Chuyên mục: NHI ĐỒNG

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) –QUÝ 1/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) –QUÝ 1/2024

in NHI ĐỒNG on 9 Tháng Tám, 2024

BÀI 8. NƯỚC SÔNG RẼ RA

 

I. KINH THÁNH: Giô-suê 1:2-9; 3:1-17; 4:1-24.

II. CÂU GỐC: “Đừng sợ vì Ta ở với con, Chớ kinh khiếp vì Ta là Đức Chúa Trời của con! Ta sẽ làm cho con mạnh mẽ; phải, Ta sẽ giúp đỡ con, dùng tay phải công chính của Ta mà nắm giữ con.” (Ê-sai 41:10).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Giô-suê và dân Y-sơ-ra-ên vâng lời Chúa, can đảm bước xuống sông Giô-đanh. Đức Chúa Trời đã rẽ nước sông cho họ đi qua bình an.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời luôn giúp đỡ em nếu em biết vâng lời Ngài.

– Hành động: Xin Chúa giúp em luôn vâng lời Ngài. Cảm tạ Chúa đã ở cùng em.

IV. PHẦN SUY GẪM CỦA GIÁO VIÊN.

Đi qua sông Giô-đanh giữa mùa nước lớn là một việc không thể thực hiện! Vậy mà Giô-suê và dân Y-sơ-ra-ên vẫn vâng lời Đức Chúa Trời chuẩn bị qua sông. Khi bàn chân của các thầy tế lễ vừa đặt xuống mé sông, nước liền ngưng chảy và đứng yên như một bức tường cách xa khoảng hai mươi dặm về phía thượng lưu. Dân Y-sơ-ra-ên đi qua sông Giô-đanh như đi trên đất khô. Nhờ hết lòng tin cậy, vâng lời Đức Chúa Trời, dân Y-sơ-ra-ên đã vượt qua sông Giô-đanh, chiếm lấy sản nghiệp mà Đức Chúa Trời ban cho họ.

Bạn đọc phần Kinh Thánh của bài nầy thật kỹ rồi cầu nguyện, sau đó ôn lại đời sống của chính mình trong những ngày qua. Bạn vâng theo mệnh lệnh của Chúa trong trường hợp nào? Chúa có ban cho bạn lòng can đảm để vượt qua khó khăn không? Chúa có ở cùng bạn không? Làm sao minh chứng điều đó?

Vâng lời Chúa, chúng ta sẽ kinh nghiệm được những điều kỳ diệu trong đời sống. Những hành động cụ thể của bạn sẽ giúp bạn giảng dạy có hiệu quả hơn.

V. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Mô hình thành cổ.

  1. Mục đích: Giúp các em mường tượng được sông Giô-đanh, thành Giê-ri-cô và nhà ở của dân Y-sơ-ra-ên.
  2. Vật liệu: Xem bài trước.
  3. Thực hiện: Cho các em tiếp tục công việc dang dở của tuần trước. Sau khi các em làm xong, giáo viên hỏi các em: “Có bao giờ các em qua sông chưa? Sông như thế nào? Trong sông có những gì? Sông Giô-đanh nằm ở đâu?”

Nếu các em không biết gì về sông Giô-đanh hoặc trả lời sai thì cũng không sao. Nói với các em: “Giô-đanh là một con sông rất đặc biệt, vừa rộng vừa sâu lại rất lạnh. Tên Giô-đanh có nghĩa là nước chảy xiết. Sông dài khoảng ba trăm cây số. Hai bên bờ sông cây cỏ mọc um tùm. Trong sông có nhiều tôm cá. Những vùng đất chung quanh được phù sa bồi đắp nên rất phì nhiêu màu mỡ, hằng năm cung cấp nhiều trái cây, rau quả. Câu chuyện Kinh Thánh nầy đã xảy ra ở sông Giô-đanh, Đức Chúa Trời được vinh hiển tại dòng sông nầy. Bây giờ các em cùng lắng nghe để biết rõ hơn nhé”.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị giáo cụ: Con rối Ra-háp và hai thám tử, mô hình thành cổ, mô hình hòm giao ước và hình phụ trợ trong phần phụ lục).

  1. Vào đề.

Các em có thể nghĩ ra bao nhiêu cách để qua một con sông rất rộng? Dân Y-sơ-ra-ên sắp phải vượt qua sông Giô-đanh để vào Đất Hứa. Bây giờ chúng ta hãy xem họ làm thế nào để qua sông nhe.

  1. Bài học.

Dân Y-sơ-ra-ên sắp đi đến miền đất mà Đức Chúa Trời hứa ban cho họ. Ai nấy đều phấn khởi vì họ mong đợi điều nầy đã bao năm rồi. Họ thu xếp hành trang, cuốn dọn lều trại, lo chuẩn bị cho đàn gia súc chiên, dê, lạc đà… rồi lên đường.

Đi một quãng ngắn, họ đến sông Giô-đanh. Đoàn người dừng lại dựng lều trại để chờ đi tiếp. Lúc này dòng sông Giô-đanh đang vào mùa lũ, nước dâng cao và chảy xiết. Nơi đây không có cầu, không có thuyền, và hầu hết mọi người đều không biết bơi. Làm sao đoàn người đông đúc nầy có thể vượt qua sông Giô-đanh vừa sâu vừa rộng nầy được? Chắc chắn quân thù trong vùng rất ngạc nhiên khi thấy những hành động của dân Y-sơ-ra-ên. Có lẽ họ thắc mắc: Dân Y-sơ-ra-ên còn chờ đợi gì đây?

Một ngày, hai ngày, rồi ba ngày trôi qua… Cuối cùng tin tức mới nhất đưa đến – dân Y-sơ-ra-ên không phải chờ đợi nữa! Những phụ tá của Giô-suê đi khắp các lều trại nói với dân chúng: “Khi các ngươi thấy các thầy tế lễ khiêng hòm giao ước, thì hãy đi theo họ” (cho các em xem mô hình hòm giao ước).

Sáng sớm hôm sau, Giô-suê bảo các thầy tế lễ khiêng hòm giao ước đi trước dẫn đường cho mọi người qua sông Giô-đanh. Rồi Giô-suê nói cùng người Y-sơ-ra-ên: “Hôm nay các ngươi sẽ thấy Đức Chúa Trời vĩ đại như thế nào. Ngài luôn ở cùng các ngươi và Ngài sẽ giúp đỡ các ngươi chiến thắng quân thù. Hòm giao ước sẽ dẫn các ngươi đi qua sông Giô-đanh. Khi các thầy tế lễ khiêng hòm giao ước vừa đặt chân xuống nước sông Giô-đanh, nước sông sẽ ngừng chảy, nước từ phía nguồn sẽ dồn lại”.

Dân chúng rất kinh ngạc khi nghe như vậy. Họ thấy các thầy tế lễ khiêng hòm giao ước tiến thẳng đến bờ sông (đưa hình tuần nầy, gấp che phần vách nước dựng đứng lên). Đúng lúc ấy, họ trông thấy một việc lạ lùng xảy ra! Khi chân các thầy tế lễ đặt xuống nước, Đức Chúa Trời khiến nước ngừng chảy (mở phần vách nước ra). Nước trên nguồn dồn lại thành một bức tường, còn nước ở phía hạ nguồn đều chảy đi hết. Các thầy tế lễ khiêng hòm giao ước đứng giữa sông, dân chúng đi trên đất khô sang đến bờ bên kia sông.

Khi mọi người đã sang bờ bên kia sông Giô-đanh bình an, Đức Chúa Trời phán cùng Giô-suê: “Hãy truyền cho những thầy tế lễ khiêng hòm giao ước lên khỏi sông”. Giô-suê làm theo Lời Đức Chúa Trời phán dạy.

Kinh Thánh cho biết: “Khi những thầy tế lễ khiêng hòm giao ước của Đức Giêhôva đã lên khỏi giữa sông, và bàn chân họ giở lên đặng bước trên đất khô rồi, thì nước sông Giô-đanh trở lại chỗ cũ, và chảy tràn ra khắp mé như trước (Giô-suê 4:18).

