Chuyên mục: NHI ĐỒNG

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 2/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO HỌC VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 2/2024

in NHI ĐỒNG on 7 Tháng Năm, 2024

BÀI 1. CHÚA JÊSUS CẦU NGUYỆN

I. KINH THÁNH: Mác 1:35-38; 6:45-46; Lu-ca 5:15-16; 11:1-4

II. CÂU GỐC: “Hãy thường xuyên dùng mọi lời khẩn nguyện, nài xin, mà cầu nguyện trong Thánh Linh. Để đạt mục tiêu nầy, hãy kiên trì, tỉnh thức, và cầu nguyện cho tất cả các thánh đồ.” (Ê-phê-sô 6:18).

III. BÀI HỌC.

  Chúa Jêsus luôn cầu nguyện. Ngài cầu nguyện trên núi. Ngài cầu nguyện trong thành phố. Ngài cầu nguyện tại nhà. Chúa Jêsus luôn cầu nguyện. Ngài cầu nguyện trên đường đi. Ngài cầu nguyện nơi đồng vắng. Ngài cầu nguyện trong đền thờ.

IV. CÙNG SUY NGHĨ.

Xem hình và trả lời các câu hỏi:

  1. Chúa Jêsus đang ở đâu?

…………………………………………

  1. Ngài đến đó để làm gì?

…………………………………………

  1. Tại sao Chúa Jêsus thích cầu nguyện?

…………………………………………

  1. Nếu Chúa Jêsus làm việc quá nhiều hoặc quá mệt, em nghĩ Chúa sẽ làm gì?

………………………………………………

Đánh dấu X vào ô vuông những nơi em có thể cầu nguyện:

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 2/2024

BÀI HỌC KINH THÁNH DÀNH CHO GIÁO VIÊN Lớp NHI ĐỒNG (6-8 TUỔI) – QUÝ 2/2024

in NHI ĐỒNG on 7 Tháng Năm, 2024

BÀI 1. CHÚA JÊSUS CẦU NGUYỆN

I. KINH THÁNH: Mác 1:35-38; 6:45-46; Lu-ca 5:15-16; 11:1-4.

II. CÂU GỐC: “Hãy thường xuyên dùng mọi lời khẩn nguyện, nài xin, mà cầu nguyện trong Thánh Linh. Để đạt mục tiêu nầy, hãy kiên trì, tỉnh thức, và cầu nguyện cho tất cả các thánh đồ.” (Ê-phê-sô 6:18).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Chúa Jêsus thường xuyên cầu nguyện với Đức Chúa Trời.

– Cảm nhận: Chúa muốn em trò chuyện với Ngài bằng cách cầu nguyện.

– Hành động: Mỗi ngày đều dành thời gian cầu nguyện với Chúa.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

     A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

*Lời cầu nguyện của em.

  1. Mục đích: Giúp các em kể ra và giải thích được những việc các em cầu nguyện.
  2. Vật liệu: Giấy trắng và viết chì màu.

3.Thực hiện: Yêu cầu các em diễn đạt bằng hình vẽ những gì mà các em đã cầu nguyện với Chúa. Trước tiên, bạn có thể dùng những câu hỏi giúp các em suy nghĩ như: “Sáng nay các em có cầu nguyện không? Các em cầu nguyện những gì?” (Các em có thể nói đến bất cứ người nào, vật gì hay món ăn nào cũng được).

   Cho các em vẽ những gì các em đã cầu nguyện ra giấy. Khi các em vẽ xong, nộp cho giáo viên xem. Giáo viên cùng cho các em xem hình vẽ, khen ngợi các em để nâng cao tinh thần học tập của các em.

     B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

  1. Vào đề.

   Trong thời gian Chúa Jêsus sống trên đất nầy, Ngài làm rất nhiều điều kỳ diệu. Có một điều Chúa Jêsus thường âm thầm làm. Các em có muốn biết điều đó không? Bây giờ cô sẽ kể cho các em nghe chuyện ấy nha! Cô hy vọng các em sẽ rất thích thú khi nghe câu chuyện này.

  1. Bài học.

   Một ngày nọ, Chúa Jêsus hóa năm cái bánh và hai con cá cho hơn năm ngàn người ăn. Sau khi mọi người ăn no nê, Chúa Jêsus rất mệt vì suốt ngày giảng đạo và phân phát thức ăn cho cả đoàn dân đông. Chúa Jêsus bảo các môn đồ: “Trời tối rồi, các con chèo thuyền qua bên kia bờ hồ trước đi, Ta sẽ đến sau”. Các môn đồ ngạc nhiên hỏi nhau: “Tại sao Chúa Jêsus lại không cùng đi nhỉ? Tại sao Ngài ở lại đó một mình thế?” Tuy vậy, họ vẫn làm theo lời Ngài dặn.

   Khi mọi người đã đi hết, Chúa Jêsus bắt đầu đi lên núi. Ngài càng lên cao, tiếng ồn ào càng lúc càng nhỏ. Cuối cùngkhông còn một tiếng động nào nữa, chỉ còn lại riêng một mình Ngài.

   Các em nghĩ xem, Chúa Jêsus đã mệt mỏi lắm rồi! Trong chỗ yên tĩnh và thoải mái như vậy thì nằm xuống ngủ là sướng nhất. Nhưng Chúa Jêsus lên núi không phải để ngủ, Ngài muốn được cầu nguyện một mình. Chúa Jêsus thích tìm nơi yên tĩnh để trò chuyện với Đức Chúa Trời.

