.

* Cầu nguyện xin Chúa giúp các em biết suy nghĩ chín chắn.

* Xin Chúa giúp các em biết vâng phục ý muốn của Ngài và thực hiện ngay từ hôm nay.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

Em tìm được không?

1. Mục đích: Giúp các em hiểu về:

Đa-vít – Bết-lê-hem – Ý nghĩa của việc xức dầu.

2. Vật liệu: Làm sẵn một bảng câu hỏi bằng giấy cứng (55 x 70cm), 4 tấm thiệp tài liệu (xem hình), xem Kinh Thánh và gạch dưới (Lu-ca 2:11), viết màu, mỗi em một thẻ trả lời nhỏ (3 x 5cm), kẹp giấy.

  1. Thực hiện:

– Giáo viên treo bảng câu hỏi lên.

– Phát cho mỗi em một thẻ trả lời 3 x 5cm (ghi “Em tìm được” và tên của em), sau đó giải thích qua nội dung của bốn bảng tài liệu.

– Xem bảng câu hỏi, em nào tìm ra câu trả lời, đem ngay thẻ của mình lên và kẹp kế bên câu hỏi (xem hình).

– Làm xong, giáo viên căn cứ theo thẻ kẹp trên bảng để hỏi và các em trả lời. Khen thưởng những câu trả lời đúng và bổ sung những câu trả lời thiếu hoặc sai.

Hình Sa-mu-ên và Ê-li-áp (xem phụ lục), 4 bảng tài liệu tham khảo (trong phần “Sinh hoạt đầu giờ”), tập học viên bài 3.

  1. BÀI HỌC KINH THÁNH.

* Phương pháp: Kể chuyện có hình, hỏi đáp và diễn kịch.

  1. Vào đề.

Đa-vít là con út trong tám người con trai của ông Y-sai, như vậy, Đa-vít có mấy người anh? (Bảy người). Hằng ngày Đa-vít được giao việc chăn bầy chiên cho cha mình. Đa-vít là người chăn chiên tốt, thường dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi, suối nước bình tịnh. Lúc nào Đa-vít cũng hết lòng chăm sóc và bảo vệ chiên khỏi những hiểm nguy. Khi chiên đã no nê, nằm nghỉ trên thảm cỏ êm ái, Đa-vít ngồi dưới bóng cây râm mát, đàn hát cho chiên nghe những bài do ông sáng tác.

  1. Bài học.

Cứ thế, ngày tháng trôi qua, Đa-vít vui vẻ với cuộc sống chăn chiên cho đến một ngày, một chuyện lạ xảy ra làm thay đổi cuộc đời của cậu.

Hôm đó, Đa-vít dẫn bầy chiên ra đồng như thường lệ, không biết rằng có một cụ già tên là Sa-mu-ên đến thành Bết-lê-hem. Đức Chúa Trời bảo ông đến đây tìm một vị vua mới. Chúa phán với ông: “Sau-lơ là một vị vua không tốt, chẳng biết kính sợ Ta, cũng không vâng lời Ta. Vì thế, thay vì để con trai Sau-lơ lên nối ngôi cha, Ta sẽ chọn một vị vua mới. Ngươi hãy đến Bết-lê-hem, tìm gặp con trai của Y-sai. Ta sẽ chỉ cho ngươi chọn một trong tám con trai của Y-sai làm vua”.

Sa-mu-ên tìm đến nhà Y-sai và bảo muốn gặp các con của ông. Y-sai liền gọi các con mình từng người một đến trước mặt Sa-mu-ên. Đầu tiên là người con trưởng cao lớn, khôi ngô tuấn tú tên là Ê-li-áp. Sa-mu-ên nghĩ bụng: “Chắc đây là người Đức Chúa Trời chọn làm vua”, nhưng Đức Chúa Trời phán: “Chớ xem về bộ dạng và hình vóc cao lớn của nó, vì Ta đã bỏ nó. Loài người nhìn thấy bề ngoài nhưng Đức Chúa Trời nhìn thấy trong lòng”. Chúa là Đấng thấu hiểu lòng người. Ngài biết Ê-li-áp không phải là vị vua tốt.

Bây giờ chúng ta cùng đóng vai các con trai khác của Y-sai đến gặp Sa-mu-ên. (Giáo viên hướng dẫn các em đóng kịch theo tập học viên bài 29 – Diễn xong cho các em xem hình Sa-mu-ên xức dầu cho Đa-vít). Như vậy, cha và các anh của Đa-vít đã chứng kiến việc Sa-mu-ên xức dầu cho Đa-vít. Mọi người biết Đức Chúa Trời chọn Đa-vít làm một việc đặc biệt, nhưng chưa biết ấy là việc gì, vì Sa-mu-ên không nói ra điều đó.

Theo các em thì tại sao Đức Chúa Trời chọn Đa-vít làm vua? (Cho các em trả lời). Đức Chúa Trời biết Đa-vít yêu mến và vâng lời Ngài. Sau này, Đa-vít phạm tội không vâng lời Chúa nhưng vì ông ăn năn, nên Ngài tha thứ và giúp ông trở lại con đường ngay thẳng.

Đức Chúa Trời hiểu rõ lòng người, Ngài biết Đa-vít sẽ trở thành một vị vua tốt.

  1. Ứng dụng.

– Đa-vít yêu mến Chúa nhưng ông cũng biết vâng phục Chúa là một việc không dễ. Đôi khi các em cũng cảm thấy như vậy phải không? Các em có luôn vâng lời cha mẹ không?

– Đa-vít biết cần nhờ cậy Chúa để sống vâng phục Ngài. Câu gốc hôm nay là lời cầu nguyện của Đa-vít với Đức Chúa Trời.

– Để biết mức độ tiếp thu câu gốc của các em, có thể mời vài em giải thích câu gốc. Giáo viên giải thích cho các em biết, sự suy nghĩ của các em có liên quan đến người khác. Nếu suy nghĩ tốt về một người, các em sẽ đối xử tốt với họ và ngược lại. Vì thế, các em cần sự giúp đỡ của Chúa để có suy nghĩ và hành động tốt. Các em có muốn lời cầu nguyện của Đa-vít trở thành lời cầu nguyện của mình không? Các em cùng đọc câu gốc với cả tấm lòng.

– Các em cần biết mạng lệnh của Chúa để làm theo. Câu gốc nào cho các em biết ý muốn của Đức Chúa Trời? Hãy cùng đọc những câu Kinh Thánh sau đây: Ê-phê-sô 4:32; 6:1; Lê-vi Ký 19:11. Sau đó, hướng dẫn các em làm một bảng câu gốc treo tường.

– Trong khi các em thực hiện, giáo viên hướng dẫn các em cắt câu gốc theo hình mẫu trong tập học viên, dán lên giấy hoặc dây ruy băng; khuyến khích các em vâng phục Chúa.

– Làm xong, các em dán lên tường. Sau đó, giáo viên hướng dẫn các em cầu nguyện, xin Chúa giúp các em sẵn lòng vâng lời Ngài.

BÀI 3. NGƯỜI ĐƯỢC CHỌN (HV)

I. KINH THÁNH: 1Sa-mu-ên 16:1-13.

II. CÂU GỐC: “Nguyện lời nói của miệng tôi, sự suy gẫm của lòng tôi được đẹp ý Ngài” (Thi Thiên 19:14).

III. BÀI TẬP.

A. KỊCH.

Thay đổi câu chuyện Kinh Thánh thành vở kịch ngắn, dựa theo mẫu đối thoại dưới đây:

– Dẫn chuyện: Đức Chúa Trời bảo ông Sa-mu-ên đến nhà Y-sai để chọn một vị vua mới cho dân Y-sơ-ra-ên.

– Sa-mu-ên: Chào ông Y-sai, Đức Chúa Trời chọn một trong những người con của ông làm một việc rất đặc biệt. Tôi muốn gặp các con của ông để xem Ngài chọn ai.

– Y-sai: Ồ! Thật vậy à? Tôi sẽ gọi chúng đến ngay bây giờ.

Dẫn chuyện: Bảy người con trai lớn của Y-sai đi ngang qua trước mặt của Sa-mu-ên (Bảy em lần lượt đi ngang qua.) nhưng Sa-mu-ên cứ lắc đầu…

– Sa-mu-ên: (lắc đầu) Không, không phải, Đức Chúa Trời không chọn những người nầy. Y-sai, ông còn người con nào không?

– Y-sai: Tôi còn một con út, hãy còn nhỏ. Tên nó là Đa-vít, đang chăn chiên ngoài đồng.

– Sa-mu-ên: Ông gọi nó về cho tôi xem sao.

– Dẫn chuyện: Người ta gọi Đa-vít về, cậu đến trước mặt Sa-mu-ên. Đức Chúa Trời cho Sa-mu-ên biết cậu bé nầy chính là người được Ngài chọn. Sa-mu-ên đứng lên, lấy dầu đổ trên đầu Đa-vít.