Được tận mắt chứng kiến Đức Chúa Trời làm việc vĩ đại như vậy, người Y-sơ-ra-ên cảm thấy thế nào? Chắc chắn họ vui mừng vô cùng phải không các em? Qua đó, dân Y-sơ-ra-ên nhận biết rằng Đức Chúa Trời luôn ở cùng giúp đỡ họ nếu họ biết tin cậy vâng lời Ngài.

  1. Ứng dụng.

Mời một vài em tình nguyện kể lại câu chuyện một cách đơn giản, rồi hướng dẫn các em học câu gốc. Nhấn mạnh Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta, chỉ cần chúng ta vâng phục Ngài.

Hướng dẫn các em làm con rối giấy gắn bút chì, rồi diễn vở kịch nhỏ trong sách học viên. Có thể cho các em có thể tập kịch trước ở nhà.

VI. PHỤ LỤC.

  1. Mô hình hòm giao ước.
  2. Vật liệu: 3 miếng vải 17.5 x 20 cm (một miếng nhiều màu: trắng, lam, hồng, tím và đỏ hoặc tô những màu trên lên mảnh vải trắng, một miếng màu xanh dương và một miếng màu xám), băng keo, 2 thanh cây dài 17,5cm, giấy àu vàng, kéo, keo dán.
  3. Cách làm: Vẽ hòm giao ước ra giấy dày màu vàng theo kích thước mẫu (hình A), cắt ra rồi dán lại thành một cái hộp giấy. Sau đó dùng băng keo dán hai thanh cây vào hai bên của hộp giấy.

Làm thiên sứ theo như hình vẽ bằng giấy màu vàng (hình B), rồi dán thiên sứ lên mặt trên của hộp giấy.

Khi dạy, phủ các tấm vải màu lên hòm giao ước cho các em xem và chỉ cách khiêng hòm giao ước. Trước hết, phủ tấm vải nhiều màu, rồi đến tấm vải màu xám và sau cùng phủ tấm vải màu xanh dương lên hòm giao ước.

C. Vẽ hình – qua sông Giô-đanh.

  1. Vật liệu: Một tờ giấy trắng, bút màu.
  2. Cách làm: Trước khi lên lớp, giáo viên vẽ hình theo mẫu. Ở khoảng giữa các thầy tế lễ khiêng hòm giao ước và nước sông, gạch một đường rời. Khi các thầy tế lễ chưa đạp lên nước, gấp theo đường nầy, phần nước sông bị che khuất ở phía sau. Khi các thầy tế lễ bước trên nước sông, nước sông rẽ ra, người Y-sơ-ra-ên đi qua trên đất khô, thì mở nếp gấp ra để lộ cả tấm hình.
BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) –QUÝ 1/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) –QUÝ 1/2024

in NHI ĐỒNG on 9 Tháng Tám, 2024

BÀI 7. THÁM TỬ THOÁT NẠN

 

I. KINH THÁNH: Giô-suê 2:1-24.

II. CÂU GỐC: “Chẳng phải Ta đã truyền phán với con sao? Hãy mạnh dạn, can đảm! Chớ run sợ, chớ kinh hãi! Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời của con vẫn ở cùng con trong mọi nơi con đi.” (Giô-suê 1:9).

 III. BÀI TẬP.

A. TẬP ĐỌC.

Giô-suê sai thám tử

Lén vào Giê-ri-cô

Xem tình thế ra sao

 

Dân biết tin lo sợ

Vua hoảng hốt giật mình

Sai người bắt thám tử

 

Nhờ Chúa Trời bảo vệ

Thám tử được an bình

Nấp trên mái nhà xinh

 

Cô Ra-háp cứu giúp

Thoát đi giữa đêm thinh

Về thuật mọi tình hình

Cho Giô-suê được biết

 

Ra-háp có lòng tin

Đã ra tay nhân ái

Giúp người Chúa sai phái

Nên được sống an bình

B. XEM HÌNH – ĐIỀN VÀO CHỖ TRỐNG.

Em điền những con số trong hình vẽ vào chỗ trống của câu cho phù hợp.

 

C. MÔ HÌNH THÀNH CỔ.

      Em chỉ ra vị trí thành Giê-ri-cô, sông Giô-đanh và doanh trại người Y-sơ-ra-ên.

D. EM SỢ GÌ? KHÔNG SỢ GÌ?

Cửa hàng bánh kẹo
Không ai biết mất ba gói đâu.

Hu … hu…! Em không dám về nhà gặp mẹ đâu.

 

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) –QUÝ 1/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) –QUÝ 1/2024

in NHI ĐỒNG on 9 Tháng Tám, 2024

 

BÀI 7. THÁM TỬ THOÁT NẠN

I. KINH THÁNH: Giô-suê 2:1-24.

II. CÂU GỐC: “Chẳng phải Ta đã truyền phán với con sao? Hãy mạnh dạn, can đảm! Chớ run sợ, chớ kinh hãi! Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời của con vẫn ở cùng con trong mọi nơi con đi.” (Giô-suê 1:9).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Hai thám tử gặp khó khăn, nhưng Đức Chúa Trời đã chăm sóc và giúp đỡ họ.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời ban sự can đảm cho hai thám tử và hướng dẫn họ làm đúng những việc cần thiết.

– Hành động: Xin Chúa giúp đỡ và ban cho các em lòng can đảm để làm đúng những điều Chúa muốn.

IV. PHẦN SUY GẪM CỦA GIÁO VIÊN.

Khi nhắc đến Giô-suê chương 2, người ta thường nói đến đức tin của Ra-háp, nhưng trong bài học nầy, chúng ta cùng suy nghĩ về sự can đảm mà Đức Chúa Trời ban cho hai thám tử khi họ được giao nhiệm vụ do thám thành Giê-ri-cô.

Giê-ri-cô có tường thành bao bọc chung quanh kiên cố, quân lính bảo vệ nghiêm nhặt. Do thám thành Giê-ri-cô quả là việc hết sức khó khăn. Nếu bị phát hiện chắc chắn sẽ chết! Nhưng hai thám tử được Đức Chúa Trời ban cho sự can đảm, vững tin nơi Ngài. Họ đã  hoàn thành nhiệm vụ được giao một cách xuất sắc. Và cũng chính họ chỉ cho gia đình Ra-háp phương cách để được cứu  qua việc treo sợi chỉ điều nơi cửa sổ.

Trong sự phục vụ Chúa, nhiều lúc cũng gặp những việc không dễ chút nào, nhưng đừng nản lòng, Chúa sẽ ban cho chúng ta sự can đảm để vượt qua mọi sự. Đức Chúa Trời luôn ở cùng, giúp đỡ chúng ta hoàn thành mọi việc nếu chúng ta hết lòng tin cậy Chúa và làm đúng theo ý Ngài.

Bạn cần chuẩn bị bài dạy bằng sự cầu nguyện, đọc và suy gẫm Lời Chúa. Tham khảo tài liệu rồi dựa vào nhu cầu thuộc linh của các em để định kế hoạch giảng dạy cho tốt.

V. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

   * Mô hình thành cổ.

  1. Mục đích: Giúp các em mường tượng cảnh sông Giô-đanh, thành Giê-ri-cô và dân Y-sơ-ra-ên.
  2. Vật liệu: Giấy cứng màu xanh lơ làm khung, giấy cứng màu vàng làm thành Giê-ri-cô, giấy màu xanh dương đậm làm sông Giô-đanh. Bản câu hỏi, bút lông.
  3. Thực hiện: Nhờ một người đứng phía sau đọc tiếng vọng: “Thành Giê-ri-cô được bao quanh bởi một bức tường rất kiên cố. Tối đến người ta đóng chặt cửa thành để đề phòng sự xâm nhập của kẻ thù. Mỗi ngôi nhà đều có mái bằng. Người ta đi lên cầu thang ở bên hông nhà để lên mái nhà. Có những ngôi nhà được xây trên tường thành trông rất ngộ nghĩnh và trở thành một phần của tường thành. Người dân thời đó thích dùng vải gai để may quần áo. Gai là một loại cây, sau khi tuốt sợi ra khỏi vỏ người ta dệt thành vải, những cọng gai còn lại thì phủ lên mái nhà”…

Giáo viên hướng dẫn các em làm mô hình sông Giô-đanh và thành Giê-ri-cô (xem hình).