   Kinh Thánh cho biết Chúa Jêsus rất nhiều lần cầu nguyện một mình ở nơi yên tĩnh (cho các em xem hình). Có một lần, trời chưa sáng, lúc các môn đồ vẫn còn đang ngon giấc, thì Chúa Jêsus đã thức dậy, lặng lẽ ra khỏi nhà. Khi các môn đồ thức dậy, họ tìm kiếm Chúa Jêsus và thấy Ngài đang cầu nguyện ở một nơi vô cùng yên tĩnh. Các môn đồ biết đối với Ngài, việc trò chuyện với Đức Chúa Trời là vô cùng quan trọng.

   Có những lúc Chúa Jêsus cầu nguyện suốt đêm, nhiều khi đến giờ ăn Ngài vẫn còn cầu nguyện. Các môn đồ ngạc nhiên tự hỏi: “Sao Chúa Jêsus cầu nguyện thường xuyên như vậy? Ngài cầu nguyện điều gì nhỉ?”

   Một hôm, khi Chúa Jêsus vừa cầu nguyện xong, các môn đồ liền đến thưa cùng Ngài: “Chúa ơi, xin dạy chúng con cầu nguyện”. Chúa Jêsus rất vui, Ngài liền dạy họ cầu nguyện. Vì muốn các môn đồ thường xuyên cầu nguyện, Ngài đã dạy họ một bài cầu nguyện có thể dùng mọi lúc mọi nơi. Đó là “Bài Cầu Nguyện Chung”, ngày nay được phổ biến khắp thế giới.

   Có rất nhiều người yêu thích bài cầu nguyện nầy vì câu mở đầu rất hay. Chúa Jêsus nói: “Khi các con cầu nguyện, hãy gọi Đức Chúa Trời là “Cha trên trời”. Chúa Jêsus muốn các em nghĩ đến Đức Chúa Trời như là người cha yêu thương luôn chăm sóc và sẵn sàng nghe con cái nói bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu.

   Bây giờ, các em hãy cầu nguyện cảm tạ Đức Chúa Trời vì tình thương của Ngài dành cho các em. Đức Chúa Trời luôn sẵn sàng lắng nghe lời cầu nguyện của các em. “Kính lạy Đức Chúa Trời là Cha yêu dấu của chúng con ở trên trời. Cảm ơn Ngài đã yêu thương và luôn nghe lời cầu nguyện của chúng con. Nhân danh Chúa Jêsus. A-men”.

  1. Ứng dụng.

   Cho các em mở sách học viên, giải thích mục “Em có thể cầu nguyện”, khuyến khích các em về nhà cầu nguyện và cho các em biết Đức Chúa Trời vẫn luôn nghe thấy các em cầu nguyện dù em ở bất cứ nơi nào.

– Cuối cùng, hướng dẫn các em cầu nguyện kết thúc.

– Khuyến khích các em đem bài tập về nhà cho ba mẹ xem và cùng thực hiện mục “Sinh hoạt gia đình”.

Bài học Kinh Thánh học viên Lớp nhi đồng QUÝ 1 NĂM 2024

Bài học Kinh Thánh học viên Lớp nhi đồng QUÝ 1 NĂM 2024

in NHI ĐỒNG on 6 Tháng Năm, 2024

BÀI 1.   ĐỨC CHÚA TRỜI BAN CHO MỌI SỰ CẦN DÙNG

 

I. KINH THÁNH: Xuất Ê-díp-tô ký 15:22-25; 16:1-3; 11-16; 17:1-6

II. CÂU GỐC:Đức Chúa Trời tôi sẽ cung ứng mọi nhu cầu của anh em theo sự giàu có vinh quang của Ngài trong Đấng Christ Jêsus”. (Phi-líp 4:19).

III. BÀI TẬP.

A. BỨC TRANH CÒN TRỐNG.

  Ở trong đồng vắng, dân Y-sơ-ra-ên nhiều lần oán trách Đức Chúa Trời và Môi-se.

 Đức Chúa Trời yêu thương dân Y-sơ-ra-ên, Ngài ban cho họ những gì?………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………….

B. EM CẢM TẠ CHÚA.

    Đức Chúa Trời ban mọi sự cần dùng. Em hãy vẽ hoặc ghi vào ô trống những gì Đức Chúa Trời ban cho em trong tuần.

C. AI TINH MẮT.

Em quan sát bức tranh dưới đây sẽ thấy những thức ăn ngon ơi là ngon và những bộ quần áo thật đẹp. Nào hãy bắt đầu quan sát nhé!

Bài học Kinh Thánh giáo viên Lớp nhi đồng QUÝ 1 NĂM 2024

Bài học Kinh Thánh giáo viên Lớp nhi đồng QUÝ 1 NĂM 2024

in NHI ĐỒNG on 6 Tháng Năm, 2024

BÀI 1. ĐỨC CHÚA TRỜI BAN CHO MỌI SỰ CẦN DÙNG

I. KINH THÁNH: Xuất Ê-díp-tô ký 15:22-25; 16:1-3; 11-16; 17:1-6

II. CÂU GỐC:Đức Chúa Trời tôi sẽ cung ứng mọi nhu cầu của anh em theo sự giàu có vinh quang của Ngài trong Đấng Christ Jêsus”. (Phi-líp 4:19).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Đức Chúa Trời cung ứng thức ăn và nước uống cho dân Y-sơ-ra-ên.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời ban cho chúng ta đủ mọi sự cần dùng.