– Sa-mu-ên (xức dầu cho Đa-vít): Đa-vít, Đức Chúa Trời chọn con làm một việc đặc biệt cho Ngài. Xin Chúa ban phước cho con và công việc của con.

B. EM LÀM.

* Làm câu gốc treo tường, để nhắc các em vâng giữ lời Chúa.

1. Cắt hoặc viết lại những câu Kinh Thánh dưới đây, dán vào giấy hoặc dây ruy băng.

2. Trong tuần này, em làm theo câu gốc nào? Thêm ngôi sao vào bên cạnh câu gốc.

“Hỡi kẻ làm con cái, hãy vâng phục cha mẹ mình trong Chúa, vì điều đó là phải lắm” (Ê-phê-sô 6:1).

“Hãy ăn ở với nhau cách nhân từ, đầy dẫy lòng thương xót, tha thứ nhau như Đức Chúa Trời đã tha thứ anh em trong Đấng Christ vậy” (Ê-phê-sô 4:32).

“Các ngươi chớ ăn trộm, ăn cắp, chớ nói dối và chớ lừa đảo nhau” (Lê-vi Ký 19:11).

Bài 2.  NGƯỜI CHĂN BẢO VỆ CHIÊN (GV-HV)

Bài 2.  NGƯỜI CHĂN BẢO VỆ CHIÊN (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ III. 2016 on 13 Tháng Bảy, 2018

Bài 2.  NGƯỜI CHĂN BẢO VỆ CHIÊN (GV)

 I. KINH THÁNH: Thi Thiên 23:4-6.

II. CÂU GỐC: “Dầu khi tôi đi trong trũng bóng chết, tôi sẽ chẳng sợ tai họa nào; vì Chúa ở cùng tôi, cây trượng và cây gậy của Chúa an ủi tôi” (Thi Thiên 23:4).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Đa-vít ca ngợi Chúa đã ở cùng, bảo vệ ông như người chăn đối với chiên mình.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời là Đấng chăn giữ em. Ngài sẵn lòng giúp đỡ, bảo vệ em trong mọi hoàn cảnh.

– Hành động: Cảm tạ Chúa vì Ngài luôn ở cùng, giúp đỡ và bảo vệ em.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Bối cảnh Kinh Thánh.

– Chuẩn bị “Bảng chọn lựa” theo mẫu sau đây (“Sinh hoạt đầu giờ” bài 1).

  1. Mục đích: Giúp các em biết cách người chăn bảo vệ chiên (Thi Thiên 23:4-6).
  2. Vật liệu: Giấy màu cứng (lớn nhỏ tùy ý nhưng màu sắc khác nhau), 4 tấm giấy cứng (12 x 15cm), bảng, keo dán.
  3. Thực hiện:

– Giáo viên chuẩn bị 4 tấm giấy cứng theo tập học viên bài 2.

– Chia các em thành 4 nhóm, mỗi nhóm chọn một mục để các em tự làm “Bảng chọn lựa”. Nếu học viên ít, có thể chọn ba mục còn một mục giáo viên giúp các em hoàn thành.

Gợi ý 1: Núi và trũng.

  1. Vật liệu: Giấy cứng 1, vải màu nâu, vài tờ giấy báo.
  2. Thực hiện: Giờ học, các em tự làm núi và thung lũng bằng vật liệu trên.

– Hỏi các em: “Trũng là gì?” (Khoảng đất giữa hai ngọn núi). “Có những lúc người chăn dẫn chiên đi vào vùng đất dốc hoặc băng ngang qua trũng. Em có thể tạo hình một trũng không?”

Gợi ý 2: Rắn, sói và sư tử.

  1. Vật liệu: Giấy cứng 2, đất sét, giấy vẽ 22 x 30cm, bút màu.
  2. Thực hiện: Cho các em dùng đất sét nặn hình rắn, sói, sư tử. Sau đó đặt rắn lên cỏ, để sói và sư tử vào nơi trũng.

– Xem trong Thi Thiên 23 những con vật nào muốn tấn công bầy chiên, và người chăn bảo vệ chiên bằng cách nào?

Gợi ý 3: Cây trượng và cây gậy.

  1. Vật liệu: Giấy cứng 3, dùng kẽm (5cm) làm trượng và (15cm) làm gậy, lấy đất sét bọc quanh kẽm.
  2. Thực hiện:

– Sau khi các em làm xong, đặt gậy và trượng vào tay người chăn.

– Xem trong Thi Thiên 23, cách người chăn dùng trượng để cứu những con chiên rơi xuống trũng và gậy để bảo vệ đàn chiên khỏi thú dữ.

Gợi ý 4: Cái chén.

  1. Vật liệu: Giấy cứng 4, đất sét.
  2. Thực hiện: Dùng đất sét làm chén và đặt vào bối cảnh lịch sử thời Kinh Thánh.

– Xem tấm giấy cứng 4 và Thi Thiên 23 để tìm ra công dụng của chén.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH

(Chuẩn bị thị cụ: Dùng 4 tấm giấy bìa vừa làm xong và hình vẽ phối hợp với kể chuyện.

1. Vào đề.

Các em thân mến, chắc hẳn có nhiều em trong các em đã thuộc lòng Thi Thiên 23. Tuần trước các em đã học phần I nói về việc người chăn dẫn chiên đến nơi an toàn. Hôm nay các em sẽ học phần II. Phần nầy nói đến việc người chăn dẫn chiên vượt qua những nguy hiểm. Bây giờ các em cùng lắng nghe nha!

2. Bài học.

a. Người Chăn Giải Cứu Khi Chiên Gặp Nguy Hiểm.

(Cho các em xem hình 2). Khi không còn đủ cỏ xanh và nước uống cho chiên, người chăn dẫn chiên đến vùng đất khác tốt hơn. Dù đôi lúc phải vượt qua những chỗ khó khăn, nguy hiểm, nhưng người chăn luôn dẫn chiên đến nơi bình yên, an toàn. Các em thử đoán xem khi đi qua những chỗ nguy hiểm chiên cảm thấy như thế nào? Điều gì khiến chiên sợ hãi? (Bóng tối, thú dữ rình rập tấn công). Người chăn luôn cầm trên tay vật gì? (Gậy và trượng). Người chăn dùng những vật nầy để làm gì? (Giúp các em nhớ lại những gì đã làm trong “Sinh Hoạt Đầu Giờ”).

Người chăn thường dùng cây trượng vỗ nhẹ lên lưng chiên để chỉ đường (dùng động tác làm ví dụ) hoặc báo hiệu người chăn đang ở gần bảo vệ chiên. Từ trong bóng tối của trũng, thú dữ có thể bất ngờ tấn công, nhưng cây trượng và cây gậy của người chăn luôn bảo vệ khiến chiên an lòng. Chiên biết người chăn yêu thương và sẵn sàng bảo vệ chiên trong bất kỳ hoàn cảnh nào “Tôi sẽ chẳng sợ tai họa nào” có ý nghĩa gì? (Tôi tin chẳng có điều nào có thể làm hại được tôi.)

Đáng sợ nhất là những con rắn ẩn trong cỏ rậm, có thể lao ra cắn chiên bất cứ lúc nào. Để đề phòng điều ấy, người chăn phải làm gì? (Dùng gậy đập đuổi rắn). Người chăn còn nhổ bỏ cỏ độc và cỏ gai để chiên khỏi bị nguy hiểm vì ăn nhằm những thứ đó.

Nhìn vào hình, em thấy gì trong hang núi? Khi chiên đang gặm cỏ, người chăn làm cách nào để bảo vệ chiên khỏi bị tấn công? Người chăn chuẩn bị tiệc cho chiên như thế nào? (Không phải một bàn đầy thức ăn, nhưng ý muốn nói dẫn chiên đến nơi có cỏ non xanh tươi và bình yên.)

b. Người Chăn Chăm Sóc Khi Chiên Mệt Mỏi Và Bị Thương.

Chiều tối, người chăn dẫn chiên về, đứng ngoài cửa chuồng và đếm từng con khi chiên vào. Vì sao phải làm thế? Người chăn muốn kiểm tra xem chiên có bị thiếu mất và bị thương tích gì không? Nếu có, theo các em, người chăn sẽ làm gì? (Kiếm tìm chiên lạc, xức thuốc, băng bó, chữa trị cho chiên bị thương). Vì thế, Kinh Thánh nói rằng: “Ngài xức dầu cho đầu tôi”. Người chăn làm gì khi chiên mệt mỏi, khát nước? Người chăn sẽ pha thuốc khi đổ nước vào máng cho chiên uống.

Chắc chắn khi viết Thi Thiên này, Đa-vít nghĩ đến việc hằng ngày người chăn chăm sóc chiên bằng nhiều cách. Cũng vậy, Đức Chúa Trời chăm sóc các em mỗi ngày (hình 2). Chiên tin cậy và sống vui vẻ trong tình thương của người chăn chiên, thì Đa-vít cũng vui hưởng tình thương vĩnh cữu của Đức Chúa Trời. Đa-vít đã luôn trông cậy vào Đấng yêu thương và chăm sóc ông.