Sông Giô-đanh

 

Thành Giê-ri-cô

 

– Bản câu hỏi: Viết ba câu hỏi lên một tờ giấy (xem hình).

Hướng dẫn các em làm mô hình “Thành Giê-ri-cô”“Sông Giô-đanh”. Chỉ làm một nửa, phần còn lại để tuần sau hoàn thành. Dùng bản câu hỏi để hỏi các em.

Giúp cho các em chú ý và ghi nhớ bằng cách nêu những câu hỏi để các em trả lời: “Thử hình dung thành Giê-ri-cô. Nhà của dân Giê-ri-cô ra sao? Có một số nhà được xây dựng ở đâu? Những sợi gai được phơi ở đâu? Sợi gai là gì? Người ta dùng sợi gai để làm gì?”

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị thị trợ: Kinh Thánh, hình vẽ trong phần phụ lục, con rối, bút chì: Ra-háp và hai thám tử trong phần phụ lục, 1 sợi chỉ đỏ dài 20cm).

  1. Vào đề.

Qua phần Sinh hoạt đầu giờ, các em đã hiểu sơ qua về sông Giô-đanh, thành Giê-ri-cô và vải gai. Các em biết lúc ấy dân Y-sơ-ra-ên đang sống ở nơi nào không? (Bày mô hình thành cổ ra, cho các em chỉ nơi dân Y-sơ-ra-ên đóng trại). Muốn chiếm được đất hứa, dân Y-sơ-ra-ên phải vượt qua nhiều khó khăn. Bây giờ các em cùng xem Giô-suê lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên như thế nào nhé.

  1. Bài học.

Sau khi nhận nhiệm vụ lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên, Giô-suê vâng theo mọi điều Đức Chúa Trời chỉ dạy. Một hôm, Đức Chúa Trời bảo Giô-suê: “Hãy đưa dân Y-sơ-ra-ên qua sông Giô-đanh đến miền đất mà Ta hứa ban cho các ngươi”. Nhưng khi vượt qua sông, họ sẽ đối diện với nhiều kẻ thù. Đầu tiên là dân Giê-ri-cô. Đây là một thành phố kiên cố với tường thành bao bọc chung quanh, có lính canh gác suốt ngày đêm (H.1).

Trước khi vượt sông, Giô-suê muốn biết tình hình trong thành Giê-ri-cô như thế nào? Ông chọn hai người trong số những phụ tá của mình để làm nhiệm vụ quan trọng nầy. Chúng ta hãy gọi hai người nầy là thám tử. Họ phải can đảm vào thành Giê-ri-cô, xem xét tình hình và nắm thông tin về mọi mặt của thành nầy. Công việc của họ phải hết sức bí mật, khéo léo và thận trọng để không bị phát giác.

Hai người được chọn vâng lệnh Giô-suê, thu xếp hành trang, chuẩn bị lương thực, rồi vượt qua sông Giô-đanh, lặng lẽ tiến vào thành Giê-ri-cô (Cho các em xem mô hình, chỉ rõ vị trí của sông Giô-đanh và thành Giê-ri-cô). Mọi việc đều tốt đẹp. Hai thám tử đã vào trong thành an toàn và bắt đầu dò xét tình hình. Họ nắm được nhiều điều cần thiết mà ông Giô-suê mong đợi.

Sau khi xem xét thành Giê-ri-cô xong, hai thám tử đến nhà của một phụ nữ tên Ra-háp. Ngôi nhà của bà được xây dựng trên tường thành (chỉ vị trí ngôi nhà trên mô hình thành cổ).

Có người trông thấy hai thám tử Y-sơ-ra-ên vào nhà Ra-háp, liền báo cho vua Giê-ri-cô hay. Vua  sai lính đến nhà Ra-háp hỏi: “Đưa hai người mới đến nhà ngươi ra đây mau. Bọn chúng là thám tử đến để thăm dò, tìm hiểu những bí mật của chúng ta đấy”. Raháp trả lời: “Họ có đến, nhưng đã đi trước khi cổng thành đóng lại vào ban đêm”. Quân lính không tìm thấy hai thám tử trong nhà Ra-háp, bởi vì Đức Chúa Trời đã che chở, bảo vệ họ.

Các em biết không, Ra-háp đã giấu các thám tử dưới đống cây gai trên mái nhà (đưa con rối Ra-háp và hai thám tử ra). Quân lính tưởng rằng hai thám tử đã đi khỏi nhà trước khi trời tối như lời Ra-háp nói. Đoán là các thám tử đã thoát ra ngoài nên họ vội rời khỏi thành, nhắm hướng ngoại ô mà truy đuổi.

Nhưng hai thám tử lại phải đối mặt với một khó khăn khác, đó là cửa thành đã đóng chặt, làm thế nào ra ngoài mà không bị phát hiện? Đức Chúa Trời đã mở đường cho họ. Ra-háp leo lên mái nhà, báo cho hai thám tử biết họ có thể rời khỏi chỗ nấp. Ra-háp nói với họ: “Tôi muốn cứu các ông bởi vì tôi biết chắc Đức Chúa Trời đã ban vùng đất nầy cho các ông. Tôi cũng có nghe nói Đức Chúa Trời đã làm những việc kỳ diệu cho các ông. Đức Chúa Trời mà các ông tin là Đức Chúa Trời thật, là Chúa của trời đất”.

Hai thám tử vui mừng vì Ra-háp đã tin nơi Đức Chúa Trời chân thật. Bà Ra-háp nói tiếp: “Bây giờ tôi xin các ông một điều, tôi đã đối đãi tử tế với các ông thì xin các ông cũng đối đãi nhân từ lại với tôi và người nhà của tôi khi các ông chiếm thành nầy. Xin cứu chúng tôi, cho chúng tôi được sống bình yên”.

Các thám tử nói với Ra-háp: “Bà hãy cột sợi chỉ đỏ nơi cửa sổ để làm dấu hiệu. Khi chúng tôi đánh lấy thành, bà và những người trong gia đình phải ở trong nhà của mình. Nếu bà làm đúng như vậy, và không tiết lộ việc chúng tôi đã đến đây thì bà và gia đình sẽ được an toàn”.

Sau đó Ra-háp tìm một sợi dây thừng rồi dòng hai thám tử xuống dọc theo tường thành. Vừa xuống đến mặt đất, họ lập tức  trốn lên núi ba ngày rồi mới vượt sông Giô-đanh trở về. Hai thám tử báo cáo cho Giô-suê biết mọi chi tiết. Họ nói: “Quả thật, Đức Chúa Trời đã phó cả xứ vào tay chúng ta; và lại, hết thảy dân của xứ đều sờn lòng trước mặt chúng ta” (Giô-suê 2:24).

Hai thám tử thật là dũng cảm. Nhờ sự bảo vệ và giúp đỡ của Đức Chúa Trời, cuối cùng họ đã hoàn thành công tác mà Giô-suê giao, một công tác đầy khó khăn và nguy hiểm.

  1. Áp dụng.

Dùng câu hỏi đơn giản để giúp các em ôn lại điểm chính của câu chuyện. Rồi viết lên bảng hai từ “can đảm” “sợ hãi”, hỏi các em: “Ý nghĩa của can đảm và sợ hãi là gì?” Sau đó dạy các em học thuộc câu gốc.

Nói với các em: Trong đời sống thường ngày, có nhiều việc chúng ta cần dũng cảm mới có thể thực hiện được. Có những việc nên hoặc không nên làm. Mời các em xem hình “Em sợ điều gì? Em không sợ điều gì?” Rồi cùng thảo luận với các em. Trước tiên là hình 1: “Bạn trai trong hình muốn bạn mình làm điều gì? Kinh Thánh có dạy chúng ta trộm cắp không?” (Không).“Trong trường hợp nầy, em cần Đức Chúa Trời ban cho em lòng can đảm để làm gì? Nếu em không chịu hợp tác với bạn ăn cắp thì bạn ấy sẽ đối xử với em như thế nào? Câu Kinh Thánh nào giúp em?” (Các em đọc câu gốc).“Ai sẽ cho chúng ta lòng can đảm?” (Đức Chúa Trời).