– Hành động: Cảm tạ Đức Chúa Trời vì sự ban cho của Ngài.

IV. PHẦN SUY GẪM CỦA GIÁO VIÊN.

Dân Y-sơ-ra-ên đã kinh nghiệm về quyền năng giải cứu của Chúa khi vượt qua Biển Đỏ, nhưng khi đối diện với những nhu cầu thuộc thể thì họ lo lắng nói với Môi-se: “Chúng tôi sẽ ăn gì? Sẽ uống gì?” Bởi vì đồng vắng khô hạn không có thức ăn, nước uống! Đây cũng là điều rất dễ hiểu đối với chúng ta – những con người yếu đuối.

Trên con đường theo Chúa, đôi lúc Đức Chúa Trời đưa chúng ta vào sự thử nghiệm để giúp chúng ta tăng trưởng về mặt thuộc linh, nhưng Ma quỉ lại cám dỗ để chúng ta càng yếu hèn thêm, càng non kém về thuộc linh thêm. Nếu chúng ta tin cậy Đức Chúa Trời và vâng lời Ngài thì chúng ta sẽ vượt qua được cuộc thử nghiệm và tăng trưởng, nhưng nếu vô tín thì chúng ta sẽ thất bại và cứ ở mãi trong tình trạng non nớt về thuộc linh. Thái độ mà chúng ta chọn để đối phó với những khó khăn sẽ quyết định hướng đi cho cuộc đời chúng ta.

Bạn có cảm tạ Chúa vì những gì Ngài ban cho trên cuộc đời của mình không? Nếu đời sống mà chỉ toàn những thử thách, chúng ta sẽ dễ nản lòng. Nhưng nếu đời sống chỉ toàn là những vui thú, chúng ta sẽ sinh ra phóng túng và chẳng bao giờ có được tư cách thanh cao. Chúa có cách làm cân bằng những khó khăn trong đời sống của chúng ta. Giữa sa mạc mênh mông, Đức Chúa Trời đã ban thức ăn, nước uống dư dật cho dân Y-sơ-ra-ên. Trong cuộc sống của chúng ta cũng vậy, Ngài luôn chu cấp mọi nhu cầu cấp thiết cho chúng ta. Vậy hãy hết lòng tin cậy Chúa và cảm tạ Ngài vì sự nuôi nấng, chăm sóc của Ngài bạn nhé.         

V. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.

   A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Trang bị cho chuyến du lịch.

  1. Vật liệu: Giấy vẽ, bút màu.
  2. Thực hiện: Giáo viên giải thích cho các em cách chơi của hoạt động nầy: Giả sử em đi du lịch đến một hoang đảo, không có bất cứ thứ gì cả. Em sẽ chuẩn bị gì cho chuyến đi nầy? Em sẽ mang theo thứ gì? Hãy vẽ những thứ em sẽ mang theo vào giấy. Khi các em vẽ xong, mời các em chỉ ra hai thứ quan trọng nhất trong cuộc sống.

Câu chuyện hôm nay sẽ cho các em biết những thứ mà dân Y-sơ-ra-ên cần để sống khi ở trong đồng vắng, và ở nơi đó, Đức Chúa Trời đã chăm sóc họ như thế nào nhé.

   B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

 

(Chuẩn bị thị trợ: Photo lớn hình vẽ trong phần phụ lục rồi tô màu cho đẹp).

  1. Vào đề.

Các em thân mến, Đức Chúa Trời ban cho chúng ta rất nhiều thứ trong cuộc đời nầy. Các em có thể kể ra những thứ mà Chúa ban cho em không? (Cho các em kể ra: Thức ăn, nước uống, áo quần v.v…). Khi dân Y-sơ-ra-ên rời khỏi Ai-cập, đi trong đồng vắng thiếu thốn mọi thứ, Đức Chúa Trời làm sao để cung ứng cho nhu cầu của họ? Bài học nầy sẽ trả lời cho các em câu hỏi đó.

  1. Bài học.

Đức Chúa Trời giúp dân Y-sơ-ra-ên đi qua Biển Đỏ để đến vùng đất kỳ diệu mà Ngài hứa ban cho họ. Nhưng muốn đến được vùng đất tốt đẹp đó, họ phải vượt qua sa mạc khô khan, nắng cháy, chỉ có cát và cát mà thôi. Dân chúng đi trong sa mạc nóng bỏng đã ba ngày rồi mà vẫn không gặp được nguồn nước. Họ càng lúc càng khát, miệng họ khô khốc, cơn khát hành hạ họ dữ dội. Bỗng họ nhìn thấy dòng nước trong xanh, đẹp đẽ phía trước. Mọi người kêu lên mừng rỡ: “Nước! Nước”. Họ chạy ùa đến uống, nhưng nước rất đắng, không thể nào uống được. Nhìn thấy dòng nước nhưng lại không uống được khiến cho dân chúng càng khát hơn nữa. Họ bắt đầu oán trách. Họ quên tất cả những việc tốt đẹp mà Đức Chúa Trời từng làm cho họ. Tuy nhiên Môi-se vẫn không quên, ông cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời.

Đức Chúa Trời chỉ cho Môi-se một khúc cây, bảo ông cầm lấy ném xuống nước. Môi-se làm theo Lời Chúa. Ồ thật là lùng, dòng nước nơi đó đã hóa ngọt. Dân chúng vui mừng vì có nước uống thỏa thích.

