Chuyên mục: NHI ĐỒNG

BÀI 8. KINH THÁNH BÀY TỎ ƠN CỨU RỖI ( GV-HV)

BÀI 8. KINH THÁNH BÀY TỎ ƠN CỨU RỖI ( GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ II. 2016 on 6 Tháng Bảy, 2018

 

BÀI 8. KINH THÁNH BÀY TỎ ƠN CỨU RỖI  ( GV)

 I. KINH THÁNH: Công Vụ 16:1-5; 2Tim 1:5; 2:1-2; 3:14-16

II. CÂU GỐC: “Kinh Thánh vốn có thể khiến con khôn ngoan để được cứu bởi đức tin trong Đức Chúa Giê-xu Christ” (2Tim 3:15).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Ti-mô-thê học biết Kinh Thánh và dạy cho người khác nhận biết ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời.

– Cảm nhận: Kinh Thánh bày tỏ ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời cho chúng ta.

– Hành động: Học Kinh Thánh để nhận biết ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời đối với chúng ta.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Tấm gương tốt.

  1. Chuẩn bị: Viết chì, gôm, giấy cắt dán bài số 8 sách học viên.
  2. Thực hiện: Cho các em mở sách học viên bài 8, hướng dẫn các em nêu lên tên của các bạn có gương tốt, điền vào chỗ trống của bài tập, rồi dán giấy cắt dán (làm theo hướng dẫn trong bài tập).

Sau đó giáo viên chia sẻ những điểm tốt nào cần phải học tập. (Lưu ý: Không nên dùng quá nhiều thời gian).

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị: Một tấm giấy cứng ghi tên Ti-mô-thê; một người đóng vai Ti-mô-thê. Bài nầy theo thể loại phỏng vấn. Giáo viên đóng vai phóng viên phỏng vấn Ti-mô-thê).

  1. Vào đề.

Hôm nay cô (thầy) sẽ giới thiệu một người được rất nhiều người yêu mến, khen ngợi để cho các em quen biết. Người đó tên là… Ti-mô-thê (Đưa bảng giấy có chữ Ti-mô-thê lên). Bây giờ các em cùng vỗ tay đón chào ông Ti-mô-thê đến với chúng ta nào!

(Ông Ti-mô-thê đi ra trong tiếng vỗ tay của các em).

  1. Phỏng vấn.

– Giáo viên: Chào Ti-mô-thê! Tôi là giáo viên Trường Chúa Nhật lớp Nhi đồng của Hội Thánh ……………………… Tôi tên là………………………… Rất vui vì anh nhận lời mời của chúng tôi đến nói chuyện với các em nhi đồng hôm nay.

– Ti-mô-thê: Xin chào! Tôi rất vui vì được quen biết các em nhi đồng tại đây. Tôi thấy các em thật là dễ thương và xinh đẹp.

– Giáo viên: Được gặp anh, tất cả các em đều rất phấn khởi!

– Ti-mô-thê (nhìn xuống hỏi các em): Có thật vậy không các em? (Các em trả lời). Cám ơn các em rất nhiều.

– Giáo viên: Bây giờ chúng ta bắt đầu cuộc trò chuyện nhé! Xin hỏi anh có phải là người Giu-đa không? Nhà anh ở đâu?

– Ti-mô-thê (cười): Tôi chỉ có một nửa là người Giu-đa. Bởi vì cha tôi là người Hy-lạp, mẹ tôi là người Giu-đa, chúng tôi sống tại thành phố Lít-trơ.

– Giáo viên: Nghe nói anh rất am hiểu Kinh Thánh, anh có thể cho chúng tôi biết ai đã dạy anh không?

– Ti-mô-thê: Bạn quá khen! Thật ra từ bé, tôi đã được bà ngoại và mẹ kể rất nhiều về Đức Chúa Trời cho tôi nghe. Ví dụ: Đức Chúa Trời giải cứu tổ phụ của bà và mẹ tôi ra khỏi xứ Ai-cập như thế nào, Đức Chúa Trời ban Mười Điều Răn cho con người tuân giữ, những lời hứa của Đức Chúa Trời… Những điều ấy được chép trong Kinh Thánh. Vì vậy tôi biết Đức Chúa Trời yêu thương chúng tôi, Ngài hứa ban một Cứu Chúa để giải cứu chúng tôi, nhưng lúc ấy tôi chưa nhận biết “Cứu Chúa” là ai.

– Giáo viên: Vậy có nghĩa là sau nầy anh mới nhận biết phải không? Vì sao anh lại biết?

– Ti-mô-thê: Đúng vậy, sau nầy tôi mới nhận biết. Tôi nhớ một ngày nọ, có hai người rất lạ đến thành Lít-trơ. Họ đã chữa lành bệnh cho một người què từ lúc mới sinh, lại còn khuyên mọi người trở về với Đức Chúa Trời, Đấng đã tạo dựng nên thế giới nầy. Mẹ tôi đã dẫn tôi đến nghe họ giảng Tin Lành, và tôi được biết Chúa Giê-xu chính là “Cứu Chúa” mà tôi chờ đợi.

– Giáo viên: Hai người mà anh vừa nhắc đến có phải là ông Phao-lô và Ba-na-ba không?

– Ti-mô-thê: Đúng rồi! Ong Phao-lô đã dạy tôi hiểu biết Kinh Thánh, cũng như về ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời.

– Giáo viên: Nghe nói ông Phao-lô rất yêu thương anh phải không?

– Ti-mô-thê: Ong Phao-lô thấy tôi hiểu Kinh Thánh, lại có đức tin, nên dẫn tôi đi truyền giảng Tin Lành. Ông Phao-lô mở Hội Thánh mới, gây dựng Hội Thánh xong, bảo tôi ở lại đó dạy tín đồ học Kinh Thánh, giúp họ nhận biết ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời.

– Giáo viên: Có vẻ ông Phao-lô xem anh như là môn đồ của ông ấy vậy, đúng không?

– Ti-mô-thê: Ong Phao-lô xem tôi như con, trong các bức thư, ông Phao-lô thường gọi tôi là “con yêu dấu”.

– Giáo viên: Anh thật là gương tốt cho chúng tôi. Rất cám ơn anh đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn nầy. Tôi tin chắc rằng buổi phỏng vấn nầy sẽ đem lại ích lợi cho các em nhi đồng tại Hội Thánh chúng tôi.

– Ti-mô-thê: Tôi cũng ước mong các em nhi đồng tại đây hiểu biết Kinh Thánh và ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời như tôi, để các em kinh nghiệm được tình thương của Đức Chúa Trời và sống cho Ngài. Mong rằng tôi sẽ được nghe những tin tức tốt lành về các em. Xin chào tạm biệt tất cả các em.

– Giáo viên: Nào, các em cùng nói: Xin chào tạm biệt ông Ti-mô-thê.

(Trong khi Ti-mô-thê đi vào, các em vẫy tay chào).

  1. Ứng dụng.

Hướng dẫn các em mở sách học viên bài 8, xem những câu Kinh Thánh liệt kê trong bài tập “Hãy tra xem”, để điền vào chỗ trống. Sau khi hoàn tất, đọc ra từng câu, giáo viên giải thích:

(1) Rô-ma 3:23: Cho chúng ta biết, mọi người đều phạm tội.

(2) Rô-ma 6:23: Cho chúng ta biết, hậu quả của tội lỗi là sự chết.

(3) Giăng 3:16: Cho biết Đức Chúa Trời yêu thương chúng ta, ban Chúa Giê-xu xuống thế gian để cứu chúng ta.

(4) Ga-la-ti 3:26: Cho biết những người tin nhận Chúa Giê-xu là con cái của Đức Chúa Trời.

Sau đó cho các em thảo luận bằng cách trả lời những câu hỏi sau đây: Tại sao Ti-mô-thê hiểu biết Kinh Thánh? Qua Kinh Thánh Ti-mô-thê nhận biết Đức Chúa Trời ban điều gì? (Ban sự cứu rỗi qua Chúa Giê-xu). Ai dẫn dắt Ti-mô-thê đi truyền giảng Tin Lành?

Từ nhỏ Ti-mô-thê đã nghe mẹ kể về Kinh Thánh, hiểu biết ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Sau đó, Ti-mô-thê dạy Kinh Thánh cho người khác để họ cũng hiểu được ơn cứu rỗi và tiếp nhận. Ti-mô-thê là gương tốt cho chúng ta noi theo. Chúng ta phải luôn học Kinh Thánh để hiểu biết về lời hứa, ý muốn, mạng lệnh và ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời để sống đẹp lòng Ngài.

BÀI 8. KINH THÁNH BÀY TỎ ƠN CỨU RỖI  (HV)

 I. KINH THÁNH: Công Vụ 16:1-5; 1Tim 1:5; 2:1-2; 3:14-16.

II. CÂU GỐC: “Kinh Thánh vốn có thể khiến con khôn ngoan để được cứu bởi đức tin trong Đức Chúa Giê-xu Christ” (2Ti-mô-thê 3:15).

III. BÀI TẬP.

A. ĐOÁN XEM.

Thành Lít-trơ có một thiếu niên được mọi người yêu mến. Mẹ của cậu ấy là người Giu-đa tin Chúa. Vì vậy từ nhỏ cậu đã được học về Kinh Thánh, biết được nhiều điều về Đức Chúa Trời. Khi lớn lên, cậu ấy dạy Kinh Thánh, giúp người khác nhận biết về ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời.