Sau đó cho các em xem hình 2: “Vì sao bạn gái nầy sợ về nhà gặp mẹ?” (Các em so sánh với kinh nghiệm bản thân để trả lời).“Nếu bạn đó làm điều sai, bạn ấy cần ai giúp đỡ để về nhận lỗi cùng mẹ?” (Đức Chúa Trời).“Đức Chúa Trời ban cho em điều gì?” (Lòng can đảm).“Câu Kinh Thánh nào giúp em?” (Các em đọc câu gốc).“Chúng ta cần Đức Chúa Trời ban cho lòng can đảm để làm gì?” (Cho các em lần lượt trả lời.) Sau cùng, hướng dẫn các em cầu nguyện, xin Chúa ban cho các em lòng can đảm để làm điều phải, đúng như Lời Chúa dạy.

VI. PHỤ LỤC.

–  Vẽ hình phụ trợ và làm con rối.

  1. Vật liệu: Giấy dày trắng, bút màu, bút chì, kéo và băng keo.
  2. Cách làm:

     a. Nhà ở của người Y-sơ-ra-ên sau khi vào thành Giê-ri-cô: Vẽ theo mẫu hình 1 sau đó tô màu.

Hình 1. Thành Giê-ri-cô

 

     b. Con rối Raháp và hai thám tử: Vẽ ra giấy hình bà Raháp và hai thám tử theo mẫu hình 2 và 3. Dùng băng keo gắn bút chì vào mặt sau của con rối (xem hình).

Hình 2. Ra-háp

 

 

Hình 3. Hai thám tử

 

 

 

 

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) –QUÝ 1/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) –QUÝ 1/2024

in NHI ĐỒNG on 8 Tháng Tám, 2024

BÀI 6. CHÚA MUỐN EM VÂNG LỜI

 

I. KINH THÁNH: Giô-suê 1:1-18.

II. CÂU GỐC: “Hỡi kẻ làm con cái, hãy vâng phục cha mẹ mình trong Chúa” (Ê-phê-sô 6:1).

III. BÀI TẬP.

  1. CÙNG VÂNG LỜI.

Giô-suê vâng lời Đức Chúa Trời, truyền lệnh cho dân sự. Dân sự hứa sẽ vâng lời ông. Em hãy điền những lời Giô-suê nói và dân sự trả lời vào hình dưới đây.

Giô-suê hướng dẫn dân chúng làm theo lời Chúa.

  1. XEM HÌNH VÀ TRẢ LỜI.

   Trong Kinh Thánh, Đức Chúa Trời dạy chúng ta phải vâng lời cha mẹ và những người hướng dẫn chúng ta.

  Em hãy xem hình vẽ bên cạnh. Họ là ai? Họ yêu cầu em làm gì? Em viết câu trả lời vào những hàng kẽ.

 

C. EM PHẢI VÂNG PHỤC AI?

Ai đã hướng dẫn em làm theo Lời Chúa? Em vẽ hình người mà em vâng phục và viết tên họ vào những ô trống dưới đây.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tên:_________________

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tên:_________________

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tên:_________________

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Tên:_________________

 

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) –QUÝ 1/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) –QUÝ 1/2024

in NHI ĐỒNG on 8 Tháng Tám, 2024

BÀI 6. CHÚA MUỐN EM VÂNG LỜI

 

I. KINH THÁNH: Giô-suê 1:1- 18.

II. CÂU GỐC: “Hỡi kẻ làm con cái, hãy vâng phục cha mẹ mình trong Chúa” (Ê-phê-sô 6:1).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Đức Chúa Trời lập Giô-suê lên lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên. Dân Y-sơ-ra-ên hứa vâng lời ông.

– Cảm nhận: Chúa đẹp lòng khi các em biết vâng lời.

– Hành động: Kính yêu và tuân theo lời dạy của Đức Chúa Trời, vâng lời cha mẹ cùng thầy cô.

IV. PHẦN SUY GẪM CỦA GIÁO VIÊN.

Sau khi Môi-se qua đời, Đức Chúa Trời chọn Giô-suê, một trong những phụ tá của Môi-se lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên. Đối với Giô-suê, đây là một trọng trách hết sức nặng nề. Bởi ông cảm thấy mình không vĩ đại như Môi-se, người mà ông vô cùng yêu mến và khâm phục. Nhưng Đức Chúa Trời hứa ở cùng ông, Đức Chúa Trời khích lệ ông, các quan trưởng cũng hứa sẽ vâng theo mệnh lệnh của ông. Giô-suê từ địa vị làm người trợ lý cho Môi-se, trở thành người tiếp tục công tác lãnh đạo của Môi-se – vâng phục Đức Chúa Trời.

Vâng phục Đức Chúa Trời là một bài học thuộc linh mà mỗi một người lãnh đạo thuộc linh đều phải học biết. Trước hết, bạn phải làm một người con biết vâng lời Chúa. Sau đó mới có thể dạy dỗ các em trở thành những con người biết vâng lời.

Là người hướng dẫn, bạn nên quan sát hành vi của các em, cả các em ngoan cũng như chưa ngoan. Tìm hiểu hoàn cảnh gia đình của các em, nhờ cậy Lời Chúa để sửa đổi các em. Giúp các em biết sống vâng lời, đẹp lòng Đức Chúa Trời.

V. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HỌAT ĐẦU GIỜ.

  *Vâng theo mệnh lệnh.

  1. Mục đích: Cùng thảo luận với các em về sự vâng lời.
  2. Vật liệu: Bài 6 sách Học viên, viết.
  3. Thực hiện: Cho các em mở sách học viên bài 6, quan sát các nhân vật trong hình: Ba mẹ, người điều khiển giao thông, cảnh sát. Rồi suy nghĩ xem những người nầy yêu cầu các em phải vâng theo những điều gì và điền vào chỗ trống.

Sau khi hoàn tất, các em lần lượt đọc bài viết của mình và cho biết em có vâng theo ý họ không?

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị thị cụ: Kinh Thánh, sách học viên, bảng đen, phấn viết).

  1. Vào đề.

Trong gia đình, ở trường học hoặc trong nhà thờ, ai có quyền quản lý các em? Những người đó có quyền như thế nào? (Cho các em trả lời). Các em biết không, dù là những người đã trưởng thành nhưng khi sống và làm việc cũng phải vâng phục những người lãnh đạo họ (đưa ra vài ví dụ cụ thể). Thật ra, người lãnh đạo, người quản lý chúng ta là do Chúa sắp đặt, để chúng ta có thể sống trong một môi trường trật tự và an toàn. Vì vậy, Chúa dạy chúng ta: “Hãy vâng lời kẻ dẫn dắt anh em…” (Hê-bơ-rơ 13:17).

Ngày xưa Đức Chúa Trời chọn Môi-se dẫn dắt dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập. Đây thật là một công việc vĩ đại! Vì thế Môi-se cần có người phụ giúp. Trong số những người phụ giúp đó có Giô-suê. Sau khi Môi-se qua đời, các em có biết ai là người lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên không? Bài học nầy sẽ cho các em biết điều đó.

  1. Bài học.

Đức Chúa Trời chọn Giô-suê làm vị lãnh tụ mới của dân Y-sơ-ra-ên. Ngài nói với ông: “Bây giờ Môi-se qua đời rồi, con hãy dẫn dắt dân Ta vào miền đất mà Ta đã hứa ban cho họ”. Các em thử đoán xem ông Giô-suê tiếp nhận điều nầy như thế nào? Ông có suy nghĩ gì? (Cho các em trả lời.) Chắc chắn Giô-suê nhớ lại đoạn đường đã qua trong đồng vắng. Lúc ấy, dân Y-sơ-ra-ên thường oán trách Môi-se, bất bình về nhiều việc (vẽ lên bảng hình bên cạnh). Trong thời gian Môi-se dẫn dắt họ, có vô số những khó khăn, nguy hiểm. Vì thế Giô-suê lo rằng mình cũng sẽ gặp những khó khăn như vậy. Liệu dân Y-sơ-ra-ên có tuân theo luật pháp của Đức Chúa Trời không? Làm sao thay đổi được những ý nghĩ không đúng của họ? Ngoài ra còn có quân thù ở bốn phía, phải dẹp yên bọn chúng trước khi tiến vào đất hứa.