Nhưng chỉ sau đó mấy tuần, họ lại oán trách lần nữa. Thức ăn họ đem theo từ Ai-cập đã hết! Giữa sa mạc khô cằn nầy không thể mua hoặc kiếm thứ gì ăn được. Họ lằm bằm oán trách Môi-se: “Vì sao ông dẫn chúng tôi đến nơi nầy? Nếu ở Ai-cập ít nhất chúng tôi cũng còn có thức ăn, còn ở đây chúng tôi sẽ chết vì đói mất thôi!” Môi-se cầu nguyện, và Đức Chúa Trời lại cho ông biết nên làm thế nào. Môi-se nói với dân chúng: “Chiều nay các ngươi sẽ nhận biết rằng, chính Đức Chúa Trời dẫn các ngươi ra khỏi xứ Ai-cập, và Ngài sẽ ban cho các ngươi mọi sự cần dùng”.

Chiều hôm đó, chim cút bay đến nhiều vô số. Chúng bay thật thấp, dày kín chung quanh nơi dân Y-sơ-ra-ên đóng trại. Thế là dân Y-sơ-ra-ên đã có thịt để ăn. Sáng hôm sau khi dân chúng vừa ra khỏi trại, họ thấy những hạt nhỏ, tròn, màu trắng như sương, trải đầy trên mặt đất. Họ hỏi nhau: “Cái gì vậy?” Môi-se nói: “Đó là bánh mà Đức Chúa Trời ban cho chúng ta làm thức ăn”. Ăn thử thì thấy nó ngọt như loại bánh làm bằng mật ong, dân chúng gọi thức ăn nầy là Ma-na. Từ đó, cứ mỗi sáng người ta lượm ma-na đủ ăn trong ngày. Dân chúng vui vẻ vì có đầy đủ thức ăn rồi.

Dân Y-sơ-ra-ên lại tiếp tục đi về miền đất Đức Chúa Trời hứa ban cho họ. Dọc đường vì thiếu nước, họ lại oán trách lần nữa. Môi-se nói: “Vì sao các ngươi cứ oán trách hoài? Đến lúc nào các ngươi mới chịu tin Đức Chúa Trời là Đấng chăm sóc các ngươi?” Rồi Môi-se cầu nguyện: “Chúa ơi! Con phải làm gì đây?” Đức Chúa Trời hướng dẫn Môi-se những điều phải làm. Môi-se dẫn các trưởng lão và dân Y-sơ-ra-ên đến một tảng đá to. Ông giơ cao gậy, đập mạnh vào tảng đá. Thình lình, nước từ tảng đá tuôn tràn ra, mọi người lại có nước để ăn uống, tắm giặt thỏa thích.

  1. Ứng dụng.

Tuy dân Y-sơ-ra-ên thường xuyên oán trách, nhưng Đức Chúa Trời vẫn chăm sóc họ. Đức Chúa Trời muốn mọi người tin cậy nơi Ngài. Đức Chúa Trời biết chúng ta cần những gì và Ngài sẽ ban cho chúng ta mọi sự cần dùng.

Cho các em mở sách học viên bài 1 để làm bài tập. Hướng dẫn các em vẽ tiếp bức tranh chưa hoàn thành trong phần A. Sau đó hỏi các em: Vì sao dân Y-sơ-ra-ên oán trách? Theo em, lúc họ oán trách, Môi-se cảm thấy như thế nào? Nếu dân Y-sơ-ra-ên nhớ rằng, Đức Chúa Trời luôn ban cho họ mọi điều cần dùng, họ có oán trách không?

Giáo viên tiếp tục cho các em quan sát kỹ hình vẽ trong phần B, xem Đức Chúa Trời ban cho chúng ta những gì? Mời các em ghi thêm ý kiến của mình vào chỗ trống cuối cùng. Khi biết Đức Chúa Trời luôn quan tâm đến em, Ngài ban cho mọi điều cần dùng, em sẽ làm gì? (Cảm tạ Chúa).

 VI. PHỤ LỤC.

Dân Y-sơ-ra-ên oán trách Môi-se.

BÀI 5. SỐNG YÊU THƯƠNG (GV-HV)

BÀI 5. SỐNG YÊU THƯƠNG (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ IV. 2016 on 26 Tháng Bảy, 2018

BÀI 5. SỐNG YÊU THƯƠNG (GV)

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 37.

II. CÂU GỐC: “Các ngươi hãy yêu nhau, cũng như ta đã yêu các ngươi” (Giăng 15:12).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Các anh của Giô-sép không lấy lòng yêu thương để đối xử với Giô-sép.

– Cảm nhận: Chúa muốn các em yêu thương nhau.

– Hành động: Nhờ cậy Chúa, tìm ra phương cách để đối đãi với người khác bằng tình yêu thương.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Nói gì?

1. Vật liệu: Trang tài liệu H trong tập học viên.

2. Thực hiện: Sinh hoạt nầy nhằm giúp các em tìm ra trọng tâm của bài học. Giáo viên giúp các em chia sẻ bằng các câu hỏi: Bạn trai trong hình sẵn lòng đối đãi với người khác bằng sự yêu thương, nhưng có người không đồng ý với những điều bạn trai ấy nói. Theo em, họ sẽ nói gì? (Đối xử gian ác với người khác để mình hưởng quyền lợi, sung sướng). Em thích đối xử thế nào với người khác? Em thích người khác đối xử với em thế nào?