Em đoán xem cậu thiếu niên ấy tên gì?

Đức Chúa Trời giải cứu tổ tiên chúng ta, dạy chúng ta giữ các Điều Răn của Ngài. Ngài còn hứa ban cho chúng ta một Cứu Chúa!

B. TẤM GƯƠNG TỐT.

Em ghi tên hai người có gương tốt vào khung phía dưới, chia sẻ những điểm tốt của họ đáng cho chúng ta học tập, rồi dán giấy cắt dán “gương tốt”.

C. EM TRA XEM.

Mở Kinh Thánh xem những câu gợi ý về ơn cứu rỗi, điền từ hợp nghĩa vào chỗ trống.

  1. Rô-ma 3:23 “Vì mọi người đều đã phạm ……………. thiếu mất sự vinh hiển của ………………………………”
  2. Rô-ma 6:23 “Vì tiền công của ………………………… là sự chết, nhưng sự ban cho của ……………………….. là sự sống đời đời trong Đức Chúa Giê-xu Christ, Chúa chúng ta”.
  3. Giăng 3:16 “Vì Đức Chúa Trời ……………………… thế gian, đến nỗi đã ban ………………………… của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời”.

4. Ga-la-ti 3:26 “Vì chưng anh em bởi tin Đức Chúa Giê-xu Christ, nên hết thảy đều là ………………………… của Đức Chúa Trời”.

BÀI 7.  CÔNG BỐ MẠNG LỆNH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (GV-HV)

BÀI 7.  CÔNG BỐ MẠNG LỆNH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ II. 2016 on 5 Tháng Bảy, 2018

 

BÀI 7.  CÔNG BỐ MẠNG LỆNH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI  (GV)

 I. KINH THÁNH: Xuất Ê-díp-tô ký 20:1-3, 7-10, 12-17.

II. CÂU GỐC: “Trước mặt ta, ngươi chớ có các thần khác” (Xuất Ê-díp-tô ký 20:3).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Mệnh lệnh của Đức Chúa Trời được ghi trong Kinh Thánh.

– Cảm nhận: Là con dân của Chúa, chúng ta phải vâng theo mệnh lệnh của Ngài.

– Hành động: Em hết lòng vâng giữ mệnh lệnh của Đức Chúa Trời.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* “Ai ra lệnh?”

1. Cho các em mở sách học viên bài 7, làm bài tập “Ai ban mạng lệnh?” Hướng dẫn các em trước hết đọc mạng lệnh, sau đó hỏi: Ai ra lệnh? Rồi dùng viết gạch nối lại với nhau cho đúng (Đáp án: Cha (4), mẹ (3), chú tài xế (1), cô giáo (2).

2. Giúp các em suy nghĩ: Ở nhà có qui tắc gì? Ở trường có nội qui gì?

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị thị trợ: Photo lớn hình trong trang tài liệu 10 và 11. Dùng giấy cứng cắt thành hình hai tấm bảng đá (như hình dưới), ghi Mười Điều Răn lên trên).

  1. Vào đề.

Kinh Thánh là quyển sách Đức Chúa Trời ban cho con người, trong đó ngoài những lời hứa của Đức Chúa Trời còn có mạng lệnh của Ngài. Mạng lệnh là gì? (Cho các em trả lời). Đó là qui tắc phải tuân theo. Mạng lệnh của Đức Chúa Trời là những qui tắc mà Đức Chúa Trời căn dặn con người tuân giữ. Giống như ở nhà chúng ta phải nghe theo mệnh lệnh của ba mẹ, ở trường chúng ta phải vâng theo mệnh lệnh của thầy cô vậy. Ở nhà có nội qui trong nhà; ở trường có nội qui trong trường, chúng ta là con cái, là học sinh thì phải tuân theo. (Có thể cho các em nêu ra một số qui tắc trong gia đình và trong trường học).

Như vậy ai phải vâng giữ mạng lệnh của Đức Chúa Trời? (Cho các em trả lời). Tại sao chúng ta phải tuân theo mạng lệnh của Đức Chúa Trời? Trước hết cô (thầy) sẽ kể cho các em nghe câu chuyện nầy nhé, sau đó các em sẽ hiểu rõ về vấn đề nầy hơn.

  1. Bài học.

Các em còn nhớ Gia-cốp không? Các em có nhớ Đức Chúa Trời ban cho ông một cái tên mới là gì không? (Cho các em trả lời). Đúng rồi, Gia-cốp còn có tên là Y-sơ-ra-ên.

Khi Gia-cốp đã già, trong xứ xảy ra một cơn đói kém rất lớn, ông dời cả gia đình đến Ai-cập ở để tránh nạn đói đang hoành hành tại quê hương. Không ngờ gia tộc của Gia-cốp đã ở tại đó bốn trăm ba mươi năm, con cháu ngày càng đông đúc, dân Ai-cập gọi họ là người “Y-sơ-ra-ên”.

Dân Ai-cập lo sợ khi thấy người Y-sơ-ra-ên ngày càng cường thịnh. Họ bắt người Y-sơ-ra-ên phải làm nô lệ khổ nhọc tại Ai-cập (cho các em xem hình), họ còn giết tất cả những bé trai Y-sơ-ra-ên mới sinh. Các em thấy có bi thảm không? (Dừng lại giây lát). Có cách nào để người Y-sơ-ra-ên thoát ra khỏi cảnh đó? Đây không phải là quê hương của họ! Các em thử nghĩ xem, họ có thể làm gì? (Cho các em trả lời). Họ không thể làm gì hơn ngoài việc cầu xin Đức Chúa Trời giải cứu!

Đức Chúa Trời nghe lời kêu cầu của dân Y-sơ-ra-ên, Ngài sai Môi-se đến xin Pha-ra-ôn cho phép dân Y-sơ-ra-ên rời khỏi đất nước Ai-cập. Nhưng vua Ai-cập không cho họ đi. Mãi đến khi Đức Chúa Trời giáng mười tai vạ xuống Ai-cập, Pha-ra-ôn mới để cho dân Y-sơ-ra-ên ra đi. Thử nghĩ xem, nếu em là người Y-sơ-ra-ên, em có cảm tạ Đức Chúa Trời không? (Cho các em trả lời).

Dân Y-sơ-ra-ên vui mừng đi theo Môi-se trở về Đất Hứa. Đi được khoảng ba tháng, đến chân núi Si-nai, họ dừng lại đóng trại tại đó nghỉ ngơi. Bỗng, họ nghe trên núi có tiếng sấm chớp vang động, họ thấy mây giăng mù mịt và tiếng kèn thổi vang rền. Việc gì xảy ra vậy? (Ngừng một lát, trình bày hình vẽ Đức Chúa Trời ngự trên núi Si-nai). À, thì ra Đức Chúa Trời giáng lâm trên núi để nói chuyện với dân Y-sơ-ra-ên. Đức Chúa Trời bảo Môi-se: “Hãy lên núi, Ta sẽ truyền mạng lệnh của ta cho ngươi, rồi ngươi sẽ truyền lại mạng lệnh của ta cho dân Y-sơ-ra-ên”. Môi-se liền lên núi, Đức Chúa Trời viết Mười Điều Răn lên tấm bảng đá giao cho Môi-se. (Trình bày bảng Mười Điều Răn cho các em đọc lớn, rập ràng).

Nếu các em là người Y-sơ-ra-ên, các em có sẵn lòng vâng theo mạng lệnh của Đức Chúa Trời không? Tại sao? (Cho các em trả lời). Đúng rồi, bởi vì Đức Chúa Trời đã giải cứu dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi ách nô lệ, Ngài luôn thương yêu họ.

Đức Chúa Trời cũng yêu thương chúng ta, cứu chúng ta thoát khỏi tội lỗi. Mạng lệnh của Ngài rất có ích cho chúng ta, giúp chúng ta sống đẹp lòng Ngài. Các em có biết làm thế nào nhận biết mạng lệnh của Đức Chúa Trời không? Đúng rồi, tất cả mạng lệnh của Đức Chúa Trời đều được ghi trong Kinh Thánh (đưa quyển Kinh Thánh lên). Đọc, học Kinh Thánh sẽ giúp các em biết mạng lệnh của Đức Chúa Trời, xin Chúa giúp em luôn biết vâng theo mạng lệnh của Ngài.

  1. Ứng dụng.

Cho các em thảo luận bằng cách trả lời những câu hỏi: Nếu em nhận người khác làm ba mẹ thì ba mẹ em có phản ứng gì? Đức Chúa Trời muốn chúng ta chỉ thờ phượng một mình Ngài, em thấy điều đó có đúng không?

Hướng dẫn các em làm bài tập “Ai đã tuân theo Điều Răn thứ nhất?” Trước hết thảo luận về các hành động trong hình vẽ, sau đó chọn lựa điều nào đúng. Cuối cùng cho các em diễn lại cảnh Môi-se nhận Mười Điều Răn trên núi Si-nai. Một em đóng vai Môi-se, tay cầm bảng Mười Điều Răn, đọc rõ ràng, chậm rãi. Các em khác đóng vai dân Y-sơ-ra-ên chăm chú lắng nghe.