3. Ứng dụng.

Đây là dịp tiện để giáo viên biết nguyên nhân khiến các em lo sợ. Chia các em thành từng nhóm nhỏ để dễ chia sẻ cảm xúc lo sợ ấy. Dùng câu hỏi gợi ý giúp các em thảo luận. Sau đó, giúp các em nhận biết và tin cậy nơi người chăn là Chúa Giê-xu, Ngài sẽ giúp các em giải quyết mọi nan đề.

– Cho các em xem tập học viên bài 2. Hỏi các em: Nhìn gương mặt các bạn trong hình, các em đoán xem họ đang gặp phải chuyện gì? Tâm trạng như thế nào? (Đi lạc, ở nhà một mình, mẹ đi vắng nên sợ hãi…). Nếu các em chưa chuẩn bị câu trả lời, giáo viên có thể gợi ý: “Trời tối đen như mực, Minh cảm thấy vô cùng sợ hãi, còn Hồng thì khuya rồi mới nhớ mình quên học bài ngày mai”.

– Sau khi thảo luận, giáo viên hướng dẫn các em viết câu trả lời vào tập học viên.

– Sau đó, giáo viên hướng dẫn các em học câu gốc và tóm tắt Thi Thiên 23. Để dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi, người chăn phải đưa chiên vượt qua trũng bóng chết. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào Chúa Giê-xu cũng bảo vệ, chăm sóc và an ủi các em.

– Hỏi các em: “Khi sợ hãi, lo âu các em làm gì?” (Cảm tạ Chúa đã luôn ở cùng em và cầu xin Chúa giúp đỡ em trong hoàn cảnh ấy). Hướng dẫn các em cùng cầu nguyện.

V. PHỤ LỤC.

– Giúp các em hiểu thế nào là sự chết và thiên đàng.

Trẻ 7-8 tuổi thường sợ chết vì các em nhận thức cách mơ hồ về điều nầy. Nếu giáo viên thấy cần giúp đỡ các em có quan niệm đúng đắn về sự chết, nhất là “trũng bóng chết” trong Thi Thiên 23, xin tham khảo một số ý kiến sau:

Khi người thân qua đời, chúng ta thường đau buồn một thời gian. Có em nào trải qua tâm trạng nầy chưa? Và việc gì sẽ xảy ra khi bước qua cuộc đời nầy? Giúp các em hiểu rằng con người chỉ chết phần thể xác, còn linh hồn không nhìn thấy được, không nắm bắt được sẽ không chết. Qua đó, các em nhận biết tình yêu thương của Chúa. Nếu em tin nhận Chúa Giê-xu và trở nên con cái Ngài, khi qua đời, linh hồn của em sẽ trở về thiên đàng để cùng sống đời đời với Chúa Giê-xu.

Các em không thể nhìn thấy thiên đàng, nhưng qua Kinh Thánh, chúng ta biết một số điều về nơi ấy. Kinh Thánh cho biết thiên đàng là nơi không có bệnh tật hoặc nước mắt, người sống trên thiên đàng sẽ không có sự chết hoặc đau khổ, linh hồn họ luôn vui mừng và an nghỉ trong Chúa. Vì thế, chết không phải là điều đáng sợ, vì sau khi chết các em sẽ đến thiên đàng gặp Chúa và sống đời đời với Ngài.

Nếu các em hỏi về thiên đàng mà bạn chưa biết, hãy thành thật nói: “Có nhiều điều hiện nay chúng ta chưa hiểu hết, nhưng đến lúc gặp Chúa, chúng ta sẽ biết rõ”.

Bài 2.  NGƯỜI CHĂN BẢO VỆ CHIÊN (HV)

I. KINH THÁNH: Thi Thiên 23:4-6.

II. CÂU GỐC: “Dầu khi tôi đi trong trũng bóng chết, tôi sẽ chẳng sợ tai họa nào; vì Chúa ở cùng tôi. Cây trượng và cây gậy Chúa an ủi tôi” (Thi Thiên 23:4).

III. BÀI TẬP.

A. TÔ MÀU HÌNH VẼ.

Em là người chăn chiên.

 

B. CHÚNG TA CÙNG LÀM.

1. Núi Và Thung Lũng.

Lấy giấy báo vo thành hình nón rồi phủ giấy hoặc vải màu nâu lên làm núi, đặt lên giấy màu xanh lá cây (thung lũng).

 

 

 

2. Rắn, Sói Và Sư Tử.

Vẽ hoặc lấy đất sét làm rắn, sói và sư tử, sau đó đặt vào núi và thung lũng.

 

 

 

 

3. Gậy Và Trượng.

Dùng đất sét và kẽm làm gậy. Người chăn chiên dùng gậy để bảo vệ chiên khỏi thú dữ làm hại.

Dùng đất sét và kẽm làm cây trượng.

Đọc Thi Thiên 23:4-6 rồi cho biết người chăn dùng cây trượng làm gì?

4. Chén.

Đôi khi bên cạnh giếng hoặc máng nước có đặt chén cho chiên con uống nước. Dùng đất sét làm chén, đặt bên cạnh giếng.

C. EM ĐOÁN XEM.

Nhìn nét mặt của hai bạn nầy như thế nào? Họ sợ gì? Họ nghĩ gì?

 

 

Bài 1. NGƯỜI CHĂN CHIÊN (GV-HV)

Bài 1. NGƯỜI CHĂN CHIÊN (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ III. 2016 on 12 Tháng Bảy, 2018

Bài 1. NGƯỜI CHĂN CHIÊN (GV)

 I. KINH THÁNH: Thi Thiên 23:1-3.

II. CÂU GỐC: “Đức Giê-hô-va là Đấng chăn giữ tôi, tôi sẽ chẳng thiếu thốn gì” (Thi Thiên 23:1).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Đa-vít ca ngợi và cảm tạ Đức Chúa Trời đã yêu thương, chăm sóc ông như người chăn yêu thương, chăm sóc chiên.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời yêu thương em vô cùng, Ngài ban cho em đủ mọi nhu cầu trong cuộc sống.

– Hành động: Cám ơn Chúa đã yêu thương và chăm sóc em.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

B. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

Bối cảnh thời đại Kinh Thánh.

1. Vật liệu: Một tấm giấy dày (hoặc bảng), 6 tờ giấy màu cắt thành băng dài, bút màu, keo dán.

2. Thực hiện: Giáo viên vẽ theo mẫu sau đây lên giấy màu, sau đó cắt ra và dán lên bảng (xem hình).

* NGƯỜI CHĂN CHIÊN.

1. Mục đích: Giúp các em biết công việc chăm sóc chiên của người chăn để thấy được chân lý trong Thi Thiên 23:1-3.

2. Vật liệu: Giấy cứng, dây kẽm, xốp hoặc bông gòn, vải trắng, kéo, viết, keo dán, đất sét.

3. Thực hiện:

Giáo viên chuẩn bị trước bốn tờ giấy cứng (xem tập học viên bài 27) và hình người chăn chiên theo chỉ dẫn sau đây:

 

– Giờ học, chia các em thành 4 tổ, mỗi tổ làm một loại đề mục.

* Gợi ý 1: Đồng cỏ và chiên con.

1. Vật liệu: Giấy cứng, 2 dây kẽm dài 7,5cm, 3 dây kẽm dài 10cm, bông gòn, giấy hoặc vải màu xanh, kéo, keo dán, màu.

2. Thực hiện:

– Giáo viên nhìn theo hình mẫu và hướng dẫn các em làm.

– Khi các em làm xong, giáo viên hỏi: Đồng cỏ là gì? Chiên con làm gì ngoài đồng cỏ? Đặt thị cụ vừa làm xong bên cạnh thiệp.

* Gợi ý 2: Con đường.

1. Vật liệu: Giấy cứng, giấy nhám hoặc giấy màu nâu, kéo.

2. Thực hiện:

– Trước hết, dùng bút gạch dưới câu Kinh Thánh Giăng 10:4.

– Hướng dẫn các em cắt giấy màu nâu thành hình con đường, rồi dán vào giấy cứng (xem).

– Hướng dẫn các em cắt giấy màu nâu thành hình con đường, rồi dán vào giấy cứng (xem hình).

– Hỏi các em: Làm thế nào chiên biết được đường đi? Người chăn đi trước hay đi sau chiên? Sau đó hướng dẫn các em đọc Giăng 10:4.

* Gợi ý 3: Đồi và suối nước.

1. Vật liệu: Giấy cứng, giấy màu xanh dương, bông gòn, kéo, đá nhỏ, chì màu, keo dán.

2. Thực hiện: Làm theo hướng dẫn trong hình (xem hình).

– Hỏi các em: Người chăn phải làm thế nào để cho chiên con uống nước? (Người chăn làm một cái máng riêng để chiên con có thể thoải mái uống nước). Có thể đập bể máng với một viên đá nhỏ không? (Không, vì máng làm bằng đá rất cứng).