B. BÀI HỌC KINH THÁNH

(Chuẩn bụ giáo cụ: Photo lớn trang tài liệu G trong sách giáo viên, tô màu rồi cắt ra.)

1. Vào đề.

Nhà các em có đông anh chị em không? Nếu có nhiều anh chị em, chắc những lúc chơi đùa sẽ rất vui. Theo em, trong một gia đình có đông anh em, khó khăn lớn nhất là gì? (Cho các em trả lời).

Hôm nay các em sẽ được nghe kể về câu chuyện của một gia đình rất đông con. Các em cùng mở Kinh Thánh trong sách Sáng thế Ký đoạn 37 để biết về gia đình nầy (Giúp các em mở Sáng thế Ký 37).

2. Bài học.

Ông Gia-cốp là cha của mười hai người con trong gia đình nầy. Gia đình họ thật đông phải không các em? Hằng ngày, các anh em trong nhà cùng nhau chăm sóc bầy gia súc của gia đình. Họ sống vui vẻ, hoà thuận với nhau, nhưng có một việc khiến họ không vui. Mười người anh không thích em trai của họ là Giô-sép. Bởi vì Giô-sép từng đem những lỗi lầm của họ nói cho cha Gia-cốp nghe khiến họ rất giận. Không bao lâu sau, việc Giô-sép được cha cho một chiếc áo choàng đặc biệt càng làm các anh trai giận dữ. Rồi Giô-sép lại kể cho họ nghe, anh ta nằm mơ thấy mình trở thành người lãnh đạo của các anh khiến họ càng tức giận hơn nữa. Các anh trai đều rất ghét Giô-sép, họ thường hay nói xấu anh ta.

Một hôm, mười người anh của Gia-cốp dẫn bầy chiên đi đến một nơi rất xa, vì ở đó có đồng cỏ xanh tươi và dòng nước trong lành cho bầy chiên ăn uống. Gia-cốp nói cùng Giô-sép: “Các anh con đi đã khá lâu, con đi thăm xem chúng có mạnh khỏe không rồi về nói cho cha biết”. Giô-sép mặc chiếc áo choàng đẹp đó, đem theo lương thực và lên đường.

Thấy Giô-sép còn ở đằng xa, các anh nói với nhau: “Kìa, thằng nằm mộng sắp đến đây. Chúng ta hãy giết nó, vất xác dưới đáy giếng, rồi báo với cha rằng, thú dữ đã ăn thịt nó rồi”. Nhưng Ru-bên lại có một đề nghị khác: “Chúng ta đừng giết chết nó, hãy quăng nó xuống một cái giếng cạn là nó đã chết queo rồi”. Giô-sép vừa đến nơi, các anh xúm nhau lột chiếc áo choàng sặc sỡ, và quăng Giô-sép xuống giếng.

Theo các em, Giô-sép có cầu xin các anh trai tha cho mình không? Chắc là có! Nhưng họ không thèm đếm xỉa gì đến, bỏ mặc Giô-sép một mình dưới giếng. Em nghĩ xem Giô-sép có sợ không? Cuối cùng chuyện gì xảy đến với anh ta? Tiếng kêu cứu của Giô-sép có làm động lòng các anh của mình không? Không một chút xót thương, các anh của Giô-sép thản nhiên ngồi ăn uống, chợt thấy một đoàn lái buôn đang đi đến. Vào thời đại Kinh Thánh, một số lái buôn kết thành đoàn, dùng lạc đà chở hàng hoá đến khắp mọi nơi để mua bán. Khi đoàn lái buôn đến gần, Giu-đa đề nghị: “Đem bán quách Giô-sép cho bọn lái buôn đó đi! Họ mua nó đem đến xứ khác bán cho người ta làm nô lệ, chúng ta sẽ không bao giờ nhìn thấy nó nữa!”. Tất cả đều đồng ý, họ kéo Giô-sép lên, đem bán cho các lái buôn được hai mươi miếng bạc.

Các anh trai đem chiếc áo choàng của Giô-sép nhúng vào máu dê và đưa chiếc áo choàng cho cha xem. Nhận ra chiếc áo choàng của con mình, Gia-cốp đau đớn, khóc than: “Con ta đã chết rồi! Thú dữ đã ăn thịt con ta rồi”.

Thấy cha quá sức đau buồn, các anh cố gắng an ủi. Nhưng sự mất mát làm ông đau đớn không nguôi, và không có người anh trai nào dám nói sự thật cho cha biết.

3. Ứng dụng.

Vì không yêu thương em mình nên các anh của Giô-sép đã làm một việc hết sức gian ác, khiến cho người cha vô cùng đau khổ. Chúa Giê-xu muốn chúng ta phải yêu thương lẫn nhau. Các em có đối đãi với nhau bằng tình yêu thương không?

Cho các em mở sách học viên bài 5. Trước tiên, giúp các em biết ý nghĩa của các hình vẽ, sau đó hướng dẫn các em đọc câu chuyện. Giáo viên đọc chữ, các em đọc ý nghĩa của hình vẽ. Nếu thời gian cho phép, hướng dẫn các em đọc thêm vài lần.

Dùng những câu hỏi sau cho các em suy nghĩ và trả lời: Các anh trai đối xử xấu với ai? (Giô-sép và cha). Điều gì bày tỏ họ không có tình yêu thương? Theo em, họ nên hành động như thế nào để bày tỏ lòng yêu thương?