Sau khi suy nghĩ đến vô số những khó khăn, chắc chắn lòng Giô-suê cảm thấy lo sợ (hình bên cạnh). Nhưng Đức Chúa Trời hiểu tất cả, Ngài phán: “Ta sẽ ở cùng ngươi như Ta ở cùng Môi-se; Ta sẽ không lìa ngươi, không bỏ ngươi đâu… Hãy vững lòng bền chí, chớ run sợ, chớ kinh khiếp, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi vẫn ở cùng ngươi trong mọi nơi ngươi đi”.

Sau đó, Đức Chúa Trời dạy Giô-suê cách để trở thành một lãnh đạo tốt. Ngài nói: “Ngươi phải đọc Lời Ta mỗi ngày, suy gẫm trong lòng và làm theo lời Ta dạy bảo”. Giô-suê học Lời Đức Chúa Trời và làm theo Lời Ngài. Do đó, ông đã trở thành một lãnh đạo gương mẫu của dân Y-sơ-ra-ên.

Ông Giô-suê tin Đức Chúa Trời ở cùng mình như Lời Ngài đã hứa. Và ông cũng vui lòng vâng theo tất cả mệnh lệnh của Chúa. Giô-suê tập họp các quan trưởng của dân sự lại rồi kể cho họ nghe những điều mà Đức Chúa Trời đã phán dạy. Sau đó các vị nầy dạy lại cho toàn dân Y-sơ-ra-ên những điều đó…

Giô-suê truyền lịnh: “Hãy bảo mọi người chuẩn bị lên đường. Trong ba ngày nữa chúng ta sẽ qua sông Giô-đanh, tiến vào xứ mà Đức Chúa Trời hứa ban cho chúng ta”. Các quan trưởng khẳng định rằng:“Chúng tôi sẽ làm mọi điều ông dặn và đi khắp nơi nào ông sai, chúng tôi sẽ vâng lời ông như đã vâng theo Môi-se. Cầu xin Chúa ở cùng ông như Ngài đã ở cùng Môi-se vậy”. (Cho các em viết những lời này vào chỗ trống trong hình của phần A, bài 5 sách học viên).

  1. Áp dụng.

Đức Chúa Trời lập Giô-suê làm người hướng dẫn dân Y-sơ-ra-ên. Hiện nay Ngài lập ai hướng dẫn các em? Kinh Thánh chép: “Hỡi kẻ làm con cái, hãy vâng phục cha mẹ mình trong Chúa” (Ê-phê-sô 6:1). Câu Kinh Thánh nầy bảo chúng ta vâng phục ai? (Cha mẹ). Mỗi người dân đều phải vâng phục chính quyền (Rô-ma 13:1). Cho các em kể ra chức vụ của những người lãnh đạo quận, xã, trường học, Hội Thánh…

Cho các em mở sách học viên xem hình những người lãnh đạo. Họ được giao cho quyền hành để dạy dỗ, hướng dẫn chúng ta. Dù các em đi đến khu vui chơi, trường học hay là ở trong gia đình hoặc Hội Thánh, cũng đều có những người cai quản. Đức Chúa Trời muốn chúng ta vâng phục người có trách nhiệm quản lý những nơi đó.

Hướng dẫn các em làm bài tập trong phần“Em phải vâng phục ai?” Vẽ những nhân vật mà em phải vâng phục và ghi chức vụ của họ.

Sau cùng dành thì giờ cầu nguyện. Hướng dẫn các em cảm tạ Đức Chúa Trời đã ban cho các em có cha mẹ, thầy cô, và các vị lãnh đạo. Khuyến khích các em cầu xin Đức Chúa Trời giúp các em biết vâng phục cha mẹ, thầy cô và các vị lãnh đạo.

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp THIẾU NHI (9-12 TUỔI) – QUÝ 3/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp THIẾU NHI (9-12 TUỔI) – QUÝ 3/2024

in NHI ĐỒNG on 28 Tháng Năm, 2024

BÀI 5. NHỊN NHỤC

I. KINH THÁNH: Ga-la-ti 5:23, (tham khảo Ê-phê-sô 4:2; Cô-lô-se 3:12-13; 1Phi-e-rơ 2:23).

II. CÂU GỐC: Nếu một người trong anh em có điều gì phàn nàn với người khác thì hãy nhường nhịn nhau và tha thứ nhau; như Chúa đã tha thứ anh em thể nào thì anh em cũng phải tha thứ thể ấy.” (Cô-lô-se 3:13a).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Nhịn nhục là phản ứng tin kính của một người yêu mến Chúa khi gặp sự đối xử không tốt của người khác.

– Cảm nhận: Một đời sống có tình yêu thương thì mới có thể nhịn nhục được.

– Hành động: Nhịn nhục mọi người.

IV. GIÁO VIÊN SUY GẪM.

   “Nhịn nhục” là bản tánh của Đức Chúa Trời và cũng là một trong những đặc tính của trái Thánh Linh, là đức tính tốt đẹp mà mỗi Cơ đốc nhân nên có. Vì sao Cơ đốc nhân phải nhịn nhục với mọi người? Vì Chúa đã tha thứ cho chúng ta, hay nói cách khác là Chúa đã nhịn nhục chúng ta, thì chúng ta cũng phải nhịn nhục người khác (Cô-lô-se 3:12-13).

   “Lòng thương xót, nhân từ, khiêm nhường, mềm mại, nhịn nhục” là những đức tính tốt đẹp, liên quan đến cách sống của Cơ đốc nhân đối với mọi người xung quanh. Thương xót là tâm hồn luôn thấu cảm trước hoàn cảnh của người khác, sẵn lòng giúp đỡ người gặp khó khăn. Nhân từ là tấm lòng thật sự mong muốn người khác gặp may mắn, sống vui vẻ hạnh phúc. Khiêm nhường là cách nhìn đối với bản thân, không xem mình hơn người khác, không khoe khoang những gì mình có, mình đạt được. Khiêm nhu là biết nghĩ đến tâm tư tình cảm của người khác, biết lắng nghe, biết uyển chuyển giải quyết vấn đề, chứ không khư khư ôm giữ quan điểm hoặc ý kiến của mình. Nhịn nhục là không giận dữ, không trả thù, sẵn lòng chịu đựng người khác.

   Có học giả cho rằng từ nhịn nhục trong Kinh Thánh Tân ước có nhiều ý nghĩa khác nhau. Nó mô tả một phản ứng kỉnh kiền. Ở một vài đoạn Kinh Thánh, từ nhịn nhục chỉ về sự chờ đợi lâu dài, như người nông dân chờ đợi thu hoạch vậy. Ví dụ: Khi chúng ta cầu nguyện với Đức Chúa Trời, không phải lúc nào Đức Chúa Trời cũng nhậm lời cầu nguyện của chúng ta ngay. Đôi lúc chúng ta phải chờ đợi. Đó là sự nhịn nhục.

   Chúng ta có thể tập luyện sự nhịn nhục như thế nào? Bài học nầy sẽ giúp đỡ các em thiếu nhi hiểu rõ 2 điểm sau:

  1. Chịu đựng sai lầm hoặc khuyết điểm của người khác.

   Sự kiêu ngạo hay tính ích kỷ không muốn chịu đựng người khác, nhưng tình yêu thương thì “dung chịu nhau” (Ê-phê-sô 4:2).

  1. Chịu đựng sự đối xử tệ hại của người khác.

   Khi gặp sự đối xử tệ hại của người khác, chúng ta thường có phản ứng tức giận. “Khi bị nguyền rủa, Ngài không nguyền rủa lại; lúc chịu đau khổ, Ngài không hề hăm dọa, nhưng phó thác chính mình cho Đấng phán xét công minh.” (1Phi-e-rơ 2:23). Để bồi dưỡng phẩm chất tốt đẹp nầy, tốt nhất là chúng ta luôn nghĩ đến sự nhẫn nại và khoan dung của Đức Chúa Trời đối với chúng ta. Trong Ma-thi-ơ 18:21-35 Chúa Jêsus kể: “Có một người đầy tớ mắc nợ chủ 10 ngàn nén bạc, không có khả năng chi trả. Chủ xét thấy hoàn cảnh đáng thương nên đã quyết định xoá nợ cho anh ta. Trên đường trở về nhà, anh ta gặp một người bạn mắc nợ mình chỉ có 100 đơ-ni-ê (trị giá một ngày công), thì nắm cổ đòi nợ, dọa tống giam vào tù, dù người bạn đã van xin. Người chủ nghe được hành động gian ác của anh ta, nên thu hồi ân điển đã ban”.