* Gợi ý 4: Giếng và máng nước.

1. Vật liệu: Giấy cứng, đất sét, đá nhỏ.

2. Thực hiện:

– Dùng đá nhỏ xây giếng và máng nước lên một tờ giấy cứng (xem hình).

– Hỏi các em: Người chăn làm gì khi chiên khát nước? (Người chăn đến bên giếng, múc nước đổ vào máng cho chiên con uống).

B. BÀI HỌC KINH THÁNH

(Chuẩn bị thị cụ: Kinh Thánh, hình trong phần “Sinh hoạt đầu giờ” (xem phụ lục), tập học viên bài 1).

  1. Bài Ca Người Chăn Chiên.

Các em biết không, Thi thiên là một sách ở giữa Kinh Thánh (mở Kinh Thánh ra), gồm có 150 bài thơ. Các em sẽ nhận biết về Chúa nhiều hơn khi học Thi Thiên. Hôm nay chúng ta sẽ cùng xem Thi Thiên 23. (Giáo viên đọc cả đoạn rồi hướng dẫn các em đọc câu 1. Có thể mở tập học viên đọc câu gốc bài 1).

Thi Thiên 23 được gọi là “Bài Ca Của Người Chăn”. Chúa Giê-xu phán: “Ta là người chăn hiền lành”. (Hỏi các em ý nghĩa của câu nầy). Ngài yêu thương và chăm sóc các em như người chăn chăm sóc chiên của mình vậy.

  1. Người Chăn Đáp Ứng Nhu Cầu Của Chiên.

(Cho các em đọc Thi Thiên 23:2). Thế nào là đồng cỏ xanh tươi? (Cho các em xem hình 1 hoặc “Gợi ý 1” trong “Sinh Hoạt Đầu Giờ”).

Vào thời ấy, trong xứ không có nhiều đồng cỏ xanh tươi như vậy (cho các em xem hình 2), nên người chăn rất vất vả khi tìm kiếm đồng cỏ xanh tươi cho chiên ăn. Nếu bị đói khát, sợ hãi hoặc ruồi muỗi quấy nhiễu, chiên không thể nào ngủ yên được. Vì thế, ngoài việc lo thức ăn, nước uống, người chăn phải canh chừng để cho chiên được yên ổn. Suối nước đã ít lại khó tìm, mùa nắng lại khô cạn. Theo các em thì ngoài sông suối ra, tìm nước ở đâu cho đàn chiên uống? (Cho các em xem hình giếng và máng nước). Lúc gặp dòng suối chảy mạnh, người chăn thận trọng khi cho chiên uống vì sợ dòng nước chảy xiết khiến chiên hoảng sợ, té xuống và bị nước cuốn trôi.

  1. Người Chăn Dẫn Dắt Chiên.

(Đọc Thi Thiên 23:3). Lúc chiên đi lạc đường, người chăn lặn lội tìm kiếm. Khi tìm được chiên thì người chăn bồng chiên lên và đem về nhà. “Ngài bổ lại linh hồn tôi”, nghĩa là Ngài tha thứ mọi tội lỗi và cho chúng ta được an nghỉ khi mệt mỏi. (Đọc Thi Thiên 23:3a, cho các em mô tả lại sự việc xảy ra trong hình). Làm thế nào chiên biết đường đi? (Người chăn dẫn dắt).

  1. Ứng dụng.

Em có thể mô tả tình yêu thương của người chăn đối với chiên không? Đức Giê-hô-va là Đấng chăn giữ chúng ta. Ngài ban cho chúng ta mọi nhu cầu và dẫn dắt chúng ta như người chăn dẫn dắt chiên mình.

– Nhu cầu hằng ngày của các em là gì? (Thức ăn, quần áo, gia đình, nhà cửa…). Là người chăn, Đức Chúa Trời dùng cách gì để cung cấp mọi nhu cầu cho các em? (Ngài ban cho thực vật và động vật làm thức ăn, áo quần và những vật liệu khác. Ngài ban cho các em cha mẹ và những người yêu thương các em). Hướng dẫn các em học câu gốc và cùng cầu nguyện cảm tạ Đức Chúa Trời đã cung cấp mọi sự.

– Đức Chúa Trời dạy dỗ các em bằng cách nào? (Qua Kinh Thánh, cha mẹ, thầy cô và những người chung quanh…).

– Hướng dẫn các em hoàn tất bài tập, sau đó khuyến khích các em chia sẻ lại những điều đã học được trong tuần nầy.

V. PHỤ LỤC.

* Thị cụ: Sổ tay “Bài ca người chăn chiên”.

1. Vật liệu: 6 tờ giấy, bút màu, bút chì, bấm sách.

2. Thực hiện: Trước tiên, giáo viên xếp đôi 6 tờ giấy, bấm thành quyển sách. Sau đó vẽ theo các hình dưới đây và chép vào các câu Kinh Thánh liên quan (xem hình).

 

* Hình phụ trợ.

1. Vật liệu: 2 tờ giấy trắng cứng, bút màu, bút chì.

2. Cách làm: Giáo viên vẽ hình lên giấy cứng theo mẫu (1) và (2) rồi tô màu (xem hình).

Bài 1.  NGƯỜI CHĂN CHIÊN (HV)

I. KINH THÁNH: Thi Thiên 23:1-3.

II. CÂU GỐC: “Đức Giê-hô-va là Đấng chăn giữ tôi, tôi sẽ chẳng thiếu thốn gì” (Thi Thiên 23:1).

III. BÀI TẬP.

A. CHÚNG TA CÙNG LÀM.

* Người chăn chăm sóc chiên như thế nào?

  1. Đồng Cỏ Và Chiên Con.

Đồng cỏ là một vùng đất rộng mênh mông, mọc đầy cỏ xanh tươi tốt (Dùng giấy hoặc vải màu xanh lá cây để làm đồng cỏ.)

 

 

 

 

 

Làm mấy con chiên đặt lên đồng cỏ; đọc Thi Thiên 23: “Bài ca chăn chiên”. Tìm xem chiên làm gì trên đồng cỏ. Em có làm cho con chiên của mình được như vậy không?

  1. Đường Đi.

Dùng giấy màu nâu hoặc giấy nhám làm mấy con đường.

 

 

 

 

  1. Khe Núi, Thung Lũng Và Dòng Suối.

Dùng giấy màu xanh dương làm dòng suối chảy ra sông lớn. Dùng đất sét làm núi rồi dán giấy màu xanh lên cho suối chảy từ triền núi xuống thung lũng, bên bờ suối có những hòn sỏi nhỏ.

 

 

 

 

  1. Giếng Và Máng Nước.

Dùng đất sét làm một cái giếng và máng nước (làm từng viên gạch xếp lên nhau). Đây là nơi người chăn cho chiên uống nước.

 

 

 

B. CHÚA GIÊ-XU LÀ NGƯỜI CHĂN HIỀN LÀNH.

  1. Chúa dạy em phải đối xử với người khác như thế nào?

Viết những điều Chúa dạy em vào đây:

 

 

 

  1. Đọc những câu Kinh Thánh dưới đây và làm theo.

– Đánh dấu X vào ô vuông trước câu Kinh Thánh em đã làm theo.

“Hỡi kẻ làm con cái, hãy vâng phục cha mẹ mình trong Chúa, vì điều đó là phải lắm” (Ê-phê-sô 6:1).

“Các ngươi hãy yêu nhau cũng như Ta đã yêu các ngươi” (Giăng 15:12).

“Hãy yêu kẻ thù mình, làm ơn cho kẻ ghét mình” (Lu-ca 6:27).

BÀI 13.  BÀI ÔN (GV-HV)

BÀI 13.  BÀI ÔN (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ II. 2016 on 10 Tháng Bảy, 2018

BÀI 13.  BÀI ÔN (GV-HV)

 I. KINH THÁNH: Tất cả các đoạn Kinh Thánh đã học trong quí.

II. CÂU GỐC: Tất cả các câu gốc đã học trong quí.

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Đức Chúa Trời là Đấng thành tín, lời hứa của Ngài được ứng nghiệm trong Kinh Thánh.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời luôn làm thành lời hứa của Ngài.

– Hành động: Em hết lòng tin cậy nơi Đức Chúa Trời, vì Ngài là Đấng thành tín.

IV. ÔN CÂU GỐC.

Chuẩn bị một số giấy trắng (số giấy tương ứng với số các em). Viết lên mỗi tờ giấy một câu gốc nhưng không viết địa chỉ, hoặc viết địa chỉ nhưng không viết câu gốc (những câu gốc đã học trong quí). Xếp giấy lại, cho các em lần lượt lên rút một tờ giấy và nói lên địa chỉ hoặc câu gốc còn thiếu. Em nào đáp đúng được thưởng một chiếc kẹo.

V. ÔN BÀI.

  1. Dùng thị trợ: Dùng những hình vẽ đã sử dụng khi dạy bài học để ôn bài sẽ có hiệu quả hơn. Bạn nên cùng các em hát xen vào lúc ôn bài để tạo sự hứng thú cho các em.
  2. Dùng những câu gợi ý cách gián tiếp: Giúp các em đoán ra nhân vật.