Mời các em chia sẻ một vài tình huống khó có thể dùng tình yêu thương đối với người khác trong đời sống. Sau đó cho các em làm phần bài tập: “Kế hoạch và hành động”. Nếu em là người đội nón trong hình vẽ, em sẽ làm thế nào để bày tỏ tình yêu thương? (Khuyến khích các em chia sẻ ý kiến). Sau khi chia sẻ xong, mời các em chọn ra một cách bày tỏ lòng yêu thương để thực hành trong tuần nầy.

BÀI 5. SỐNG YÊU THƯƠNG (HV)

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 37.

II. CÂU GỐC: “Các ngươi hãy yêu nhau, cũng như ta đã yêu các ngươi” (Giăng 15:12).

III. BÀI TẬP

B. KẾ HOẠCH VÀ HÀNH ĐỘNG.
Nếu em là người đội nón trong hình vẽ, em sẽ làm thế nào để bày
tỏ lòng yêu thương?

 

BÀI 4.    PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG THỜI KINH THÁNH (GV-HV)

BÀI 4.    PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG THỜI KINH THÁNH (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ IV. 2016 on 26 Tháng Bảy, 2018

BÀI 4.    PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG THỜI KINH THÁNH (GV)

I. KINH THÁNH: Sáng thế Ký 12:1-7; Công Vụ 18:1-3; 18-26.

II. CÂU GỐC: “… Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi vẫn ở cùng ngươi trong mọi nơi ngươi đi” (Giô-suê 1:9).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Những phương tiện giao thông trong thời đại Kinh Thánh.

– Cảm nhận: Phương tiện giao thông trong thời đại Kinh Thánh chậm, cực khổ và nguy hiểm hơn nhiều so với thời nay.

– Hành động: Cảm tạ Chúa vì Ngài luôn ở cùng chúng ta dù chúng ta đi bằng bất cứ phương tiện nào.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG BÀI DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

Giáo viên dựa vào hoàn cảnh thực tế, hướng dẫn các em tiến hành 2 hoạt động hứng thú sau, hoặc chọn lấy 1.

* Gợi ý 1: Cái gì đây?

1. Vật liệu: Trang tài liệu F trong tập học viên, bút màu.

2. Thực hiện: Giáo viên dựa theo gợi ý trong tập học viên, hướng dẫn các em làm phần nầy.

* Gợi ý 2: Các phương tiện giao thông.

Vật liệu: Trang tài liệu F trong tập học viên.

1. Thực hiện: Ghi lên bảng những ký hiệu sau: ·, x, o, -, *, c. Giáo viên lần lượt đọc ra những gợi ý trong tập học viên, khi đề cập đến ký hiệu nào, thì chỉ vào ký hiệu được viết trên bảng, để giúp các em hiểu rõ. Giáo viên có thể sử dụng câu hỏi để giúp các em phát huy sự liên tưởng. Ví dụ: Theo em, các nhân vật Kinh Thánh có thích những phương tiện giao thông hiện đại không? Vì sao?

B. BÀI HỌC KINH THÁNH

(Chuẩn bị giáo cụ: Photo lớn trang tài liệu D (hình 1-2), và hình 1 của trang tài liệu E, trong sách giáo viên rồi tô màu.)

1. Vào đề.

Các em có bao giờ đi chơi xa không? Nơi xa nhất mà các em đã đến là đâu? Các em đến đó bằng cách nào? (Cho các em trả lời). Ngày nay, chúng ta có thể dùng xe máy, xe hơi, xe lửa, máy bay… để đi xa. Nhưng trong thời đại Kinh Thánh không có những phương tiện nầy. Câu chuyện hôm nay sẽ cho các em biết những người trong thời đại Kinh Thánh đã đi đến những nơi rất xa bằng cách nào. Sách thứ nhất trong Kinh Thánh là Sáng Thế Ký đã ghi lại chuyện đi xa của Áp-ra-ham và Sa-ra. Thời đại Áp-ra-ham và Sa-ra sống trước Chúa Giê-xu giáng sinh rất nhiều năm (Nếu các em còn nhớ câu chuyện Áp-ra-ham di cư trong bài 5 của quí trước thì cho các em kể lại câu chuyện nầy).

2. Bài học.

a. Cuộc hành trình của Áp-ra-ham.

Ông Áp-ra-ham và và bà Sa-ra chuẩn bị chuyển chỗ ở đến nơi khác, nhưng thời đó chưa có xe cộ để vận chuyển đồ đạc. Hai ông bà cẩn thận sắp xếp đồ đạc. Họ đem lều, tấm thảm, nồi chảo để nấu ăn, những túi da đựng đầy nước và sữa đặt lên lưng lừa và lạc đà để chúng chở đi. Còn những người giúp việc thì lùa bầy chiên, dê, bò đi theo sau. Áp-ra-ham và Sa-ra đang rời khỏi quê hương, nhưng không biết mình sẽ đến nơi nào!? Như các em đã biết, Đức Chúa Trời bảo Áp-ra-ham: “Hãy rời khỏi quê hương, bà con thân thuộc, đi đến xứ ta sẽ chỉ cho”. Nhưng Đức Chúa Trời không cho Áp-ra-ham biết, vùng đất đó ở đâu (cho các em xem hình 1 trang tài liệu D). Áp-ra-ham tin cậy Chúa, vâng lời Ngài. Hết ngày nầy đến ngày khác, ban ngày họ cứ đi về phía trước, còn ban đêm dừng lại ăn uống và nghỉ ngơi. Một số người giúp việc phải thức đêm canh giữ, đề phòng trộm cắp hay là thú dữ cắn xé gia súc và làm hại mọi người. Vào thời Kinh Thánh, đi xa thường rất nguy hiểm.