BÀI 7.  CÔNG BỐ MẠNG LỆNH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (HV)

 I. KINH THÁNH: Xuất Ê-díp-tô ký 20:1-3, 7-10, 12-17.

II. CÂU GỐC: “Trước mặt ta, ngươi chớ có các thần khác” (Xuất Ê-díp-tô ký 20:3).

III. BÀI TẬP.

A. AI RA MỆNH LỆNH.

Cha   Không được chạy đùa trên xe.

Mẹ     Ngày mai kiểm tra, về nhà nhớ ôn bài nhé!

Bác tài xế Đến giờ ăn rồi, mau phụ giúp lấy chén dĩa.

Cô giáo    Chưa làm xong bài, không được coi tivi.

B. AI TUÂN THEO ĐIỀU RĂN THỨ NHẤT?

Đến Hội Thánh cùng thờ phượng Chúa với các con cái Chúa.

Thờ cúng tổ tiên.

Cầu nguyện với Đức Chúa Trời.

BÀI 6. KINH THÁNH BÀY TỎ Ý MUỐN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (GV-HV)

BÀI 6. KINH THÁNH BÀY TỎ Ý MUỐN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ II. 2016 on 4 Tháng Bảy, 2018

 

BÀI 6.  KINH THÁNH BÀY TỎ Ý MUỐN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (GV)

I. KINH THÁNH: Lu-ca 9:49-56; 1Giăng 3:11

II. CÂU GỐC: “Lời Chúa là ngọn đèn cho chân tôi, ánh sáng cho đường lối tôi” (Thi Thiên 119:105).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Kinh Thánh bày tỏ ý muốn của Đức Chúa Trời.

– Cảm nhận: Ý muốn lớn nhất của Đức Chúa Trời đối với con người là sự yêu thương.

– Hành động: Em sống yêu thương như Lời Chúa dạy.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Hình dấu tay.

  1. Chuẩn bị: Mực đóng dấu.
  2. Thực hiện: Trước hết cho các em dùng một ngón tay (ngón nào cũng được) ấn mạnh vào mực đóng dấu, rồi in vào chỗ trống trong bài tập (sách học viên). Dấu tay sẽ thành hình của cái đầu, vẽ nét mặt lên hình dấu tay, và phải biểu hiện được một tâm trạng. Ví dụ: Vui, giận, buồn…

Nếu có thời gian, có thể cho các em chia sẻ hình vẽ của mình thuộc loại khuôn mặt gì?

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị thị cụ: Dùng đậu phộng làm con rối ngón tay, vẽ khuôn mặt giận và cười (như hình dưới), dùng giấy bìa cứng cắt hình trái tim, viết chữ “yêu thương” lên trên).

  1. Vào đề.

Chào các bạn! (Đưa con rối lên). Các bạn quen tôi không? (Cho các em trả lời). Tôi xin tự giới thiệu, tôi là Giăng, một trong mười hai sứ đồ của Chúa Giê-xu. Để tôi kể chuyện đời tôi cho các bạn nghe nhé.

  1. Bài học.

Gia đình tôi sống ở vùng biển Ga-li-lê, cha tôi là một người đánh cá tài giỏi, tôi và anh của tôi là Gia-cơ cùng theo phụ giúp cha đánh cá.

Một hôm, Chúa Giê-xu đến vùng biển Ga-li-lê nầy. Từ xa tôi thấy Phi-e-rơ và Anh-rê đang thả lưới bắt cá, Chúa Giê-xu đi ngang qua nói gì với họ, họ liền bỏ lưới theo Ngài. Chúa Giê-xu và hai anh đó đi về phía chúng tôi, tôi và anh tôi đang vá lưới. Chúa Giê-xu gọi: “Các con hãy theo ta, ta sẽ cho các con trở nên tay đánh lưới người”. Tôi và anh tôi ngạc nhiên nhìn nhau, gật đầu, phấn khởi đi theo Chúa Giê-xu.

Chúa Giê-xu thật là một người thầy vĩ đại, Ngài dạy dỗ suốt ngày không mệt mỏi. Ngoài ra, Ngài cũng nói về những chân lý của Nước Đức Chúa Trời thật là hấp dẫn. Nhưng khi Ngài nói đến: “Hãy yêu kẻ thù nghịch và cầu nguyện cho kẻ bắt bớ các ngươi”, thì tôi thấy thật là khó! Ai có thể làm được?

Tôi nhớ có lần tôi và các anh em khác thấy một người nhân danh Chúa Giê-xu mà trừ quỉ, liền ngăn cản: “Anh không phải là môn đồ của Chúa Giê-xu, sao nhân danh Chúa mà trừ quỉ?” Việc ấy khiến tôi rất đắc ý nên kể lại cho thầy mình là Chúa Giê-xu nghe, nhưng Ngài lại bảo: “Đừng cấm họ, vì họ không nghịch với các con là thuận cùng các con”. Tôi ngạc nhiên vô cùng khi nghe Ngài nói như vậy.

Lại có một lần, Chúa Giê-xu dẫn chúng tôi đi lên Giê-ru-sa-lem, trên đường đi ngang qua làng Sa-ma-ri. Tôi lấy làm lạ, vì sao Chúa Giê-xu lại đi con đường nầy? Bởi người Sa-ma-ri và người Giu-đa không ưa nhau. Chúng tôi không bao giờ đi vào nơi họ ở. Thật như tôi nghĩ, chúng tôi đi vào làng, gõ cửa từng nhà, nhưng không ai tiếp đón chúng tôi. Tôi rất tức giận! Tôi và anh tôi tính nóng như lửa, thầy gọi chúng tôi là “con trai của sấm sét”. Chúng tôi nói với thầy: “Thưa Thầy, xin hãy khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy họ”, không ngờ thầy lại trách chúng tôi: “Ta đến để cứu người, chứ không phải lấy đi mạng sống của con người”. (Cho các em xem hình trong sách học viên).

Sau đó Chúa Giê-xu nói, Ngài phải rời xa chúng tôi, Ngài dặn chúng tôi phải yêu thương lẫn nhau, như vậy người khác sẽ biết chúng tôi là môn đồ của Ngài. Lúc đó tôi chưa hiểu, tại sao Chúa Giê-xu lại phải rời xa chúng tôi! Chỉ đến khi Chúa Giê-xu bị đóng đinh trên cây thập tự, chịu chết và ba ngày sau sống lại, tôi mới hiểu Chúa Giê-xu chịu chết vì con người, do sự yêu thương của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời thương yêu tất cả mọi người trên thế gian nầy, Ngài sai Con Một của Ngài là Chúa Giê-xu xuống thế gian để con người không bị hư mất mà được sự sống đời đời. (Mở Kinh Thánh Giăng 3:16 đọc cho các em nghe).

Từ đó tôi hoàn toàn thay đổi, tôi đã học được bài học rất quan trọng qua Chúa Giê-xu, đó là…………………… (Để cho các em nói). Đúng rồi, đó là sự yêu thương. (Giơ cao hình trái tim có chữ “tình yêu thương” lên). Đây là ý muốn lớn nhất của Đức Chúa Trời. Tôi phải ghi lại lời dạy quí báu nầy. Tôi đã viết sách Tin Lành Giăng, thư Giăng 1, 2, 3 và sách Khải huyền. Vậy bây giờ các bạn nhớ tên tôi chưa? Tôi là…………………… Cho các em nói), đúng rồi tôi là Giăng, rất vui vì được làm quen các bạn. Xin chào các bạn. Hẹn gặp lại nhé!

  1. Ứng dụng.

Cho các em ôn bài bằng cách hỏi: (Đưa con rối ngón tay lên). Người nầy là ai? Ai là thầy của ông ấy? Ông đã viết ra những cuốn sách gì? Ý muốn lớn nhất của Đức Chúa Trời đối với con người là gì?

Sau đó phát cho mỗi em một tờ giấy thủ công màu đỏ, một cây kéo, cho các em cắt hình trái tim dán vào quyển Kinh Thánh trong bài tập ý muốn của Đức Chúa Trời, cũng có thể viết chữ “Sự yêu thương” lên hình trái tim.

Giáo viên cầu nguyện: “Lạy Cha yêu dấu! Chúng con cảm tạ Cha vì Ngài đã nhắc nhở Giăng ghi lại ý muốn của Cha trong Kinh Thánh. Cảm tạ Cha vì Ngài đã yêu thương chúng con và dạy chúng con phải thương yêu lẫn nhau. Xin giúp chúng con sống yêu thương để xứng đáng là con cái Ngài. Con cầu nguyện nhân danh Chúa Giê-xu. Amen”.

BÀI 6. KINH THÁNH BÀY TỎ Ý MUỐN CỦA ĐỨC CHA TRỜI (HV)

I. KINH THÁNH: Lu-ca 9:49-56; 1Giăng 3:11

II. CÂU GỐC: “Lời Cha là ngọn đèn cho chân tôi, ánh sáng cho đường lối tôi”

(Thi Thin 119:105).

III. BÀI TẬP.

A. HÌNH DẤU TAY.

Em in hình dấu ngón tay của mình vào đây (như là khuôn mặt) rồi vẽ nét mặt vào

………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

 

B. Ý MUỐN CỦA ĐỨC CHA TRỜI.

Ý muốn lớn nhất của Đức Cha Trời đối với con người là gì? Em cắt trái tim bằng giấy màu đỏ dán vào trong hình quyển Kinh Thánh dưới đây.