Ví dụ:

a. Tôi được Đức Chúa Trời hứa sẽ ở cùng, gìn giữ, bảo vệ tôi bất cứ nơi nào. Vậy tôi là ai?

b. Tôi được mẹ và bà ngoại dạy Kinh Thánh từ bé. Tôi rất ham thích học Kinh Thánh. Vậy tôi là ai?

 

TRANG TÀI LIỆU 1

 

TRANG TÀI LIỆU 2

 

TRANG TÀI LIỆU 3

 

TRANG TÀI LIỆU 4

 

TRANG TÀI LIỆU 5

 

TRANG TÀI LIỆU 6

 

TRANG TÀI LIỆU 7

 

TRANG TÀI LIỆU 8

 

TRANG TÀI LIỆU 9

 

TRANG TÀI LIỆU 10

 

TRANG TÀI LIỆU 11

 

TRANG TÀI LIỆU 12

 

TRANG TÀI LIỆU 13

 

TRANG TÀI LIỆU 14

 

TRANG TÀI LIỆU 15

 

TRANG TÀI LIỆU 16

 

TRANG TÀI LIỆU 17

 

 

BÀI 12. CHÚA GIÊ-XU HIỆN RA VỚI CÁC MÔN ĐỒ (GV-HV)

BÀI 12. CHÚA GIÊ-XU HIỆN RA VỚI CÁC MÔN ĐỒ (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ II. 2016 on 10 Tháng Bảy, 2018

BÀI 12. CHÚA GIÊ-XU HIỆN RA VỚI CÁC MÔN ĐỒ (GV)

 I. KINH THÁNH: Giăng 20:19-23 (Giáo viên tham khảo thêm Lu-ca 24:35-41; 1Cô-rinh-tô 15:5-8).

II. CÂU GỐC: “Lòng các ngươi chớ hề bối rối; hãy tin Đức Chúa Trời, cũng hãy tin ta nữa” (Giăng 14:1).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Sau khi sống lại, Chúa Giê-xu hiện ra với các môn đồ, để an ủi và củng cố đức tin của họ.

– Cảm nhận: Chúa Giê-xu sống lại là một Tin Lành, một sự vui mừng cho mọi người.

– Hành động: Em nói về Tin Lành của Chúa Giê-xu cho mọi người.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Tin Vui.

1. Cho các em mở sách học viên, hướng dẫn các em làm bài tập “Tin Vui”.

2. Mọi người lần lượt chia sẻ tin vui của mình, hoặc của gia đình mình trong thời gian gần đây cho cả lớp cùng nghe.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Dùng cách đóng vai diễn để kể chuyện, gây cho các em không khí hứng thú để trả lời).

  1. Vào đề.

Trong bài học tuần trước, các em có nhớ một số phụ nữ khi đến thăm mộ Chúa Giê-xu, họ phát hiện điều gì? (Cho các em trả lời). Họ phát hiện Chúa Giê-xu không có trong ngôi mộ, Ngài đã sống lại. Thiên sứ báo cho họ biết tin nầy và dặn họ đi nói với các môn đồ. Khi nghe tin tức nầy, các môn đồ tin hay không? (Cho các em trả lời). Bây giờ các em hãy tưởng tượng rằng mình là các môn đồ của Chúa Giê-xu. Trong lúc cô (thầy) kể chuyện, sẽ hỏi các em về phản ứng cũng như cảm nhận của các em, còn các em hãy xem như mình là môn đồ của Chúa Giê-xu mà trả lời nhé.

  1. Bài học.

Đêm Chúa nhật hôm Chúa Giê-xu sống lại, các em tập trung tại một căn phòng mà các em thường nhóm lại. Cửa phòng được khóa chặt. Tại sao các em làm vậy? (Các em trả lời). Có phải là sợ những người đã giết hại Chúa Giê-xu đến hại các em không? (Các em trả lời). Có phải vì thi thể của Chúa Giê-xu không tìm thấy, các em sợ quân lính đến làm khó? (Các em trả lời). Có phải các em tập trung lại để bàn cách đối phó? (Các em trả lời). Hay là vì lo lắng không biết thi hài Chúa Giê-xu thế nào rồi? (Các em trả lời).

Đang lúc mọi người đều bối rối, đột nhiên có tiếng nói quen thuộc: “Bình an cho các ngươi”. Lúc đó các em có phản ứng gì? (Mời từng em trả lời). Có thể là sợ đến nỗi không biết nói gì. Sau khi lấy lại bình tĩnh, có ai đó hỏi: “Có phải là Chúa không?” Rồi nhiều người nói lao xao: “Chúa là người hay ma vậy?” “Đúng là Chúa rồi!” “Tại sao cửa đóng mà Ngài có thể vào được?” (Giáo viên phải dùng giọng nói khác nhau để diễn đạt).

Chúa Giê-xu nói: “Đừng sợ, các ngươi hãy xem tay và sườn ta, còn in dấu những vết thương. Hãy sờ vào ta, hồn ma thì không có xương thịt”. Nghe Chúa Giê-xu nói như vậy, các em sẽ làm gì? (Các em trả lời). Đúng rồi, sẽ đến gần Chúa để xem và sờ vào Ngài phải không? Lúc đó tâm trạng của các em như thế nào? (Các em trả lời). Từ buồn rầu trở nên vui mừng phải không? Mọi người nói với nhau: “Chúa đã sống lại rồi! Đây thật là một tin tức tốt lành”. “Thật sung sướng vì Chúa lại ở cùng chúng ta”. (Dùng giọng nói khác nhau để diễn đạt).

Chúa Giê-xu mỉm cười với họ: “Bình an cho các ngươi! Đức Chúa Trời đã sai ta thực hiện kế hoạch của Ngài, bây giờ ta cũng sai các ngươi tiếp tục hoàn thành kế hoạch đó. Hãy rao truyền Tin Lành cho mọi người được biết”. Các em có biết “Tin Lành” mà Chúa Giê-xu nói là gì không? (Các em trả lời). Đúng rồi đó là Tin Lành về Chúa Giê-xu đã chịu chết để chuộc tội cho nhân loại và Ngài đã từ kẻ chết sống lại.

Hãy đoán xem, nếu lúc đó Chúa Giê-xu không hiện ra với các em thì các em sẽ như thế nào? (Các em trả lời). Rất có thể trở nên thất vọng, chán nản, không có dũng khí để tự nhận mình là môn đồ của Chúa Giê-xu, không còn tâm trí nào để nhắc đến những sự việc xảy ra với Chúa Giê-xu, thậm chí suốt đời không vui. Vì vậy sau khi Chúa Giê-xu sống lại, Ngài phải hiện ra với các môn đồ. Thứ nhất là để an ủi họ, thứ nhì là để củng cố đức tin của họ. Sau đó, các môn đồ đã thật sự mạnh mẽ, dạn dĩ rao truyền Tin Lành Chúa Giê-xu sống lại.

Hiện nay các em có vui không khi biết rằng Chúa Giê-xu đã sống lại? Các em có đem tin vui nầy nói với người khác không? (Cho các em trả lời).

  1. Ứng dụng.

Cho các em thảo luận bằng cách trả lời những câu hỏi sau: Tại sao các môn đồ tập trung tại căn phòng họ thường nhóm lại? Khi Chúa Giê-xu chào thăm họ, họ có phản ứng gì? Sau đó họ làm thế nào xác định Chúa Giê-xu đã thật sự sống lại? Chúa Giê-xu căn dặn các môn đồ điều gì?

Cho các em làm bài tập “Dán ký hiệu đặc biệt”, sau đó hướng dẫn các em làm bài tập “Truyền cho ai”. (Đáp án: Thiên sứ – Những người phụ nữ – môn đồ – chúng ta – những người thân chưa tin Chúa). Sau khi hoàn thành, mời một hoặc hai em lên chia sẻ tại sao phải truyền Tin Lành cho các đối tượng đó.

Cuối cùng giáo viên nói với các em: Mỗi khi có tin vui, em thường thích nói với người khác, nhất là bạn thân và người trong gia đình của em. Qua bài học nầy các em biết được Tin Lành về Chúa Giê-xu đã từ kẻ chết sống lại vì mọi người, đó là một tin vui cho mọi người. Vì thế các em phải vui mừng nói với mọi người về điều nầy để ai cũng có thể tin nhận Chúa Giê-xu và được cứu rỗi.

BÀI 12. CHÚA GIÊ-XU HIỆN RA VỚI CÁC MÔN ĐỒ (HV)

 I. KINH THÁNH: Giăng 20:19-23.

II. CÂU GỐC: “Lòng các ngươi chớ hề bối rối; hãy tin Đức Chúa Trời, cũng hãy tin ta nữa” (Giăng 14:1).

III. BÀI TẬP.

A. TIN VUI.

Hãy viết tin vui mà em muốn chia sẻ vào khung trống.