Cuối cùng họ đến một vùng đất xanh tươi, có đồng cỏ bát ngát và dòng nước mát lạnh cho bầy gia súc ăn uống. Đức Chúa Trời nói cùng Áp-ra-ham: “Đây là vùng đất mà ta hứa ban cho ngươi”.

Kinh Thánh cho chúng ta biết, việc đầu tiên mà ông Áp-ra-ham làm trên vùng đất mới, là lập một bàn thờ cho Đức Chúa Trời và cảm tạ Ngài dẫn dắt, ở cùng ông suốt cuộc hành trình dài nầy.

b. Cuộc hành trình của Phao-lô.

Kinh Thánh Tân Ước được viết sau khi Áp-ra-ham và Sa-ra qua đời rất lâu. Tân Ước cho chúng ta biết về những việc Chúa Giê-xu làm trên thế gian, và những việc mà các bạn Chúa Giê-xu làm sau khi Ngài về trời. Câu chuyện nầy giúp các em biết sứ đồ Phao-lô thường đi từ nơi nầy đến nơi khác bằng cách nào.

Phao-lô yêu mến Chúa Giê-xu, và ông muốn những người khác cũng yêu mến Ngài. Vì thế, ông đi đến rất nhiều nơi để nói cho mọi người biết về Chúa Giê-xu.

Có lúc Phao-lô phải đi bộ trên những con đường trải đầy đá, nhưng cũng có lúc, Phao-lô ngồi trên lưng lừa hoặc trên xe ngựa để đi xa. Buổi tối, Phao-lô có thể nằm nghỉ bên đường, hoặc đến ở nhà bạn. Thỉnh thoảng, Phao-lô cũng ở lại nhà trọ. Nhà trọ là nơi để khách vãng lai dừng lại dùng bữa và nghỉ ngơi. Nhà trọ thường không phải là nơi lý tưởng để ở, vì rất dơ, những người thô lỗ và bần cùng thường hay tá túc ở đó.

Trong thời gian đi xa, khi thì Phao-lô phải chịu mưa gió lạnh giá, khi thì cái nắng nóng bỏng làm cho ông vừa mệt vừa khát. Phao-lô cũng phải chú ý đề phòng những tên trộm cướp xuất hiện đột ngột trên đường đi. Bọn chúng thường chặn người đi đường lại, cướp giật tiền bạc, có nhiều người còn bị chúng đánh thương tích đầy mình.

Như thế chúng ta có thể biết, vào thời đại Kinh Thánh, việc đi xa thật là gian nan và nguy hiểm. Nhưng những điều đó vẫn không cản trở được Phao-lô rao truyền Tin Lành. Ông đi hết nơi nầy đến nơi khác, dành tất cả mọi khả năng, sức lực để làm chứng về Chúa Giê-xu cho nhiều người.

c. Cuộc hành trình của Bê-rít-sin và A-qui-la.

Một trong những nơi mà Phao-lô từng đi đến, đó là thành phố Cô-rinh-tô. Tại đây, ông Phao-lô quen biết một đôi vợ chồng rất yêu mến Chúa, người chồng tên là A-qui-la, còn người vợ tên là Bê-rít-sin. Hai vợ chồng nầy mời Phao-lô ở lại nhà họ, vì Phao-lô biết may trại và họ cũng làm nghề may trại. Thế là Phao-lô ở lại với Bê-rít-sin và A-qui-la. Họ cùng nhau may trại và rao truyền Tin Lành cho mọi người. Nhưng Phao-lô chỉ ở đó một thời gian, rồi ông rời Cô-rinh-tô để đi đến Ê-phê-sô. Bê-rít-sin và A-qui-la thưa cùng Phao-lô: “Chúng tôi muốn đi cùng ông”. Thế là họ chuẩn bị sắp xếp quần áo, đồ đạc, sau đó, cùng Phao-lô đi ra bến tàu.

Họ dõi theo những đồ đạc của họ được xếp lên một chiếc tàu to, cuối cùng, đến giờ các hành khách lên tàu rồi. A-qui-la, Bê-rít-sin và Phao-lô cùng đi lên tàu. Buồm căng gió, con tàu bắt đầu khởi động, rồi thẳng tiến về hướng Ê-phê-sô (Cho các em xem trang tài liệu E hình 1, dùng tay chỉ theo con đường từ Cô-rinh-tô đến Ê-phê-sô mà hành khách có thể đi qua). Con tàu đi trên biển từ ngày nầy đến ngày khác. Rồi một hôm, có người reo lên: “Ồ, phía trước là đất liền” (Cho các em xem trang tài liệu D hình 2). Đám đông tụ tập trên boong tàu, nhìn thấy Ê-phê-sô càng lúc càng gần. Có lẽ A-qui-la và Bê-rít-sin rất phấn khởi, họ cảm tạ Đức Chúa Trời vì Ngài đưa dẫn họ đến nơi an toàn. Và tại nơi đó, họ có thể nói về Chúa Giê-xu cho rất nhiều người.     3. Ứng dụng.