    Đức Chúa Trời chính là người chủ, chúng ta là người đầy tớ được hưởng ân điển. Đức Chúa Trời muốn chúng ta đối xử yêu thương, nhân từ, nhịn nhục như cách chúng ta đã nhận được từ Ngài.

V. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

  1. Chuẩn bị: Vài tờ tạp chí cũ, kéo, hồ, Kinh Thánh.

     2. Thực hiện: Chia các em làm hai nhóm để thi đua, và phát cho mỗi nhóm vài tờ tạp chí, kéo. Cho các em thực hiện bài tập phần 1 (chỉ làm phần điền từ). Sau khi đọc Kinh Thánh trong 1 phút (khi thực hiện thì không xem Kinh Thánh), các em sẽ cắt từ trong báo ra những chữ cần thiết để dán vào chỗ trống sao cho thích hợp. Nhóm nào thực hiện trước và chính xác thì nhóm đó thắng.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

  1. Vào đề.

   Các em thân mến! Kinh Thánh dạy chúng ta cần phải có những phẩm chất tốt. Các em mở Cô-lô-se 3:12-13 và tìm xem Kinh Thánh dạy chúng ta phải có những phẩm chất gì? (Thương xót, nhân từ, khiêm nhường, mềm mại, nhịn nhục).

    Lòng thương xót là tấm lòng dễ dàng thông cảm với người khác, nhạy cảm trước những người nghèo khổ đáng thương. Lòng thương xót khiến người đó sẵn sàng từ bỏ quyền lợi của mình để giúp đỡ người gặp khó khăn.

   Lòng nhân từ là tấm lòng thật sự mong muốn người khác gặp may mắn, sống vui vẻ hạnh phúc.

   Lòng khiêm nhường là không xem mình hơn người khác, không khoe khoang những gì mình có, mình đạt được.

   Lòng khiêm nhu là biết nghĩ đến tâm tư tình cảm của người khác, biết lắng nghe người khác nói, biết sửa đổi chứ không khư khư ôm giữ ý kiến của mình.

   Lòng nhịn nhục là không giận dữ, không trả thù trước những điều khó chịu mà người khác gây ra, sẵn lòng chịu đựng người khác.

   Các em biết không, 5 tấm lòng nầy nằm trong những “hương vị” của trái Thánh Linh. Bài học hôm nay chúng ta sẽ nói đến 1 trong những hương vị nầy. Đó là sự nhịn nhục.

  1. Bài học.

   (Giáo viên cắt hai trái tim lớn bằng giấy bìa cứng đục lỗ và treo trên bảng. Ghi vào trái tim thứ nhất: “Khuyết điểm của người khác”. Trái tim thứ hai: “Đối xử không tốt của người khác”. Cắt hai tờ giấy khác ghi: “Lòng yêu thương khoan dung”, “Suy nghĩ đến sự tha thứ của Chúa”. Dán băng keo hai mặt vào mặt sau của hai tờ giấy nầy. Chú ý: Viết chữ lớn và đậm để các em ở dưới có thể nhìn thấy).

   Các em có thể nhắc lại xem, thế nào là nhịn nhục? (Cho các em trả lời).

   Chúng ta rất khó nhịn nhục, nhưng nhờ Chúa, chúng ta vẫn có thể làm được. Chúng ta cùng nhau phân tích hai điều sau, xem làm thế nào để có thể có đức tính tốt đẹp nầy nhé!

     a. Thứ nhất: Chịu đựng khuyết điểm hoặc sai lầm của người khác. (Giáo viên đụng mạnh vào trái tim có ghi chữ “Khuyết điểm của người khác”để nó đung đưa).

  Sai lầm của người khác khiến chúng ta bị ảnh hưởng, và khuyết điểm của người khác khiến chúng ta cảm thấy khó chịu. (Cho các em nêu ra một vài ví dụ mà các em thường gặp trong gia đình, trong lớp học. Ví dụ: Một bạn trong lớp luôn đi học trễ, bạn thân của em rất hay quên, em gái em không lễ phép, anh trai em không gọn gàng sạch sẽ…). Đối diện với những người nầy, Kinh Thánh dạy các em phải dùng tình yêu thương để “dung chịu nhau”. (Dán miếng giấy có ghi chữ “Lòng yêu thương khoan dung” chồng lên chữ “Khuyết điểm của người khác” trong hình trái tim).

     b. Thứ hai: Chịu đựng sự đối xử không tốt của người khác.

   (Giáo viên đụng mạnh vào trái tim có ghi chữ “Đối xử không tốt của người khác” để nó đung đưa).

   Các em đã từng bị ai đối xử không tốt chưa? (Khuyến khích các em nói ra. Ví dụ: Chế giễu, khinh thường, chỉ trích, đổ lỗi cho em, không công bằng, cô lập em, la mắng em…). Khi bị đối xử như vậy, các em thường phản ứng như thế nào? (Cho các em trả lời) Thường thì chúng ta nổi giận, chống lại, bênh vực mình…Đối diện với những người nầy, các em phải nghĩ đến tình yêu thương, sự khoan dung, tha thứ của Đức Chúa Trời đối với các em. (Dán miếng giấy có ghi chữ “Suy nghĩ đến sự tha thứ của Chúa” chồng lên chữ “Đối xử không tốt của người khác” trong hình trái tim).

   Hãy suy nghĩ lại xem, các em đã đối xử tệ với Chúa bao nhiêu lần? Không thể đếm hết được, nhưng Chúa luôn luôn tha thứ và kiên nhẫn chịu đựng các em. Khi Chúa Jêsus còn ở thế gian, Ngài từng bị dân chúng ném đá, vu khống, đuổi ra khỏi làng của họ…nhưng Chúa Jêsus không hề tức giận, không trả thù, cũng không bênh vực mình. Ngài khoan dung và tha thứ cho những người đã đối xử không tốt với Ngài. Chúa Jêsus muốn các em học tập Ngài, tha thứ cho những người đã đối xử không tốt với các em.

   Các em thân mến! Nếu các em làm được những điều trên, thì đời sống của các em đã kết trái Thánh Linh. Nên nhớ, các em không thể tự mình làm được điều đó, cần phải nhờ cậy Đức Thánh Linh, chịu sự dạy dỗ của Ngài, và rèn tập mỗi ngày.

  1. Ứng dụng.a

     a. Đức Chúa Trời luôn khoan dung, nhịn nhục em.

   Hướng dẫn các em làm bài tập phần 3. Bài tập nầy cốt để các em có thời gian suy nghĩ một cách thấu đáo và cụ thể về sự nhịn nhục của Chúa đối với các em. Mục đích là để các em có cơ sở để nhịn nhục người khác. Trước hết, giáo viên hướng dẫn các em thảo luận: Trong đời sống hàng ngày, hành vi, ý tưởng nào không đẹp lòng Đức Chúa Trời? Từ đó suy ra đã không biết bao nhiêu lần các em phạm tội với Chúa. Sau đó, mới cho các em tính“ Con số của em”.

     b. Chúa đã tha thứ cho các em, thì các em phải tha thứ cho người khác.

   Giáo viên cho các em diễn ngắn câu chuyện trong Ma-thi-ơ 18:21-35. Sau đó, cho các em tìm xem người chủ trong câu chuyện chỉ về ai? Người đầy tớ được thương xót chỉ về ai? Người mắc nợ 100 đơ-ni-ê chỉ về ai? Sau đó kết luận: Chúa đã xoá cho các em một món nợ “tội lỗi” khổng lồ, thì các em cũng phải xoá những lỗi lầm hoặc khuyết điểm của người khác.

     c. Cho các em đọc câu gốc và cầu nguyện.

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐÔNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 3/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐÔNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 3/2024

in NHI ĐỒNG on 28 Tháng Năm, 2024

BÀI 5. GIÔ-SÉP VÀ CÁC ANH

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 37:1-35.