 

Tin vui: Mẹ mình vừa sinh một bé gái

Tin vui: “Mẹ ơi! Tuần sau nhà trường tổ chức cắm trại”.

B. KÝ HIỆU ĐẶC BIỆT.

Các môn đồ nhìn vào vị trí nào trên thân thể Chúa Giê-xu để khẳng định, Ngài thật sự là Chúa? Em hãy khoanh vào hình nhé! Vì sao đó là dấu trên thân thể Chúa Giê-xu, em còn nhớ không? Hãy chia sẻ.

 

  1. TRUYỀN CHO AI?

Tin Chúa Giê-xu sống lại được truyền đi như thế nào? Hãy dán giấy cắt dán và ghi tên gọi vào dấu ngoặc đơn. Trong vòng tròn vẽ hình chúng ta và người chưa tin Chúa. (Đáp án trong sách giáo viên).

 

 

TRANG CẮT DÁN

 

THƯ CẢM TẠ ĐỨC CHÚA TRỜI.

 

Em hãy viết lời cảm tạ Đức Chúa Trời vào khung, có thể vẽ hình để diễn đạt, sau khi hoàn tất, có thể cắt ra dán vào báo tường hoặc góc học tập.

 

Cha trên trời thân yêu.

 

 

Kinh Thánh.

 

 

 

Vui vẻ cô đơn sợ hãi buồn rầu.

Cô đơn hoảng sợ rất đau thương rất buồn.

Cô đơn hoảng sợ rất đau thương rất buồn.

Cô đơn hoảng sợ rất đau thương rất buồn.

 

Gương tốt Gương tốt.

 

Bài số 2.

 

 

 

TRÁI TIM CỦA TÔI.

 

1. Khi thấy Chúa Giê-xu bị bắt, tôi cảm thấy….

 

2. Khi thấy Chúa Giê-xu bị đóng đinh trên thập tự giá, tôi cảm thấy…

 

3. Khi phát hiện xác Chúa Giê-xu không có trong mộ, tôi cảm thấy….

 

4. Khi Chúa Giê-xu hiện ra, tôi cảm thấy…

BÀI 11. CHÚA GIÊ-XU SỐNG LẠI (GV-HV) 

BÀI 11. CHÚA GIÊ-XU SỐNG LẠI (GV-HV) 

in NHI ĐỒNG, QUÍ II. 2016 on 9 Tháng Bảy, 2018

BÀI 11. CHÚA GIÊ-XU SỐNG LẠI (GV) 

I. KINH THÁNH: Lu-ca 24:1-12.

II. CÂU GỐC: “Ngài không ở đây đâu, song Ngài đã sống lại rồi” (Lu-ca 24:6).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Chúa Giê-xu sống lại theo kế hoạch của Đức Chúa Trời.

– Cảm nhận: Sự kiện Chúa Giê-xu sống lại là sự thật.

– Hành động: Em tin chắc Chúa Giê-xu thật đã sống lại.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Tìm xem.

1. Chuẩn bị: Sách học viên, bài tập “Tìm xem”.

2. Thực hiện: Trước hết hướng dẫn các em hoàn tất bài tập “Tìm xem”. Sau đó hỏi các em: Khi đồ vật yêu thích của em bị thất lạc, em cảm thấy thế nào? Mục đích của bài tập nầy nhằm giúp các em nhận biết tâm trạng của những người phụ nữ khi không thấy xác của Chúa Giê-xu.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị thị trợ: Photo lớn trang tài liệu 16-17 trong sách giáo viên, rồi tô màu cho đẹp).

  1. Vào đề.

Giả sử các em đau ốm hoặc bị lạc đường, thì ai sẽ lo lắng, đau buồn? (Cho các em trả lời). Đúng rồi, chắc chắn đó sẽ là người thân trong gia đình, bạn thân, thầy cô…

Các em còn nhớ tuần trước chúng ta có nói đến sự đau đớn của Chúa Giê-xu trên cây thập tự không? Hãy đoán xem những người nào sẽ đau lòng vì thương Chúa? Có phải là quân lính hành hình Ngài không? (Cho các em trả lời). Có phải là vị quan đã định tội Chúa Giê-xu? (Các em trả lời). Có phải là những người đã hãm hại Chúa? (Các em trả lời). Vậy đó là những ai? (Các em trả lời). Chắc chắn đó là những người yêu mến Chúa Giê-xu, tận mắt thấy cảnh Ngài chịu đau đớn. Họ là các môn đồ đi theo Chúa Giê-xu, mẹ của Chúa Giê-xu và những người phụ nữ chăm sóc Ngài, ngoài ra còn có những người tin kính Chúa Giê-xu cách kín giấu.

Trong số đó có một người rất giàu có tốt bụng, vì lòng yêu mến Chúa đã lấy ngôi mộ chuẩn bị cho mình chôn cất Chúa Giê-xu. Ông đến xin quan tổng đốc cho đem thi thể Chúa Giê-xu về, dùng vải liệm tốt nhất mà bọc, rồi cẩn thận để vào mộ. Thời xưa ngôi mộ là một cái huyệt đục vào đá, bên trong rộng như căn nhà, bên ngoài có một hòn đá lớn chặn cửa huyệt lại, để thú dữ không thể chui vào được.

Đêm thứ sáu, những người phụ nữ từ Ga-li-lê đi theo Chúa, tận mắt thấy Chúa Giê-xu đau đớn chết trên cây thập tự, họ xót xa vô cùng. Và khi thấy có người đứng ra an táng Chúa Giê-xu, họ cũng được an ủi phần nào. Mặc dù không muốn rời khỏi đó, nhưng họ cũng phải về vì ngày hôm sau là ngày Sa-bát, ngày nghỉ của dân Do-thái, không ai được làm bất cứ công việc gì.

Đến ngày thứ ba, tức là Chúa Nhật, trời vừa mờ sáng, những phụ nữ ấy chuẩn bị thuốc thơm đem đến mộ của Chúa. Họ nói với nhau: “Chúng ta hãy đi nhanh lên! Phải nhanh chóng đem thuốc thơm xức xác của Chúa Giê-xu”. Khi đến gần ngôi mộ của Chúa Giê-xu, họ hết sức ngạc nhiên. Các em có biết tại sao không? (Cho các em trả lời). Họ hỏi nhau: “Có phải chúng ta đã thấy tảng đá lớn chặn cửa mộ rồi phải không? Tại sao bây giờ cửa mộ lại mở toang như thế?” Khi phát hiện không có xác của Chúa Giê-xu trong mộ, họ rất bối rối. Làm thế nào đây? Ai đã lấy xác của Chúa Giê-xu? Đang thắc mắc, bỗng xuất hiện hai thiên sứ mặc áo sáng láng khiến họ sợ hãi, cúi mặt xuống đất. Thiên sứ nói với họ: “Tại sao các ngươi tìm người sống trong mồ mả? Chúa không ở đây đâu, Ngài sống lại rồi. Các người có nhớ Ngài từng nói rằng: Ngài phải bị nộp trong tay bọn gian ác, bị đóng đinh trên cây thập tự, đến ngày thứ ba sẽ sống lại sao?” Họ như sực tỉnh: “Đúng rồi, tôi đã nhớ lại rồi”. Họ nhanh chóng chạy về thuật lại cho mọi người, nhưng các môn đồ và những người khác lại không tin (trình bày hình vẽ). Phi-e-rơ liền chạy đến mộ, cúi xuống nhìn vào trong, chỉ thấy vải liệm mà thôi. Ông trở về, ngạc nhiên không biết thi hài Chúa ở đâu.

Các em có cảm thấy lạ không? Tại sao Chúa Giê-xu lại biết trước những sự việc sẽ xảy ra đối với Ngài? (Cho các em trả lời). Bởi vì Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời, Ngài biết kế hoạch của Đức Chúa Trời, và biết chắc rằng Đức Chúa Trời sẽ khiến Ngài từ kẻ chết sống lại. Em có tin chắc Chúa Giê-xu đã thật sự sống lại không?

  1. Ứng dụng.

Cho các em thảo luận bằng cách trả lời các câu hỏi sau: Ai đã an táng Chúa Giê-xu? Chúa Giê-xu được chôn ở đâu? Những người đàn bà đến mộ Chúa Giê-xu vào lúc nào? Tại sao họ kinh ngạc? Họ tìm được xác của Chúa Giê-xu không? Tại sao?

Sau đó hướng dẫn các em làm bài tập “Thật và giả”, rồi thảo luận về cách nhìn của hai sự kiện trên (1), (2), (3) là câu chuyện thần thoại, hư cấu, không thể xem là sự thật. Chỉ có sự kiện Chúa Giê-xu là sự thật. Ngài đã từ kẻ chết sống lại.