C. GIĂNG ĐÃ VIẾT NHỮNG SÁCH GÌ?

Hãy tìm trong những gợi ý phía dưới, sau đó tô màu

Thư Giăng 1, 2, 3.  Tin Lành Giăng    Ma-thi-ơ

Mác   Khải huyền  Lu-ca

BÀI 5. LỜI HỨA CỨU CHÚA GIÁNG SINH (GV-HV)

BÀI 5. LỜI HỨA CỨU CHÚA GIÁNG SINH (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ II. 2016 on 18 Tháng Tư, 2018

BÀI 5. LỜI HỨA CỨU CHÚA GIÁNG SINH (GV)

 

I. KINH THÁNH: Ê-sai 7:14; Ma-thi-ơ 1:18-25.

I. CÂU GỐC: “Vì Đấng đã hứa cùng chúng ta là thành tín” (Hê-bơ-rơ 10:23).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Lời hứa của Đức Chúa Trời được thực hiện.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời luôn làm thành lời hứa của Ngài.

– Hành động: Em tin vào lời hứa của Đức Chúa Trời.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Cắt hình giáng sinh.

1. Chuẩn bị một số thiệp giáng sinh cũ, trong đó phải có Giô-sép, Ma-ri, thiên sứ và Hài Nhi Giê-xu.

2. Phát cho mỗi em một tấm thiệp cũ, cho các em chọn nhân vật, đồ vật mình thích và cắt ra, nhưng phải có các nhân vật: Giô-sép, Ma-ri, Hài Nhi Giê-xu và thiên sứ; số lượng tùy ý. Có thể trao đổi thiệp giáng sinh. Giáo viên lưu ý, trong các hình được cắt ra, phải chọn hình Giô-sép, Ma-ri, thiên sứ, Hài Nhi Giê-xu, để lại mỗi thứ một hình, khi dạy bài sẽ sử dụng.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị: Phấn, bảng, hình: Giô-sép, thiên sứ, Ma-ri, Hài Nhi Giê-xu được cắt ra trong phần “Sinh hoạt đầu giờ”).

 1. Vào đề.

Mỗi năm, cứ đến tháng mười hai, người ta lại nhộn nhịp chuẩn bị giáng sinh, người ta gởi thiệp chúc mừng giáng sinh, đi chơi giáng sinh, tặng quà giáng sinh, thế em có biết vì sao người ta vui mừng không? (Cho các em trả lời). Đúng rồi, vui mừng vì Chúa Giê-xu giáng sinh. Nhưng có nhiều người vui chơi, chúc mừng nhau trong dịp giáng sinh mà không biết vì sao lại chúc mừng! Chúa Giê-xu giáng sinh thật là một điều kỳ diệu. Cô (thầy) sẽ kể cho các em nghe để biết sự kỳ diệu đó như thế nào nhé.

2. Bài học.

Hơn hai nghìn năm trước, dân Do-thái bị người La-mã cai trị, cuộc sống rất khốn khổ. Họ mong muốn Đức Chúa Trời ban cho một Đấng Cứu Thế như Ngài đã hứa. (Viết chữ “Chúa Cứu Thế” lên bảng).

Lúc ấy tại làng Na-xa-rét có một chàng thanh niên làm nghề thợ mộc tên là Giô-sép (dán hình Giô-sép trong phần “Sinh hoạt đầu giờ” lên bảng), rất tốt bụng và hiền lành. Nhưng hiện tại Giô-sép rất buồn, anh không hiểu vì sao một sự việc như vậy lại xảy ra? Hàng trăm nghìn câu hỏi cứ lẩn quẩn trong đầu anh mà không có lời giải đáp. Tại sao Giô-sép lại buồn phiền như vậy? Thì ra, Giô-sép vừa biết Ma-ri đã có thai! Ma-ri là ai? Đó là vị hôn thê của Giô-sép. Giô-sép và Ma-ri đã đính hôn, nhưng chưa cưới. Giô-sép tự hỏi: Tại sao Ma-ri lại có thai? Đứa con trong bụng Ma-ri từ đâu mà đến? Mình có nên làm đám cưới với Ma-ri không? Hay là bãi bỏ hôn ước? Nhưng làm như vậy có khiến cho cô ấy bị tổn thương không?

Mệt mỏi vì phải suy nghĩ quá nhiều, Giô-sép ngủ thiếp đi. Trong giấc mơ, Giô-sép thấy thiên sứ nói cùng mình rằng: “Hỡi Giô-sép, đừng lo buồn, cũng đừng ngại cưới Ma-ri làm vợ. Vì cô ấy chịu thai bởi Thánh Linh. Ma-ri sẽ sinh một con trai, hãy đặt tên là Giê-xu, vì Ngài sẽ cứu dân mình ra khỏi tội lỗi”. Sự việc nầy xảy ra đúng như lời tiên tri của Ê-sai: “Một gái đồng trinh sẽ chịu thai và đặt tên là Em-ma-nu-ên”. Ngày xưa Đức Chúa Trời hứa ban một Đấng Cứu Thế, ngày nay Ngài dùng Ma-ri để thực hiện lời hứa của Ngài.

Các em có biết ai vừa nói với Giô-sép không? (Cho các em trả lời). Đúng rồi, là thiên sứ! (Dán hình thiên sứ lên bảng). Thiên sứ là sứ giả của Đức Chúa Trời, được Đức Chúa Trời sai đến để nói chuyện với con người. Sau khi nghe thiên sứ nói những lời đó, đố em, phản ứng của Giô-sép như thế nào? (Cho các em trả lời). Giô-sép không còn buồn phiền mà rất phấn khởi, bởi vì Cứu Chúa mà người Do-thái hằng trông đợi đã đến! Và Giô-sép sẽ là cha nuôi của Ngài.

Giô-sép làm theo lời thiên sứ, cưới Ma-ri làm vợ. Sau đó, Ma-ri sinh một con trai, Giô-sép đặt tên là “Giê-xu”. (Dán hình Ma-ri và Hài Nhi Giê-xu lên bảng).

Việc Đức Chúa Trời làm thật là kỳ diệu phải không các em? Lời hứa của Ngài nhất định được thực hiện. Đức Chúa Trời hứa ban Chúa Cứu Thế, và Ngài đã làm thành lời hứa của Ngài. Ngoài lời hứa nầy, Kinh Thánh còn ghi lại rất nhiều lời hứa của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời là Đấng thành tín, những lời Ngài hứa, chắc chắn Ngài sẽ thực hiện. Các em có tin không? (Cho các em trả lời).

3. Ứng Dụng.

Cho các em mở sách học viên bài 5 và hướng dẫn các em hoàn tất bài tập phần A.

Sau đó, giáo viên đọc những lời hứa trong Kinh Thánh dưới đây (khi đọc nhớ cầm Kinh Thánh trên tay). Mỗi lần đọc xong một lời hứa, giáo viên hỏi các em: Em có tin Đức Chúa Trời sẽ thực hiện lời hứa nầy không? Tại sao?

a. “Ta ở cùng ngươi, ngươi đi đâu sẽ theo gìn giữ đó” (Sáng Thế Ký 28:15).

b. “Dầu núi dời, dầu đồi chuyển, nhưng lòng nhân từ ta đối với ngươi chẳng dời khỏi ngươi” (Ê-sai 54:10).

c. “Hãy xin, sẽ được, hãy tìm, sẽ gặp; hãy gõ cửa, sẽ mở cho” (Ma-thi-ơ 7:7).

d. “Hãy tôn kính cha mẹ ngươi, hầu cho ngươi được phước và sống lâu trên đất” (Ê-phê-sô 6:2,3).

e. “Vì ai kêu cầu danh Chúa thì sẽ được cứu” (Rô-ma 10:13).

Trong bài tập phần B, hướng dẫn các em điền vào chỗ trống cho hợp nghĩa. Cuối cùng giáo viên cầu nguyện kết thúc.

 

 

BÀI 5. LỜI HỨA CỨU CHÚA GIÁNG SINH (HV)

 

I. KINH THÁNH: Ê-sai 7:14; Ma-thi-ơ 1:18-25.

II. CÂU GỐC: “Vì Đấng đã hứa cùng chúng ta là thành tín” (Hê-bơ-rơ 10:23).

III. BÀI TẬP.

A. KINH THÁNH CHÉP.

Chọn những sự việc Kinh Thánh từng ghi lại, dán giấy cắt dán quyển “Kinh Thánh” vào đó.

  1. Ê-sai từng nói tiên tri về Chúa Giê-xu giáng sinh.
  2. Chúa Giê-xu thật đã giáng sinh.
  3. Đi lên mặt trăng.
  4. Đức Chúa Trời dựng nên trời đất.

B. ĐIỀN VÀO CHỖ TRỐNG.

Em xem gợi ý, tìm từ thích hợp điền vào chỗ trống.

…………………………… ghi lại …………………………………. của Đức Chúa Trời. Những lời Ngài hứa, chắc chắn sẽ ………………………………………. bởi vì Đức Chúa Trời là Đấng ……………………………….