II. CÂU GỐC: “Kìa, anh em ăn ở hòa thuận nhau thật tốt đẹp biết bao!” (Thi Thiên 133:1).

III. BÀI TẬP.

A. CÙNG SUY NGHĨ.

* Em xem hình và trả lời các câu hỏi sau.

  1. Khi Giô-sép được cha cho chiếc áo nhiều màu, các anh của chàng đã có thái độ như thế nào?

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

  1. Thái độ đó đã làm cho các anh Giô-sép có những hành động gì?

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

  1. Nếu các anh Giô-sép có lòng yêu thương và nhân ái, thì mọi việc sẽ trở nên thế nào?

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

B. EM CÓ THỂ LÀM VIỆC GÌ CHO HỌ?

* Em có thể viết hoặc vẽ hình việc mà em có thể làm cho những người em yêu mến dưới đây.

__________________(Họ và tên của em).

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐÔNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 3/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐÔNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 3/2024

in NHI ĐỒNG on 28 Tháng Năm, 2024

BÀI 5. GIÔ-SÉP VÀ CÁC ANH

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 37:1-35.

II. CÂU GỐC: “Kìa, anh em ăn ở hòa thuận nhau thật tốt đẹp biết bao!” (Thi Thiên 133:1).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Giô-sép bị các anh ganh ghét, đối xử không tốt.

– Cảm nhận: Lòng ghen ghét phát sinh những điều xấu. Chúa muốn các em sống yêu thương, hòa thuận với mọi người.

– Hành động: Cầu xin Chúa giúp đỡ em sống yêu thương, hòa thuận với mọi người.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

     * Con Rối Cây.

  1. Mục đích: Giúp các em nhận biết Giô-sép và các anh em của Giô-sép.
  2. Vật liệu: Giấy bìa, viết chì, kéo, keo, viết màu.
  3. Thực hiện: Làm theo hướng dẫn ở phần phụ lục ”CON RỐI HÌNH CÂY” trong tập học viên.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH:

Chuẩn bị thị cụ các con rối dán trên thanh tre đã làm trong phần “Vui Mà Học”.

  1. Vào đề.

 (Vừa kể, vừa giơ con rối lên). Trong số các em, ai là con một trong gia đình? Có em nào chỉ có một anh chị em không? Ai có hai anh em? (Tiếp tục hỏi, số anh chị em cứ tăng dần lên cho đến khi không còn em nào). Có em rất ít anh em, nhưng cũng có em rất đông anh chị em. Hôm nay các em sẽ được biết một gia đình có rất đông anh em.

Gia-cốp là cha trong gia đình. Ông có mười hai con trai. Ông rất giàu, có nhiều chiên, dê, bò, lừa… Các con của ông cùng phụ giúp chăm sóc chúng. Họ sống hòa thuận, vui vẻ bên nhau. Nhưng rồi một việc đã xảy ra khiến họ sanh lòng ghen ghét.

Mười người anh không ưa Giô-sép, vì cha may cho Giô-sép một chiếc áo dài nhiều màu rất đẹp. Giô-sép mặc chiếc áo đó thì khỏi phải ra đồng làm việc. Các anh của Giô-sép hết sức tức giận vì chỉ có mình Giô-sép có chiếc áo như thế.

Một hôm, các anh của Giô-sép dắt bầy gia súc đến đồng cỏ ở Si-chem. Gia-cốp bảo Giô-sép: “Các anh con đang chăn bầy tại Si-chem phải không? Con đi thăm xem các anh con và bầy chiên ra sao rồi về cho ba biết”.

Giô-sép vâng lời cha, đi tìm các anh. Giô-sép mặc chiếc áo đẹp mà cha cho và đem theo thức ăn cho các anh. Vừa đi Giô-sép vừa nghĩ, chắc thấy mình đem nhiều thức ăn ngon như thế nầy các anh sẽ vui vẻ với mình lắm.

Khi đến Si-chem, Giô-sép tìm mãi nhưng không thấy các anh và bầy chiên đâu cả. Có một người gặp Giô-sép đi lạc nên hỏi: “Cậu tìm ai?” Giô-sép đáp rằng: “Tôi tìm các anh tôi. Họ chăn chiên ở đây mà sao không thấy. Ông có gặp họ không?” “À có, nhưng họ dẫn chiên đi nơi khác rồi, tôi nghe họ nói đi đến Đô-ta-in”.

Đô-ta-in! Như vậy Giô-sép còn phải đi rất xa mới đến đó. Khi đi đến gần sườn núi Đô-ta-in, Giô-sép thấy các anh và đàn chiên ở đằng xa. Các anh cũng nhận ra Giô-sép ngay vì chiếc áo dài nhiều màu cậu đang mặc. Một người trong các anh nói: “Cái thằng nằm mơ đến kìa! Nó đến xem chúng ta đang làm gì rồi về méc với cha đấy”. Các anh đều nhìn Giô-sép cách ghen ghét. Một người khác lại nói: “Chúng ta hãy giết nó đi, quăng xuống hố sâu, rồi nói với ba là nó bị thú dữ ăn thịt rồi”.

Nhưng Ru-bên can: “Đừng giết nó! Chỉ quăng xuống hố là nó không thể nào sống nổi”. Khi Giô-sép vừa đến nơi, các anh túm lấy Giô-sép, lột chiếc áo nhiều màu ra, rồi quăng Giô-sép xuống hố. Giô-sép kêu la, khóc lóc xin các anh cứu mình nhưng họ không thèm nghe và bỏ đi. Giô-sép rất sợ hãi, vì không biết sẽ còn những gì xảy đến với mình nữa?!! Giô-sép chỉ mong được bình an trở về với cha.

Các anh ngồi lại ăn uống với nhau. Bỗng từ đằng xa, một đoàn lái buôn đi tới. Họ chở hàng hóa trên lưng các con lạc đà để đem đến Ai-cập bán. Khi các lái buôn gần đến, một người anh của Giô-sép đề nghị: “Ồ, sao chúng ta không bán Giô-sép cho đám lái buôn nầy? Họ sẽ đem nó đến Ai-cập bán làm nô lệ. Chúng ta sẽ khỏi nhìn thấy nó nữa”.

Các anh đều đồng ý, họ chạy đến kéo Giô-sép lên khỏi hố và bán với giá hai mươi nén bạc. Xong, đoàn lái buôn tiếp tục lên đường đem Giô-sép sang Ai-cập.

Các anh lấy chiếc áo nhiều màu của Giô-sép nhúng vào máu dê, đem về cho cha xem, và nói: “Chúng con vừa tìm thấy cái áo này. Ba xem có phải là cái áo mà ba đã may cho Giô-sép không?” Gia-cốp cầm chiếc áo khóc lóc thảm thiết: “Đúng là áo của con ta! Nó đã bị thú dữ cắn xé. Ôi! Giô-sép con trai của ta đã chết rồi!” Thấy cha đau buồn các anh xúm lại cố gắng an ủi. Gia-cốp khóc than và để tang cho Giô-sép lâu ngày. Các anh của Giô-sép không ai dám thú nhận với cha việc họ đã làm.

  1. Ứng dụng.

Giáo viên giúp các em ôn lại câu chuyện bằng các câu hỏi trong phần “Cùng suy nghĩ” của sách học viên.

Hướng dẫn các em học câu gốc. Sau đó hỏi: “Các anh của Giô-sép có vâng theo lời Kinh Thánh dạy không? Chúng ta có sống đúng theo câu gốc nầy không? Tại sao?” Khi các em trả lời, hãy viết ngắn gọn ý kiến của các em lên bảng. Nếu các em im lặng, gợi ý cho các em bằng câu hỏi sau đây: “Khi sống hòa thuận với người khác, chúng ta cảm thấy thế nào? Người khác nghĩ như thế nào về chúng ta?” Và kết luận: “Chúa Giê-xu dạy chúng ta phải sống yêu thương, đối xử tốt với người khác. Chúng ta phải yêu kính Chúa và vâng lời Ngài”.

Hướng dẫn các em viết hoặc vẽ hình các việc mà em có thể làm cho người thân, bạn bè, hàng xóm vào tập.

Nhắc nhở các em cầu nguyện cho các công việc mà các em định làm, xin Đức Chúa Trời giúp các em sống hòa thuận với mọi người.

Khuyến khích các em đem tập học viên về cho ba mẹ xem và tham khảo phần “Sinh hoạt gia đình”.