Các em thân mến, đa số các em thích xem truyện thần thoại hoặc phim khoa học giả tưởng, nhưng các em biết đó không phải là những sự việc có thật trong cuộc sống. Sự sống lại của Chúa Giê-xu không giống như những câu chuyện nầy mà đó là một sự kiện có thật. Bài học sau cô (thầy) sẽ đưa ra cho các em những chứng cứ khác. Bây giờ chúng ta cùng cầu nguyện: “Cha thân yêu của chúng con, Ngài thật kỳ diệu. Bởi quyền năng của Ngài có thể khiến Chúa Giê-xu từ kẻ chết sống lại. Chúng con hết lòng cảm tạ Ngài và cầu nguyện trong danh Chúa Giê-xu. Amen.

BÀI 11. CHÚA GIÊ-XU SỐNG LẠI (HV)

 I. KINH THÁNH: Lu-ca 24:1-12.

II. CÂU GỐC: “Ngài không ở đây đâu, song Ngài đã sống lại rồi” (Lu-ca 24:6).

III. BÀI TẬP.

A. TÌM XEM.

Lan không tìm thấy con gấu bông yêu thích của mình, em có thể tìm giúp Lan không?

B. THẬT HAY GIẢ.

Em hãy phân biệt những sự việc dưới đây, sự việc nào là thật đánh dấu V, sự việc giả đánh dấu X.

1. Hằng Nga lên mặt trăng.

2. Đô-rê-mon dẫn Nô-bi-ta đi đến tương lai.

3. A-li-ce đến đất nước người tí hon.

4. Chúa Giê-xu bị đóng đinh trên thập tự giá, ba ngày sau sống lại.

BÀI 10.  CHÚA GIÊ-XU CHỊU CHẾT VÌ CHÚNG TA (GV-HV)

BÀI 10.  CHÚA GIÊ-XU CHỊU CHẾT VÌ CHÚNG TA (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ II. 2016 on 9 Tháng Bảy, 2018

 

BÀI 10.  CHÚA GIÊ-XU CHỊU CHẾT VÌ CHÚNG TA (GV)

 I. KINH THÁNH: Mác 15:22-47 (tham khảo thêm Giăng 3:16; 1Giăng 4:9; Ê-sai 53:4-10).

II. CÂU GỐC: “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài” (Giăng 3:16).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Vì yêu thương loài người, Đức Chúa Trời sai Chúa Giê-xu đến thế gian chịu chết vì chúng ta.

– Cảm nhận: Tình yêu thương của Đức Chúa Trời thật là vĩ đại.

– Hành động: Sống xứng đáng với tình thương của Đức Chúa Trời.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Cây thập tự.

1. Chuẩn bị: Nhiều loại thập tự giá khác kiểu, có công dụng khác nhau. Ví dụ: Cây thập tự ở nhà thờ, cây thập tự của Hội Chữ Thập Đỏ, cây thập tự làm đồ trang sức v.v…

2. Thực hiện: Trình bày những vật trang trí, trang sức có hình thập tự giá nhiều kiểu, cho các em nói xem mỗi loại dùng để làm gì?

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

  1. Vào đề.

Trong phần sinh hoạt đầu giờ, các em đã thấy những cây thập tự được làm rất đẹp, dùng để trang trí hoặc trang sức; có người dùng thập tự giá để đeo, có người đặt trên bàn, có người treo trên tường, nhưng các em có biết, thời cổ xưa, thập tự giá rất xấu xí, làm bằng hai cây gỗ rất lớn, dùng để xử tử những người phạm tội nặng như giết người, cướp của…

Bây giờ các em hãy nghĩ lại câu chuyện Kinh Thánh của tuần trước, Chúa Giê-xu đã chịu đau đớn như thế nào? (Cho các em trả lời). Ai là người cuối cùng xét xử Chúa Giê-xu? (Cho các em trả lời). Đúng rồi, Chúa Giê-xu bị đưa đến cho quan tổng đốc xét xử. Sau khi điều tra, quan tổng đốc thấy Chúa Giê-xu có phạm tội không? (Cho các em trả lời). Cuối cùng quan tổng đốc làm theo ý muốn của dân chúng, phán quyết Chúa Giê-xu thế nào? (Cho các em trả lời). Đóng đinh trên cây thập tự là một hình phạt rất khủng khiếp. Vừa rồi cô (thầy) có nói cây thập tự dùng để hành hình những ai? (Cho các em trả lời). Chúa Giê-xu vô tội nhưng lại bị đóng đinh trên cây thập tự!

  1. Bài học.

Chúa Giê-xu bị áp giải đến Gô-gô-tha, là nơi hành hình Ngài vào khoảng chín giờ sáng. Quân lính dùng búa đóng đinh tay chân Chúa Giê-xu lên cây thập tự. Các em thử tưởng tượng xem, mỗi nhát búa mà quân lính đóng vào khiến Chúa Giê-xu đau đớn là dường nào! Lúc ấy xung quanh có rất nhiều người đứng xem, mọi người đều cảm nhận được sự đau đớn của Chúa Giê-xu, nhưng không ai có thể giúp Ngài được. Một người nói: “Ông đã cứu người khác, bây giờ hãy cứu chính mình khỏi cây thập tự”. Có người lắc đầu nói: “Hắn đã cứu kẻ khác mà cứu mình không được”. Lại có người nói: “Ngươi nói mình là vua, bây giờ hãy xuống khỏi cây thập tự, thì chúng tôi sẽ tin”. Mỗi người một câu, họ nhạo báng Chúa Giê-xu. Các em đoán xem Chúa Giê-xu có từ trên cây thập tự nhảy xuống không? (Cho các em trả lời). Ngài không xuống khỏi cây thập tự. Bởi vì Chúa Giê-xu biết rằng Ngài phải chịu đau đớn để hoàn thành kế hoạch của Đức Chúa Trời. Kế hoạch của Đức Chúa Trời là gì? Một lát cô (thầy) sẽ nói cho các em nghe.

Chúa Giê-xu bị treo trên cây thập tự từ mười hai giờ trưa đến ba giờ chiều thì có một việc rất lạ xảy ra. Lúc ấy trời bỗng tối đen như là ban đêm vậy, mọi người đều rất sợ hãi. Cuối cùng Chúa Giê-xu kêu lớn tiếng: “Đức Chúa Trời tôi ơi, Đức Chúa Trời tôi ơi, sao Ngài lìa bỏ tôi?” Rồi Ngài trút hơi thở cuối cùng. Có một người đứng chứng kiến cảnh đó nói rằng: “Người nầy quả thật là Con Đức Chúa Trời”.

Đến tối, một người rất giàu có đến gặp quan tổng đốc La-mã, xin phép đem thi hài của Chúa Giê-xu xuống khỏi cây thập tự để chôn cất trong ngôi mộ của mình.

Tại sao Chúa Giê-xu bị người ta vu oan, bị đóng đinh đến chết mà Ngài không phản kháng? Tại sao Chúa Giê-xu phải chịu đau đớn như vậy? Đó là kế hoạch của Đức Chúa Trời, và Chúa Giê-xu làm hoàn thành kế hoạch đó. Kế hoạch nầy nhằm giải cứu nhân loại khỏi chết mất trong tội lỗi. Giải pháp duy nhất là Chúa Giê-xu, Con của Đức Chúa Trời, giáng thế trở thành con người, phải chịu đau đớn, chịu chết thay cho con người để chuộc tội cho nhân loại. Điều đó có nghĩa là Chúa Giê-xu chịu hình phạt thế cho chúng ta, để chúng ta hưởng được sự sống đời đời.

Các em nói xem, Chúa Giê-xu có vĩ đại không? Có phải Đức Chúa Trời rất yêu thương chúng ta không? (Cho các em trả lời).

  1. Ứng dụng.

Hướng dẫn các em làm bài tập phần A “Người ấy nói gì?” Gợi ý cho các em nhớ có một người đã nói một câu về Chúa Giê-xu là ai. Cho các em nói ra và ghi vào bài tập, để nhớ rằng Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời.

Trong bài tập phần B, giúp các em tưởng tượng mình đang có mặt nơi Chúa Giê-xu bị đóng đinh, chứng kiến cảnh Chúa Giê-xu chịu đau đớn và chết, em có cảm nhận gì? Sẽ nói gì?

BÀI 10. CHÚA GIÊ-XU CHỊU CHẾT VÌ CHÚNG TA (HV)

 I. KINH THÁNH: Mác 15:22-47 (tham khảo thêm Giăng 3:16; 1Giăng 4:9; Ê-sai 53:4-10.

II. CÂU GỐC: “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài” (Giăng 3:16).

III. BÀI TẬP.

A. NGƯỜI ẤY NÓI GÌ?

Trong hình vẽ có một người, thấy cảnh tượng Chúa Giê-xu bị bị đóng đinh, chịu chết, người ấy ngạc nhiên nói một câu về Chúa Giê-xu. Người ấy đã nói câu gì? Hãy viết vào chỗ trống.

B. NẾU EM ĐỨNG Ở ĐÓ.

Giả sử em chứng kiến cảnh Chúa Giê-xu bị đóng đinh chết, em cảm thấy thế nào? Em sẽ nói gì? Hãy vẽ hoặc viết vào phía dưới.