* Gợi ý: Kinh Thánh      Thành tín       Thực hiện        Lời hứa   Đức Chúa Trời

BÀI 4. GIA-CỐP CẢM TẠ ĐỨC CHÚA TRỜI (GV-HV)

BÀI 4. GIA-CỐP CẢM TẠ ĐỨC CHÚA TRỜI (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ II. 2016 on 7 Tháng Ba, 2018

BÀI 4. GIA-CỐP CẢM TẠ ĐỨC CHÚA TRỜI (GV)

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 33:1-11; 35:1-3, 6-15.

II. CÂU GỐC: “Hãy hứa nguyện và trả xong cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi” (Thi Thiên 76:11).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Gia-cốp lập bàn thờ cảm tạ Đức Chúa Trời vì sự chăm sóc của Ngài đối với ông.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời chăm sóc chúng ta, cho nên chúng ta phải biết cảm tạ Ngài.

– Hành động: Em cảm tạ Đức Chúa Trời vì sự chăm sóc của Ngài.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Đức Chúa Trời giải quyết nan đề.

Cùng bàn luận với các em về bài tập “Nan đề của em” trong sách học viên bài 4. Hướng dẫn các em chia sẻ những việc mà em cảm thấy khó thực hiện. Có thể tham khảo các thí dụ trong bài tập. Mục đích là chỉ ra một số khó khăn trong cuộc sống, chúng ta phải nhờ cậy Đức Chúa Trời giải quyết, và cảm tạ Đức Chúa Trời vì sự chăm sóc của Ngài trên đời sống chúng ta.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị: Photo lớn trang tài liệu 8-9 trong sách giáo viên, 2 viên đá).

1. Vào đề.

Bài học trước các em đã biết La-ban và Gia-cốp kết ước sẽ không vượt qua ranh giới để làm hại nhau. Khi La-ban quay trở về, Gia-cốp như vứt đi được một tảng đá. (Giáo viên lấy một viên đá trong người ra để lên bàn). Nhưng Gia-cốp vẫn còn một gánh nặng khác, một tảng đá lớn đeo dai dẳng trong lòng bao nhiêu năm nay. Đây là một nan đề lớn của Gia-cốp! Bài học nầy sẽ giúp các em hiểu rõ hơn về điều nầy.

2. Bài học.

Có một người khiến Gia-cốp không yên lòng, đó là Ê-sau. Trên đường trở về, Gia-cốp đã sai người đến chỗ của Ê-sau, xin anh tha thứ, nhưng không ngờ đầy tớ trở về nói: “Ê-sau dẫn bốn trăm người đang đi đến!” Gia-cốp lo lắng nghĩ thầm: “Ê-sau sẽ đối xử với mình và gia đình như thế nào? Có lẽ Ê-sau vẫn còn giận, vẫn còn muốn trả thù. Nếu Ê-sau muốn giết mình và cả gia đình, thì thật là đáng sợ. Làm cách nào đây?” (Cho các em xem hình Gia-cốp đang lo lắng).

Gia-cốp là người nhiều mưu kế, ông chia gia nhân làm hai toán, cho mỗi toán coi sóc một nửa số gia súc để khỏi bị mất toàn bộ. Rồi Gia-cốp cầu nguyện khẩn thiết, xin Đức Chúa Trời cứu ông thoát khỏi tay anh mình. Gia-cốp cũng sai gia nhân ba lần đem lễ vật đến tặng Ê-sau, bày tỏ thiện ý mong muốn hòa hảo với anh.

Khi thấy đoàn người của Ê-sau đi đến, Gia-cốp liền chia người nhà thành ba toán, cho Ra-chên và con trai do nàng sinh ra đi sau cùng, còn Gia-cốp thì đi trước để đón Ê-sau.

Ê-sau nhìn thấy một đoàn người và súc vật ở xa xa, biết là của Gia-cốp. Rồi Ê-sau thấy người đi đầu tiên đi rất lạ, cứ đi vài bước lại sấp mình xuống đất, rồi lại đứng dậy đi tiếp, liên tục như vậy đến bảy lần. Nhìn kỹ, Ê-sau nhận ra người đó là Gia-cốp. Quá xúc động, Ê-sau chạy đến ôm hôn Gia-cốp. (Giải thích cho các em biết, thời đó hôn nhau là bày tỏ sự thân thiện). Cả hai anh em đều cảm động và khóc. (Cho các em xem hình Gia-cốp và Ê-sau hòa hảo). Thấy Ê-sau không có ác ý, Gia-cốp liền giới thiệu vợ con cho Ê-sau biết. Ê-sau nói với Gia-cốp: “Các bầy vật em đưa đến làm chi vậy?” Gia-cốp trả lời: “Bởi vì Đức Chúa Trời ban cho em đầy đủ mọi sự. Xin anh hãy nhận lễ vật đó vì anh chịu tha thứ cho em, cũng như Đức Chúa Trời tha thứ cho em vậy!” Gia-cốp cố nài nỉ mãi cho đến khi Ê-sau nhận các lễ vật ấy. Hai anh em họ đã giải hòa với nhau. Bây giờ tảng đá lớn nhất, bấy lâu nay đè nặng trong lòng Gia-cốp được lấy ra! (Lấy một cục đá lớn trong người ra để lên bàn).

Sau đó, Đức Chúa Trời nhắc Gia-cốp phải đến Bê-tên để trả sự hứa nguyện. Bê-tên là nơi Gia-cốp gặp Đức Chúa Trời đầu tiên. Các em có nhớ Gia-cốp từng hứa nguyện: “Nếu Đức Chúa Trời gìn giữ con bình an trở về, thì con sẽ chỉ thờ phượng Chúa và dâng một phần mười tài sản cho Ngài”. Vì thế, Gia-cốp và cả gia đình cùng đi đến Bê-tên, lập một bàn thờ, thờ phượng Đức Chúa Trời và cảm tạ Ngài. Giờ đây, Đức Chúa Trời không chỉ là Đức Chúa Trời của tổ phụ Gia-cốp mà là Đức Chúa Trời của chính ông. Bởi vì Gia-cốp đã kinh nghiệm sự chăm sóc của Đức Chúa Trời – Khi cô đơn Đức Chúa Trời ở cùng, khi thiếu thốn Đức Chúa Trời giúp đỡ, khi nhận lỗi với người khác Đức Chúa Trời đoái xem.

Các em thân mến, có lẽ từ nhỏ các em đã theo ba mẹ hoặc người lớn đến Hội Thánh, và em nghĩ rằng Đức Chúa Trời là của ba mẹ hoặc của người nào đó. Nhưng qua bài học nầy, em có nhận thấy rằng Đức Chúa Trời cũng luôn chăm lo cho em, Ngài là Đức Chúa Trời của em, cũng là Đức Chúa Trời của cô (thầy). Chúng ta hãy luôn cảm tạ Chúa vì những ơn phước Ngài ban cho chúng ta, em nhé.

3. Ứng dụng.

Cho các em thảo luận bằng cách trả lời các câu hỏi sau: Tâm trạng của Gia-cốp thế nào khi sắp gặp lại Ê-sau? Gia-cốp chuẩn bị đón tiếp Ê-sau như thế nào? Cuối cùng, hai anh em họ có kết quả như thế nào? Tại sao Gia-cốp phải trở về Bê-tên? Sau đó hoàn thành bài tập: “Đức Chúa Trời giúp đỡ Gia-cốp như thế nào? (Đáp án: 1c, 2d, 3a, 4b).

Hướng dẫn các em hoàn tất bài tập: “Thư cảm tạ Đức Chúa Trời” trong trang cắt dán, để tỏ lòng cảm tạ Đức Chúa Trời. (Có thể dùng hình vẽ thay cho chữ viết).

 

 

 

(HỌC VIÊN)

BÀI 4. GIA-CỐP CẢM TẠ ĐỨC CHÚA TRỜI (HV)

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 33:1-11; 35:1-3, 6-15.

II. CÂU GỐC: “Hãy hứa nguyện và trả xong cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi” (Thi Thiên 76:11).

III. BÀI TẬP.

A. NAN ĐỀ CỦA EM.

Hãy khoanh tròn những việc em cho là mình khó có thể làm được.

  1. Nhận lỗi khi sai phạm.
  2. Khen người có thành tích tốt hơn mình.
  3. Làm hòa với bạn sau khi cãi nhau.
  4. Chủ động làm bài tập ở nhà.

 

B. ĐỨC CHÚA TRỜI ĐOÁI XEM GIA-CỐP NHƯ THẾ NÀO?

Xem hình vẽ, dùng đường kẻ nối các hình vẽ chữ và số thích hợp lại với nhau.

1. Gia-cốp cô đơn trong đồng vắng.

2. Gia-cốp gặp La-ban và không có việc gì xảy ra.

3. Gia đình Gia-cốp bị La-ban đuổi theo.

4. Gia-cốp lo lắng Ê-sau không tha thứ cho mình.

 

a. Gia-cốp và La-ban chất đá lập giao ước.

b. Ê-sau tha thứ cho Gia-cốp.

c. Gia-cốp mơ thấy thiên sứ.

d. Gia-cốp rời khỏi nhà La-ban với vợ con và tài sản.