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 2/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 2/2024

in NHI ĐỒNG on 27 Tháng Năm, 2024

BÀI 5. CA NGỢI CHÚA

I. KINH THÁNH: Lu-ca 19:29-40; Ma-thi-ơ 21:1-11.

II. CÂU GỐC: “Hãy hát cho Đức Giê-hô-va một bài ca mới, vì Ngài đã làm các phép mầu.”(Thi Thiên 98:1a).

III. BÀI HỌC.

   Chúa Jêsus cỡi lừa đi vào thành Giê-ru-sa-lem trongtiếng tung hô, ca ngợi của dân chúng. Họ trải áo xuống đường và phất những nhành cây để chào đón Ngài. Dân chúng mừng rỡ hô to: “Chào mừng Vua của chúng ta! Đức Chúa Trời ban cho chúng ta một Vị Vua! Ngài mang đến bình an và vinh hiển!”

IV. CÙNG SUY NGHĨ.

   Xem hình và trả lời các câu hỏi:

  1. Đám đông biểu lộ sự mừng rỡ như thế nào?

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

  1. Đám đông chào đón Chúa Jêsus ra sao?

………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………..

  1. Nếu lúc đó emcó mặt trong số người chào đón Chúa Jêsus, em sẽ nghe những gì? Ngửi thấy điều gì? Nhìn thấy gì? Nói những gì?

………………………………………………………………………………….

………………………………………………………………………………….

 

EM CA NGỢI CHÚA (vẽ hoặc viết ra)

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 2/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 2/2024

in NHI ĐỒNG on 27 Tháng Năm, 2024

BÀI 5. CA NGỢI CHÚA

I. KINH THÁNH: Lu-ca 19:29-40; Ma-thi-ơ 21:1-11.

II. CÂU GỐC: “Hãy hát cho Đức Giê-hô-va một bài ca mới, vì Ngài đã làm các phép mầu.”(Thi Thiên 98:1a).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Chúa Jêsus được mọi người cangợi.

– Cảm nhận: Dân chúng vui mừng can gợi Chúa Jêsus vì Ngài làm nhiều việc kỳ diệu cho họ.

– Hành động: Ca ngợi Chúa Jêsus bằng Thánh ca, làm chứng về những điều kỳ diệu Ngài đã làm và cầu nguyện cảm tạ Ngài.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

*Vui cắt dán.

  1. Mục đích: Giúp các em bày tỏ sự vui mừng vì những điều Chúa Jêsus đã làm cho em.
  2. Vật liệu: Một tờ giấy bìa cứng lớn, những hình ảnh có nét mặt vui vẻ (cắt từ những tạp chí), keo dán, kéo, giấy màu, giấy trắng, viết chì màu.

   Viết giữa tờ giấy bìa dòng chữ lớn: “Chúa Jêsus làm cho các em vui mừng”.

   Khi lên lớp, cho các em đọc to những chữ trên tờ giấy bìa, rồi mỗi em lần lượt chọn một tấm hình vui (hoặc lấy một tờ giấy trắng và vẽ một khuôn mặt vui), dán lên giấy cứng. Sau đó các em cùng nhau dán giấy màu trang trí lên bốn góc tờ giấy cứng tạo thành một khung hình “Vui cắt dán” nhiều màu đẹp mắt.

   Sau khi các em làm xong, mỗi em phải kể ít nhất một việc Chúa Jêsus đã làm cho các em. Giáo viên cùng chia sẻ niềm vui của mình với các em.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị lá kè hoặc các lá cây to bản).

  1. Vào đề.

   Hôm ấy là ngày lễ của người Do Thái, các con đường vào thành Giê-ru-sa-lem đầy ắp những khách từ phương xa đến đền thờ để thờ phượng Đức Chúa Trời. Mọi người đều lộ vẻ hân hoan.

  1. Bài học.

   Bỗng con đường từ Giê-ri-cô đến Giê-ru-sa-lem náo nhiệt hẳn lên. Đám đông vây quanh một nhóm người đang đi, nhóm người đó chính là Chúa Jêsus và môn đồ trên đường đến dự lễ. Đoàn dân đông liền đi theo Ngài.

   Khi họ đến một ngôi làng gần thành Giê-ru-sa-lem, Chúa Jêsus dừng bước, Ngài bảo hai môn đồ: “Bây giờ các con đi vào làng, sẽ thấy một con lừa con chưa từng có ai cỡi, hãy dắt về đây cho Ta. Nếu có người hỏi: “Các anh làm gì vậy? ”thì trả lời rằng: “Chúa cần dùng con lừa nầy”.

   Hai môn đồ liền vâng theo lời Chúa, dù họ không hiểu tại sao Chúa lại cần dùng đến lừa khi họ đã đi gần đến thành Giê-ru-sa-lem.

   Đúng như Lời Chúa phán, họ thấy một con lừa con buộc trước cửa một ngôi nhà bên đường. Họ liền đến mở dây cột lừa. Bỗng có người la lớn: “Các ông làm gì vậy?” Tiếng la tiếp tục: “Tại sao các ông lại mở dây buộc lừa?” Chủ của con lừa ấy đã nhìn thấy họ. Môn đồ đáp: “Chúa cần dùng nó”. Người chủ cho họ dẫn lừa đi. Chắc ông ấy rất vui khi biết Chúa Jêsus sử dụng con lừa của mình.

   Hai môn đồ dắt lừa đến nơi Chúa Jêsus và đoàn dân đông đang đợi. Họ trải áo lên lưng lừa cho Chúa Jêsus ngồi. Khi vào thành Giê-ru-sa-lem, dân chúng trải áo và lá kè cho lừa đi qua, nhiều người phất các nhánh cây đón mừng. Mọi người đều muốn dành vinh dự cao nhất cho Chúa Jêsus vì Ngài đã làm nhiều phép lạ. Họ hy vọng Ngài sẽ làm vua của họ.

   Đoàn dân theo Chúa Jêsus vừa tiến vào thành Giê-ru-sa-lem vừa hoan hô, ca ngợi: “Hoan nghinh vua của chúng ta! Đức Chúa Trời ban cho chúng ta một vị vua! (Cho các em xem hình rồi cầm lá kè hoặc các nhánh cây hát hoặc hô to: “Hô-sa-na! Hô- sa-na!”

   Tin Chúa Jêsus vào thành phố nhanh chóng lan rộng khắp nơi. Dân chúng đều hô to: “Vua của chúng ta đã vàothành! Ngài đem cho chúng ta sự bình an và vinh hiển!” Nhưng có một số người bực tức vì những tiếng tung hô nầy. Họ không tin Chúa Jêsus là Chúa Cứu Thế mà Đức Chúa Trời sai đến. Thế là họ chen đến gần Chúa Jêsus và nói với Ngài rằng: “Xin thầy la rầy các môn đồ và bảo họ im đi”.

   Chúa Jêsus trả lời: “Nếu họ im lặng thì đá cũng sẽ lên tiếng hô to”. Chúa Jêsus là Chúa Cứu Thế do Đức Chúa Trời sai đến, nên Ngài biết những lời tung hô của dân chúng là sự thật.

   Chúa Jêsus cỡi lừa vào thành Giê-ru-sa-lem trong tiếng reo hò ca ngợi của dân chúng. Một số người trong thành lấy làm lạ, họ hỏi: “Người đó là ai? Vì sao được mọi người tung hô như vậy?” Có người trả lời: “Ngài là Jêsus ở Na-xa-rét, là Đấng mà Đức Chúa Trời sai đến!”

   Các em thân mến, Chúa Jêsus thật là Đấng đáng cho chúng ta ca ngợi. Ngày nay các em cũng có thể ca ngợi Ngài bằng cách thuật lại sự vĩ đại, kỳ diệu của Chúa, hát Thánh ca và cảm tạ Ngài.

  1. Ứng dụng.

  Cho các em đọc bài học và sử dụng các câu hỏi trong phần “Cùng suy nghĩ” để giúp các em hiểu nội dung câu chuyện.

  Cho các em làm phần “Em ca ngợi Chúa”. Các em có thể vẽ hình hoặc viết chữ lên phần để trống để bày tỏ các em sẽ ca ngợi Chúa như thế nào (xem hình).