BÀI 9. CHÚA GIÊ-XU CHỊU ĐAU ĐỚN VÌ CHÚNG TA (GV-HV)

BÀI 9. CHÚA GIÊ-XU CHỊU ĐAU ĐỚN VÌ CHÚNG TA (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ II. 2016 on 6 Tháng Bảy, 2018

BÀI 9. CHÚA GIÊ-XU CHỊU ĐAU ĐỚN VÌ CHÚNG TA (GV)

 I. KINH THÁNH: Mác 14:27-28, 43-46, 53-55, 60-65; 15:1, 6-15.

II. CÂU GỐC: “Bởi sự sửa phạt Ngài chịu chúng ta được bình an” (Ê-sai 53:5).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Chúa Giê-xu chịu hình phạt thay cho chúng ta như lời Đức Chúa Trời đã phán.

– Cảm nhận: Vì tội lỗi của chúng ta mà Chúa Giê-xu phải chịu đau đớn.

– Hành động: Cảm tạ Chúa Giê-xu vì Ngài đã gánh chịu hình phạt cho chúng ta.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Trò chơi: Oẳn tù tì.

Cho các em chia ra thành từng cặp để chơi oẳn tù tì, bên nào thua thì bên thắng đánh vào bàn tay một cái. Khi tất cả các em đều chơi một lần, cho các em chia sẻ cảm nhận khi em đánh người khác và bị người khác đánh.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị thị trợ: Photo lớn trang tài liệu 12-15 trong sách giáo viên, rồi tô màu cho đẹp).

  1. Vào đề.

Các em ơi, trong các em có em nào từng bị người ta vu oan, mắng chửi, đánh đập không? Khi ấy em cảm thấy như thế nào? Đau đớn, buồn khổ lắm phải không? Khi Chúa Giê-xu sống trên thế gian nầy, Ngài đã phải chịu những sự đau đớn khủng khiếp hơn thế rất nhiều. Các em lắng nghe cô (thầy) kể chuyện tích Kinh Thánh hôm nay và xem những hình vẽ để biết Chúa Giê-xu phải chịu những đau đớn như thế nào nhé.

  1. Bài học.

(Trình bày hình 12) Các em nhìn thấy gì trong hình vẽ? (Cho các em trả lời). Chúa Giê-xu đang nói những lời mà các môn đồ cho rằng không thể nào xảy ra. Ngài nói: “Kinh Thánh chép lời Đức Chúa Trời phán rằng: ‘Ta sẽ đánh kẻ chăn chiên, thì bầy chiên sẽ tan lạc’. Ta biết các con sắp rời xa ta, chối bỏ ta”. Phi-e-rơ thưa: “Thưa thầy, con sẽ chẳng khi nào chối bỏ thầy”. Các môn đồ khác đều trả lời như vậy. Nhưng Chúa Giê-xu biết rằng chẳng bao lâu nữa việc đó sẽ xảy ra, trong lòng Ngài rất buồn! Em sẽ hiểu Chúa Giê-xu hơn nếu đặt chính mình vào hoàn cảnh của Ngài. Ví dụ: Các bạn thân của em không nói chuyện với em nữa, em cảm thấy thế nào? (Cho các em trả lời).

(Trình bày hình 13) Các em có biết địa điểm của hình vẽ là ở đâu? Trong thời gian nào không? (Cho các em trả lời). Tối hôm đó, Chúa Giê-xu và các môn đồ đến vườn Ghết-sê-ma-nê cầu nguyện. Nghĩ đến sự đau đớn mà Đức Chúa Cha muốn Ngài phải chịu, Chúa Giê-xu buồn lắm. Vậy mà các môn đồ thân cận của Ngài cũng không hiểu, không đồng lòng hiệp ý cầu nguyện với Ngài. Nhưng có một điều khiến Ngài càng đau buồn hơn nữa! Các em nhìn vào hình vẽ và đoán xem người hôn Chúa Giê-xu là ai? Trong lòng người đó định làm điều gì? (Cho các em trả lời). Đúng rồi, người ấy là Giu-đa, một trong các môn đồ của Chúa Giê-xu. Hãy xem đám người theo sau cầm gươm và gậy, thì biết là người đó không có ý tốt rồi. Chỉ vì ba chục miếng bạc mà Giu-đa phản bội Chúa Giê-xu, dùng cái hôn làm dấu hiệu để người ta bắt Ngài! Các em nghĩ xem Chúa Giê-xu có đau lòng không? (Cho các em trả lời). Nếu em bị bạn bè phản bội, em cảm thấy thế nào? (Cho các em trả lời).

(Trình bày hình 14) Nhìn vào hình vẽ, các em thấy Chúa Giê-xu bị người ta đối xử thế nào? (Cho các em trả lời). Chúa Giê-xu bị nhiều người mắng chửi, nhổ vào mặt, họ bịt mắt Chúa lại, dùng tay đánh Ngài thật tàn nhẫn. Những người nầy là ai vậy? Nơi nầy là nơi nào? (Cho các em trả lời). À, thì ra đây là tòa công luận! Thẩm phán là thầy tế lễ thượng phẩm. Khi ấy tại nơi đó còn có thầy tế lễ, các thầy thông giáo và các trưởng lão. Họ đều là những người lãnh đạo dân Giu-đa. Họ làm chứng dối để vu cáo Chúa Giê-xu, họ cưỡng ép Chúa Giê-xu nhận tội. Các em thử nghĩ xem, bị người khác vu oan, đánh đập, nhục mạ, có khó chịu không? (Cho các em trả lời).

(Trình bày hình 15) Các em nhìn xem, trong hình vẽ nầy ngoài Chúa Giê-xu còn có nhiều người nữa phải không? Họ đang làm gì vậy? (Cho các em trả lời). Đúng rồi, có nhiều người giơ tay lên la lớn: “Hãy đóng đinh hắn vào thập tự giá”. Họ nói với ai vậy? Họ la lớn cho quan tổng đốc nghe thấy. Họ muốn thả tên tội phạm giết người ra, rồi đóng đinh Chúa Giê-xu trên thập tự. Mặc dù vị quan tổng đốc nầy không thấy Chúa Giê-xu có tội gì cả, nhưng vì không dám làm phật lòng dân chúng, nên ông làm theo ý của họ. Các em nghĩ xem có phải Chúa Giê-xu rất khốn khổ không? Nếu là em, em sẽ thế nào? (Cho các em trả lời).

Từ đầu đến cuối Chúa Giê-xu không phản kháng, không cãi lại, Ngài im lặng cam chịu. Tại sao vậy? Bởi vì Ngài biết đây là ý muốn của Đức Chúa Trời, Ngài phải chịu đau đớn thay cho chúng ta. Các em có thấy cảm động không? (Cho các em trả lời).

  1. Ứng dụng.

Cho các em thảo luận bằng cách trả lời những câu hỏi sau: Chúa Giê-xu nói gì với môn đồ? Tại sao Chúa Giê-xu nói như vậy? Vì sao Chúa Giê-xu bị đóng đinh trên thập tự giá? Đó là kế hoạch của ai?

Sau khi các em thảo luận xong, cho các em làm bài tập “sắp xếp câu chuyện”. Hướng dẫn các em đọc những câu trong bài tập, có thể mỗi em đọc một câu, sau khi đọc hết bốn câu mới ghi số thứ tự. Mục đích của bài tập nầy nhằm ôn lại quá trình thương khó của Chúa Giê-xu. (Đáp án: 1B, 2C, 3A, 4D).

Chúa Giê-xu phải chịu thương khó vì Ngài gánh lấy hình phạt thay cho chúng ta, chúng ta phải nói gì với Chúa Giê-xu?

BÀI 9. CHÚA GIÊ-XU CHỊU ĐAU ĐỚN VÌ CHÚNG TA (HV)

 I. KINH THÁNH: Mác 14:27-28, 43-46, 53-55, 60-65; 15:1, 6-15.

II. CÂU GỐC: “Bởi sự sửa phạt Ngài chịu chúng ta được bình an” (Ê-sai 53:5).

III. BÀI TẬP.

A. SẮP XẾP CÂU CHUYỆN.

Điền thứ tự 1, 2, 3, 4 vào dấu ngoặc để sắp xếp thứ tự của câu chuyện.

a. Chúa Giê-xu rất đau đớn vì bị nhổ vào mặt và bị đánh ( ).

b. Chúa Giê-xu rất buồn vì Ngài biết rằng sắp phải rời xa các môn đồ ( ).

c. Chúa Giê-xu rất đau buồn, bởi vì Giu-đa hôn Ngài, nhưng lại phản bội Ngài ( ).

d. Chúa Giê-xu vô tội nhưng Ngài bị đóng đinh trên cây thập tự ( ).

B. CẢM TẠ NGÀI.

Ghi tên của em vào.                                                                                                Chúa Giê-xu thân yêu, Ngài vì ……………….. chịu nhiều đau đớn để …………….. ……… được bình an, con thật cảm tạ Chúa.