 

BÀI 3. ĐỨC CHÚA TRỜI BẢO VỆ GIA-CỐP (GV-HV)

BÀI 3. ĐỨC CHÚA TRỜI BẢO VỆ GIA-CỐP (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ II. 2016 on 1 Tháng Ba, 2018

BÀI 3. ĐỨC CHÚA TRỜI BẢO VỆ GIA-CỐP (GV)

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 31:1-3, 17-18, 22-25, 51-55; 32:22-29.
II. CÂU GỐC: “Người nào để trí mình nương dựa nơi Ngài, thì Ngài sẽ gìn giữ người trong sự bình yên trọn vẹn” (Ê-sai 26:3).
III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:
– Biết: Đức Chúa Trời ở cùng, bảo vệ Gia-cốp bình yên trở về quê nhà.
– Cảm nhận: Đức Chúa Trời cũng luôn ở cùng, bảo vệ chúng ta.
– Hành động: Hết lòng nhờ cậy Đức Chúa Trời trong mọi sự.
IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.
A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.
* Vẽ: Con đường trở về nhà.
Cho các em mở sách học viên bài 3, vẽ một căn nhà biểu thị: “Căn nhà của em”, sau đó vẽ một con đường từ phía ngoài đi đến cửa nhà. Nếu muốn thêm phần thú vị, có thể dùng “song bút” cùng vẽ, bằng cách lấy hai cây bút chì sáp khác màu, dùng dây thun cột lại, chú ý đầu bút phải xếp ngang bằng nhau.
B. BÀI HỌC KINH THÁNH.
(Chuẩn bị thị trợ: Photo lớn hình vẽ trang tài liệu 4-7, rồi tô màu cho đẹp).
1. Vào đề.
Các em ơi, các em đã từng nhớ nhà chưa? Khi nào các em nhớ nhà nhất? (Cho các em trả lời). Bài học trước các em đã biết Gia-cốp sống ở nhà cậu mình là La-ban. Bài học nầy sẽ cho các em biết La-ban đối xử với Gia-cốp như thế nào, và Gia-cốp sống ở nhà cậu có vui không nhé.
2. Bài học.
Các em còn nhớ vì muốn cưới Ra-chên, Gia-cốp xin làm việc cho La-ban mấy năm không? (Cho các em trả lời). Đúng rồi, thế nhưng sau bảy năm La-ban lại đánh lừa Gia-cốp, đem Lê-a gả cho Gia-cốp. Muốn cưới Ra-chên, Gia-cốp phải chờ bảy ngày sau và làm việc cho La-ban thêm bảy năm nữa. Vì yêu Ra-chên nên Gia-cốp chấp nhận những yêu cầu của La-ban.
Trong mười bốn năm, Gia-cốp hết lòng chăm sóc đàn gia súc của La-ban ngày một mập béo, sinh sôi nẩy nở nhanh chóng. Một hôm, Gia-cốp nói với La-ban: “Cháu muốn về quê, xin cậu cho cháu đem vợ con đi” Nhưng La-ban nói: “Xin cháu ở lại, cậu biết rằng Đức Chúa Trời vì cháu mà ban phước cho cậu. Cháu hãy định công giá, rồi cậu sẽ trả cho”. Gia-cốp nói: “Cháu chỉ lấy những con chiên có rằn, có đốm và màu đen mà thôi”. Vậy Gia-cốp tiếp tục chăn chiên cho La-ban. Những con chiên trắng thuộc về La-ban, còn có rằn, có đốm, màu đen thì thuộc về Gia-cốp. Thật là kỳ lạ, cho dù La-ban có thay đổi công giá như thế nào, đàn chiên của Gia-cốp vẫn càng ngày càng nhiều, càng mập mạnh, còn đàn chiên của La-ban ngày càng ít đi và gầy yếu. (Cho các em xem hình số 5).
Tại sao như vậy? (Cho các em trả lời). Đúng rồi, do Đức Chúa Trời ban phước cho Gia-cốp. Nhưng các con của La-ban không nghĩ như vậy, họ cho rằng Gia-cốp đã đoạt lấy tài sản của cha mình. Mỗi ngày đều phải nhìn sắc mặt của họ, phải nghe những lời khó chịu, theo em, Gia-cốp cảm thấy thế nào? Gia-cốp có muốn trở về quê nhà không? (Cho các em trả lời).
Một hôm, Đức Chúa Trời bảo Gia-cốp: “Con hãy trở về quê hương, ta sẽ bảo vệ con”. Gia-cốp liền dẫn vợ con, đàn gia súc và tất cả tôi tớ lên đường. Tại sao Gia-cốp phải ra đi gấp gáp như vậy? Vì lúc ấy La-ban và các con trai đang ra ngoài hớt lông chiên một thời gian mới về. Gia-cốp sợ La-ban về sẽ cản trở, không cho ông đem vợ con và tài sản trở về quê nhà.
Gia-cốp và gia đình đi suốt mười ngày ròng rã, đến núi Ga-la-át dừng lại đóng trại, dự định nghỉ ngơi tại đó. Không ngờ La-ban đã đuổi kịp, làm thế nào đây? La-ban giận dữ hỏi Gia-cốp: “Tại sao cháu lại bỏ đi như chạy trốn vậy? Cậu có thể làm hại cháu, nhưng đêm qua Đức Chúa Trời có dặn cậu dù lành hay dữ cũng thận trọng, đừng nặng lời với Gia-cốp. Vì thế, hãy để Đức Chúa Trời làm chứng cho chúng ta. Cậu và cháu hãy kết ước với nhau”. (Cho các em xem hình). Họ liền chất một đống đá, và thề rằng sẽ không vượt qua nơi đó để làm hại nhau. Rồi La-ban và Gia-cốp cùng cả nhà ngồi lại ăn uống vui vẻ với nhau. Hôm sau, La-ban từ biệt mọi người, quay trở về. Gia-cốp vui mừng vì La-ban không làm gì hại ông và gia đình. Gia-cốp biết rằng Đức Chúa Trời bảo vệ, gìn giữ mình nên hết lòng cảm tạ Chúa.
Trên đường đi, thấy đội quân thiên sứ của Đức Chúa Trời đón tiếp và bảo vệ cả nhà mình, Gia-cốp cầu xin Đức Chúa Trời cứ tiếp tục ở cùng, giúp đỡ mình. Đang ban đêm, Gia-cốp đối diện với Đức Chúa Trời, được Ngài ban phước và đặt cho một cái tên mới – Y-sơ-ra-ên.
Gia-cốp ở Cha-ran hai mươi năm, học được bài học nhờ cậy Đức Chúa Trời. Những khi cô đơn, mệt mỏi, bị người khác hà hiếp Gia-cốp đều cảm nhận được rằng Đức Chúa Trời luôn ở cùng, bảo vệ mình. Bây giờ trở về quê nhà, Gia-cốp tin rằng Đức Chúa Trời vẫn luôn bảo vệ, gìn giữ mình được mọi sự bình an.
3. Ứng dụng.
Cho các em mở sách học viên bài 3, dựa theo hình vẽ trong bài tập phần A để kể chuyện. Có thể phân chia bốn hình vẽ cho bốn em lần lượt lên kể chuyện cho cả lớp nghe theo thứ tự. Cứ bốn em nầy xong đến bốn em khác, tuần tự như vậy cho đến khi cả lớp đều tham gia kể chuyện.
Trước khi các em làm bài tập phần B, giáo viên hỏi: Trong cuộc sống hằng ngày, các em có bị người khác hà hiếp không? Ai đã ăn hiếp các em? Lúc ấy, em cảm thấy thế nào? Em có phản ứng gì? Sau đó, cho các em hoàn tất bài tập, chú ý phản ứng của các em để khích lệ, hướng dẫn các em nhận biết Đức Chúa Trời luôn bảo vệ, chăm lo cho chúng ta trong cuộc sống hằng ngày.

 

 

(HỌC VIÊN)

BÀI 3. ĐỨC CHÚA TRỜI BẢO VỆ GIA-CỐP (HV)

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 31:1-3, 17-18, 22-25, 51-55; 32:22-29.
II. CÂU GỐC: “Người nào để trí mình nương dựa nơi Ngài, thì Ngài sẽ gìn giữ người trong sự bình yên trọn vẹn” (Ê-sai 26:3).
III. BÀI TẬP.
A. CON ĐƯỜNG TRỞ VỀ NHÀ.
1. Vẽ căn nhà của em.
Vẽ một căn nhà biểu thị căn nhà của mình, sau đó vẽ một con đường từ ngoài đi đến cửa nhà.

 

 

 

 

 

 

 

2. Kể chuyện.
Em có thể dựa theo bốn hình vẽ để kể lại câu chuyện nầy không?

B. LÀM THẾ NÀO.
Em hãy chọn ra phản ứng của mình, rồi đánh dấu X.

Mua thức ăn ở căntin, gặp người bạn không giữ trật tự.
…..Không dám lên tiếng, trong lòng không vui.
…..Lịch sự mời bạn xếp hàng theo thứ tự.

Trong công viên, các bạn không cho em chơi xích đu.
…..Em chơi trò chơi khác, không chơi xích đu.
…..Cãi nhau với các bạn.
Anh của em giành đồ chơi tốt, để lại cho em đồ chơi xấu.
…..Em tranh giành đồ chơi với anh.
…..Xin anh chơi xong trao đổi đồ chơi với anh.

BÀI 2. ĐỨC CHÚA TRỜI BAN PHƯỚC CHO GIA-CỐP (GV-HV)

BÀI 2. ĐỨC CHÚA TRỜI BAN PHƯỚC CHO GIA-CỐP (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ II. 2016 on 27 Tháng Hai, 2018

BÀI 2. ĐỨC CHÚA TRỜI BAN PHƯỚC CHO GIA-CỐP (GV)

 

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 29:4-6, 10-18, 21-30.
II. CÂU GỐC: “Vì Đức Giê-hô-va là thiện; sự nhân từ Ngài hằng có mãi mãi, và sự thành tín Ngài còn đến đời đời” (Thi Thiên 100:5).
III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:
– Biết: Gia-cốp được Đức Chúa Trời ban cho đầy đủ mọi sự.
– Cảm nhận: Đức Chúa Trời đáp ứng mọi nhu cầu trong đời sống chúng ta.
– Hành động: Cảm tạ Chúa vì tất cả những gì Ngài ban cho.
IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.
A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.
* Vẽ khuôn mặt và cây gậy của Gia-cốp.
Cho các em mở sách học viên bài 2, hướng dẫn các em hoàn tất bài tập “Gia-cốp thiếu gì?”, rồi vẽ khuôn mặt và cây gậy của Gia-cốp.
B. BÀI HỌC KINH THÁNH.
(Chuẩn bị thị trợ: Bảng, phấn (để vẽ con đường và viết địa danh Bê-tên, Cha-ran). Photo lớn hình vẽ trang tài liệu số 3 trong sách học viên).
1. Vào đề.
Có bao giờ em đi xa chưa? Em thường đi với ai? Nếu phải đi xa một mình các em cảm thấy thế nào? Các em có nhớ bài học trước không? Khi Gia-cốp một mình trong đồng vắng, Đức Chúa Trời hứa với ông như thế nào? (Cho các em trả lời). Đúng rồi, Chúa hứa: “Ta ở cùng người, ngươi đi đâu sẽ theo gìn giữ đó”. Bài học hôm nay sẽ cho các em biết về sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời trong cuộc sống của Gia-cốp.
2. Bài học.
Sau khi được Đức Chúa Trời hứa sẽ ở cùng, giúp đỡ, Gia-cốp tiếp tục cuộc hành trình đến nhà người cậu. Ngoài quần áo mặc trên người, đôi giày mang nơi chân và cây gậy trên tay, Gia-cốp chẳng có gì hơn. Thử nghĩ xem, với hành trang như vậy Gia-cốp sẽ gặp những khó khăn gì? (Cho các em trả lời. Giáo viên vẽ hai đường kẻ lên bảng làm “con đường”, trên khởi điểm ghi “Bê-tên”). Có lẽ dọc đường đi, mỗi khi đói bụng, khát nước, Gia-cốp hái trái cây ăn cho đỡ đói và giải khát. (Cho các em vẽ trái cây trên đường đi). Còn nếu trong ban đêm trời lạnh thì làm thế nào? (Cho các em trả lời). Chắc Gia-cốp sẽ tìm những hang động, hoặc những đám cỏ dưới những bụi cây rậm rạp để trú qua đêm. (Cho các em vẽ hang động và cỏ).
Một ngày nọ, Gia-cốp đi đến đồng ruộng gần Cha-ran (viết chữ “Cha-ran” vào cuối con đường). Thấy những người chăn đang cho bầy gia súc của họ uống nước bên một cái giếng, Gia-cốp liền hỏi: “Các anh từ đâu đến vậy?” Họ trả lời: “Chúng tôi từ Cha-ran đến”. Gia-cốp hỏi tiếp: “Các anh có biết La-ban không?” Những người chăn chiên trả lời: “Có! Chúng tôi quen biết La-ban. Kìa! Ra-chên, con gái của La-ban đang đi đến”. Gia-cốp nhìn thấy một cô gái đang dẫn bầy chiên đi đến, liền tiến tới chào và tự giới thiệu: “Tôi là Gia-cốp, con trai của Rê-bê-ca, cháu gọi cha em bằng cậu”. Nghe vậy, Ra-chên lập tức chạy về nhà báo cho cha hay. La-ban liền chạy ra đón Gia-cốp, dẫn về nhà mình. (Cho các em xem hình).
Gia-cốp ở nhà cậu được một tháng, La-ban bảo Gia-cốp giúp một số việc và hỏi Gia-cốp muốn bao nhiêu tiền công? Gia-cốp rất buồn vì cậu xem mình như người làm thuê. Sau một hồi suy nghĩ, Gia-cốp đề nghị: “Thưa cậu, vì Ra-chên, cháu sẽ giúp việc cho cậu bảy năm, xin cậu gả cô ấy cho cháu”. Người cậu bằng lòng.
Gia-cốp thương yêu Ra-chên lắm, nghĩ mình sẽ được kết hôn với Ra-chên nên Gia-cốp vui mừng và bảy năm trôi qua nhanh chóng. Nhưng cô dâu mà Gia-cốp mong đợi lại không phải là Ra-chên, mà là Lê-a, chị của Ra-chên. Gia-cốp rất giận, trách La-ban: “Tại sao cậu lại gạt cháu?” Người cậu nói rằng: “Phong tục ở đây là thế! Không được gả em trước, chị sau. Bảy ngày nữa cậu sẽ gả Ra-chên luôn cho cháu, với điều kiện cháu giúp việc thêm cho cậu bảy năm nữa”. Nếu em là Gia-cốp, em sẽ thế nào? (Cho các em trả lời).
Có lẽ Gia-cốp tự hỏi: “Lúc trước mình đã lừa gạt để lấy quyền trưởng nam của anh và sự chúc phước mà cha dành cho anh thật là không đúng. Bây giờ cậu đối xử với mình như vậy có phải là Đức Chúa Trời dạy dỗ mình không?” Gia-cốp ăn năn vì những việc làm sai trái của mình trước đây. Sau đó Gia-cốp chấp nhận lời yêu cầu của cậu, tiếp tục làm việc cho La-ban thêm nhiều năm nữa.
Từ đó, Đức Chúa Trời ban phước cho Gia-cốp đầy đủ mọi sự. Khi trở về quê hương, Gia-cốp có mười hai người con, rất nhiều tôi tớ cùng những bầy chiên, lạc đà và lừa. Gia-cốp trở thành một người giàu có.
Các em thấy không, dù Gia-cốp phải sống xa cha mẹ, nhưng Đức Chúa Trời vẫn ở cùng, chăm lo cho ông mọi sự. Đức Chúa Trời cũng chăm sóc cho chúng ta như vậy, Ngài cung cấp cho chúng ta mọi thứ cần dùng. Đức Chúa Trời thương yêu chúng ta biết bao.
Có những lúc chúng ta phạm lỗi, Đức Chúa Trời chờ đợi chúng ta ăn năn, sau đó ban cho chúng ta nhiều phước hạnh. Đức Chúa Trời là Đấng thành tín, những gì Ngài hứa, chắc chắn Ngài sẽ ban cho.
3. Ứng dụng.
Trước hết, vẽ hình của nhân vật trong câu chuyện Kinh Thánh lên tờ giấy lớn, cho các em nói ra quan hệ của Gia-cốp với mọi người, qua đó ôn lại câu chuyện nầy. (Tham khảo hình phía dưới). Sau đó cho các em thảo luận bằng cách trả lời những câu hỏi sau: Khi rời khỏi nhà, Gia-cốp đem theo những thứ gì? Đức Chúa Trời chăm lo cho Gia-cốp như thế nào? Đức Chúa Trời có thực hiện những gì Ngài hứa với Gia-cốp chưa?
Hướng dẫn các em hoàn tất bài tập: “Gia-cốp có gì?” và “Ai chăm lo cho em?”
Cuối cùng cho các em chia sẻ đáp án và cầu nguyện cảm tạ Đức Chúa Trời ban cho chúng ta mọi thứ cần dùng.
Hình vẽ quan hệ nhân vật trong gia đình Gia-cốp
LA-BAN.  RÊ-BÊ-CA.  Y-SÁC
LÊ-A.  GIA-CỐP.  Ê-SAU
RA-CHÊN

 

 

 

(HỌC VIÊN)

BÀI 2. ĐỨC CHÚA TRỜI BAN PHƯỚC CHO GIA-CỐP (HV)

 

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 29:4-6.
II. CÂU GỐC: “Vì Đức Giê-hô-va là thiện, sự nhơn từ Ngài hằng có mãi mãi; và sự thành tín Ngài còn đến đời đời” (Thi Thiên 100:5).
III. BÀI TẬP.
A. GIA-CỐP THIẾU GÌ?
Đây là hình ảnh của Gia-cốp lúc rời khỏi nhà. Em hãy vẽ những gì Gia-cốp thiếu. Ai ban cho Gia-cốp?


B. GIA-CỐP CÓ GÌ?
Sau đó, Đức Chúa Trời ban phước cho Gia-cốp. Đức Chúa Trời ban cho Gia-cốp những gì? Hãy cắt hình trong trang cắt dán, dán vào phía dưới.


C. AI CHĂM LO CHO EM?
Em viết câu trả lời vào dấu (…)
1. Quần áo em mặc do ai mua cho em?


2. Thức ăn mà em ăn mỗi ngày do ai chuẩn bị cho em?


3. Ai mua cho em những dụng cụ học tập?


4. Ai cho em không khí để hít thở mỗi ngày?


5. Ai cung cấp cho em ánh nắng và nước mưa để em được lớn lên?


 

BÀI 1. ĐỨC CHÚA TRỜI Ở CÙNG GIA-CỐP (HV)

BÀI 1. ĐỨC CHÚA TRỜI Ở CÙNG GIA-CỐP (HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ II. 2016 on 30 Tháng Mười Một, 2017

BÀI 1. ĐỨC CHÚA TRỜI Ở CÙNG GIA-CỐP

 

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 27:41-43; 28:10-22.

II. CÂU GỐC: “Ta ở cùng ngươi, ngươi đi đâu, sẽ theo gìn giữ đó” (Sáng Thế Ký 28:15).

III. BÀI TẬP.

A. CON CHIÊN NHỎ MUỐN VỀ NHÀ.

Em có thể giúp con chiên nhỏ trở về nhà không? Hãy vẽ đường đi.

B. XEM HÌNH VẼ CHIA SẺ.

Em có kinh nghiệm như những hình vẽ phía dưới không? Lúc ấy em cảm thấy như thế nào? Bày tỏ bằng cách dán giấy cắt dán (trong trang cắt dán) lên bên cạnh hình vẽ.

Bị lạc khi đi chơi với gia đình.

Ở nhà một mình.

Bị bệnh phải nằm ở bệnh viện.

BÀI 1. ĐỨC CHÚA TRỜI Ở CÙNG GIA-CỐP (GV)

BÀI 1. ĐỨC CHÚA TRỜI Ở CÙNG GIA-CỐP (GV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ II. 2016 on 30 Tháng Mười Một, 2017

BÀI 1. ĐỨC CHÚA TRỜI Ở CÙNG GIA-CỐP

 

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 27:41-43; 28:10-22.

II. CÂU GỐC: “Ta ở cùng ngươi, ngươi đi đâu, sẽ theo gìn giữ đó” (Sáng Thế Ký 28:15).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Đức Chúa Trời hứa luôn ở cùng, giúp đỡ Gia-cốp.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời luôn ở cùng con cái Ngài.

– Hành động: Tin cậy vào lời hứa của Đức Chúa Trời.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Trò chơi: Bịt mắt bắt dê.

  1. Mời một em bước ra, bịt mắt lại, đưa hai tay ra tìm cách đụng vào người khác. Những em khác phải tránh ra. Nếu tay của em bịt mắt đụng trúng ai, thì được mở khăn ra, và người bị đụng phải bịt mắt lại tìm cách đụng người khác. Trò chơi cứ thế tiếp tục. Mục đích của trò chơi nầy để các em cảm nhận sự cô đơn, sợ hãi.
  2. Chia sẻ: Sau khi chơi xong, cho các em ngồi ổn định, mời những em đã từng bịt mắt nói ra cảm giác khi chỉ thấy một màu đen tối mịt.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Photo lớn trang tài liệu hình 1: Ê-sau và hình 2: Gia-cốp trong sách giáo viên rồi tô màu cho đẹp).

    1. Vào đề.

Các em có thấy anh em hoặc chị em sinh đôi chưa? Anh em sinh đôi thường có đặc điểm gì? (Cho các em trả lời). Đúng rồi, anh em hoặc chị em sinh đôi thường rất giống nhau. Nhưng hai anh em sinh đôi trong Kinh Thánh là Ê-sau và Gia-cốp lại không một chút giống nhau. Họ khác hẳn nhau từ diện mạo cho đến tính cách. Bài học nầy sẽ giúp các em hiểu rõ hơn.

    2. Bài học.

Ê-sau tính tình hiếu động, có nhiều sơ xuất, còn Gia-cốp tính tình trầm lặng, nhiều toan tính cho bản thân. Một hôm, mẹ của họ là Rê-bê-ca bảo Gia-cốp: “Con mau chạy trốn đi! Anh của con muốn giết con. Hãy đến ở nhà cậu con chờ khi anh con nguôi giận hãy quay về”.

Tại sao Gia-cốp phải chạy trốn? Tại sao Ê-sau nổi giận? Bởi vì trước đó Gia-cốp giả mạo người anh là Ê-sau để đoạt lấy sự chúc phước của cha dành cho con trưởng. Ê-sau mất đi phước hạnh tốt nhất, rất giận, nhớ đến lúc trước Gia-cốp cũng từng lừa gạt mình, chiếm quyền trưởng nam. Càng nghĩ càng căm tức, Ê-sau nhủ thầm: “Chờ khi cha qua đời tôi sẽ giết Gia-cốp”. Nhưng không ngờ mẹ của họ là Rê-bê-ca biết được ý định của Ê-sau và báo cho Gia-cốp chạy trốn.

Thử nghĩ xem, nếu em phạm sai lầm với một người nào đó và người ta muốn tìm em để báo thù, em cảm thấy thế nào? (Cho các em suy nghĩ một lát, nếu các em không chủ động trả lời có thể tiếp tục gợi ý). Có phải rất sợ không? (Cho các em trả lời). Có lo lắng không? (Cho các em trả lời). Có phải rất hối hận không? (Cho các em trả lời).

Gia-cốp vừa lo sợ vừa hối hận vì đã làm cho anh mình nổi giận. Bây giờ chỉ còn cách là nhanh chóng chạy trốn. Rời khỏi nhà cha mẹ, Gia-cốp cắm cúi đi suốt ngày mong sớm đến nhà cậu, nhưng đường đến Cha-ran còn rất xa. Khi màn đêm buông xuống, một thân một mình giữa đồng vắng, Gia-cốp cảm thấy rất buồn và cô đơn. Ông nằm gối đầu trên một hòn đá phẳng rồi ngủ thiếp đi.

Trong giấc mơ, Gia-cốp thấy một cảnh rất lạ! Có một cái thang sáng chói bắt từ đất lên trời. Có các thiên sứ đi lên, đi xuống trên thang đó, rồi Gia-cốp nghe có tiếng nói từ trên đầu thang (dùng giọng trang nghiêm, nhân từ): “Ta là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, của Y-sác cha ngươi và ta cũng sẽ là Đức Chúa Trời của ngươi. Tất cả vùng đất xung quanh ngươi, ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi. Ta hứa với ngươi, ta sẽ ở cùng ngươi, ngươi đi đâu sẽ theo gìn giữ đó. Ta không bao giờ bỏ ngươi”.

Gia-cốp thức giấc, lòng đầy vui mừng tự nhủ: “Đức Chúa Trời của tổ phụ mình thật là Đấng chân thật, Ngài không rời khỏi mình. Ngài hứa sẽ bảo vệ, gìn giữ mình”.

Các em ơi, Đức Chúa Trời của tổ phụ Gia-cốp là Đức Chúa Trời mà chúng ta tin cậy. Ngài thấu hiểu cảm nhận và suy nghĩ của Gia-cốp. Ngài cũng hiểu rõ mọi nhu cầu của chúng ta, Ngài hứa: “Ta ở cùng ngươi, ngươi ở đâu, sẽ theo gìn giữ đó”. Như vậy, chúng ta có phải sợ hãi không?

    3. Ứng dụng.

Cho các em thảo luận bằng cách trả lời các câu hỏi sau: Dù là hai anh em sinh đôi, nhưng Ê-sau và Gia-cốp có gì khác biệt? Tại sao Gia-cốp rời khỏi gia đình? Gia-cốp làm vậy có đúng hay không? Gia-cốp có cảm nhận như thế nào sau khi rời khỏi gia đình? Gia-cốp có nhận được sự giúp đỡ nào không? Đó là sự giúp đỡ gì?

Sau đó cho các em làm bài tập “Con chiên nhỏ về nhà” và bài tập “Gia-cốp không về nhà”. Cho các em tưởng tượng tâm trạng của con chiên khi bị lạc (khao khát về nhà), rồi đối chiếu với cảnh khốn khổ của Gia-cốp khi cô đơn trong đồng vắng.

Khi em sợ hãi, cô đơn, không ai giúp đỡ, em nên cầu nguyện, Đức Chúa Trời luôn ở cùng và giúp đỡ em.

BÀI 12. CHIÊN VÀ DÊ (HV)

BÀI 12. CHIÊN VÀ DÊ (HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ I. 2016 on 18 Tháng Sáu, 2017

BÀI 12. CHIÊN VÀ DÊ

 

I. KINH THÁNH: Ma-thi-ơ 25:31-46.

II. CÂU GỐC: “Chúng ta đã nhận nơi Ngài điều răn nầy: Ai yêu Đức Chúa Trời, thì cũng phải yêu anh em mình” (1Giăng 4:21).

III. BÀI TẬP.

A. ĐÚNG HOẶC SAI.

Theo sự dạy dỗ của Chúa Giê-xu trong bài nầy, em xem hình vẽ nào biểu hiện việc làm đúng thì dán con chiên, làm sai thì dán con dê (Cắt hình chiên, dê trong trang cắt dán).

 

 

B. HÀNH ĐỘNG CỦA EM.

Em có quen biết những anh chị em đang ở trong hoàn cảnh khó khăn hoạn nạn không? Sau khi nghe Chúa Giê-xu dạy dỗ, em sẽ đối đãi với họ thế nào? Hãy vẽ hoặc viết ra.