So với ngày nay, phương tiện giao thông ngày xưa thật là thô sơ và nguy hiểm. Nhưng dù xưa hay nay, dù phương tiện giao thông thô sơ hay hiện đại thì chúng ta, là những con cái Chúa vẫn luôn tin cậy vào Đức Chúa Trời. Ngài hứa sẽ ở cùng chúng ta trong mọi nơi chúng ta đi. Bây giờ, các em cùng đứng lên cảm tạ Chúa vì sự bảo vệ của Ngài các em nhé!

Trong phần “Chụp hình”, khuyến khích các em vẽ ra hình ảnh theo trí tưởng tượng của mình. Sau đó hướng dẫn các em thảo luận: Em thích tham gia cuộc hành trình của ai? Của Áp-ra-ham và Sa-ra, của Phao-lô hay là của Bê-rít-sin và A-qui-la? Vì sao em thích cuộc hành trình của họ?

Hướng dẫn các em hoàn tất phần “Mất bao nhiêu thời gian?” dựa theo thứ tự sau:

a. Nói với các em: Chúng ta cùng hợp sức, tính ra đáp án từ câu 1 đến câu 4.

b. Trước tiên cho các em xem hình vẽ của câu 1, cho các em đoán ý nghĩa của hình vẽ nầy.

c. Giáo viên đọc rõ ràng nội dung của câu 1 (trong tập học viên).

d. Hỏi các em: Nhân vật trong hình sử dụng phương tiện giao thông gì? Chúng ta cần tìm điều gì?

Gợi ý: Tính theo phân đoạn của cây số, sẽ giúp các em tìm được đáp án.

BÀI 4. PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG THỜI KINH THÁNH (GV)
I. KINH THÁNH:
Sáng Thế Ký 12:1-7; Công Vụ 18:1-3; 18-26.
II. CÂU GỐC: “Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi vẫn ở cùng ngươi
trong mọi nơi ngươi đi”
(Giô-suê 1:9).
III. BÀI TẬP.
A. CHỤP HÌNH.

Hãy chụp hình lưu niệm về cuộc hành trình của Áp-ra-ham và
Sa-ra, hoặc của Bê-rít-sin và A-qui-la. Hình ảnh nầy sẽ như thế nào?
(Em hãy vẽ vào khung hình)

 

BÀI 3. THỨC ĂN TRONG THỜI ĐẠI KINH THÁNH (GV-HV)

BÀI 3. THỨC ĂN TRONG THỜI ĐẠI KINH THÁNH (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ IV. 2016 on 25 Tháng Bảy, 2018

BÀI 3. THỨC ĂN TRONG THỜI ĐẠI KINH THÁNH (GV)

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 25:27-34; Lu-ca 10:38-42.

II.CÂU GỐC: “Người nào có mắt từ thiện sẽ được phước, vì người ban bánh mình cho kẻ nghèo khó” (Châm ngôn 22:9).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Một số thức ăn thường được nấu nướng trong thời Kinh Thánh.

– Cảm nhận: Chúa vui lòng khi các em biết chia sẻ thức ăn cho những người cần dùng.

– Hành động: Em sẵn lòng chia sẻ thức ăn của mình cho người khác.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Gợi ý 1: Họ ăn thứ gì?

1. Vật liệu: Trang tài liệu D trong tập học viên, bút màu.

2. Thực hiện: Hoạt động nầy nhằm giúp các em có thể đoán những thức ăn mà nhân vật Kinh Thánh dùng, để chuẩn bị trước khi vào bài học. Giáo viên có thể dựa vào gợi ý trong tài liệu, hướng dẫn các em tiến hành hoạt động.

* Gợi ý 2: Ăn thử.

1. Vật liệu: Hạnh nhân, nho khô, trái Ôlive (có thể tìm mua trái ôlive đã ướp sẵn ở các siêu thị), táo khô, trái lựu, hành tây, mật ong, pho-mát, trứng (dùng dầu ôlive chiên trứng), dĩa giấy, nỉa nhỏ, khăn giấy.

2. Thực hiện: Trước tiên cắt thức ăn ra thành từng miếng nhỏ, cho các em ăn thử.

Hoạt động nầy giúp các em thử ăn một vài thức ăn mà người ta đã dùng trong thời Kinh Thánh. Sinh hoạt nầy không những thú vị mà còn giúp cho buổi học sinh động hơn. Giáo viên có thể nói với các em: “Để hiểu rõ hơn về thức ăn trong thời đại Kinh Thánh, chúng ta cùng nhau thử dùng một vài thức ăn mà những nhân vật Kinh Thánh thường dùng …”

*Chuẩn bị giáo cụ: (1) Photo lớn trang tài liệu C hình 1-4 trong sách giáo viên, tô màu rồi cắt ra, 4 cái bao giấy, kéo, keo dán.

(2) Dựa vào gợi ý của hình mẫu (xem hình), cắt dán khuôn mặt lên bao giấy, thành một con rối có cái miệng có thể hoạt động.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH

1. Vào đề.

Trong các bài học của quí trước, các em đã được học biết về hai anh em sinh đôi. Họ là con trai của Y-sác và Rê-bê-ca. Các em còn nhớ tên của họ là gì không? (Ê-sau và Gia-cốp). Hôm nay các em sẽ nghe được nghe họ kể lại chuyện của chính họ, các em có muốn nghe không? (Bạn có thể mời một cộng tác viên dùng con rối diễn xuất, hoặc chính bạn có thể lồng bàn tay của mình vào bao giấy con rối để thực hiện). Bây giờ các em cùng chú ý theo dõi nhé!

2. Bài học.

a. Gia-cốp chuẩn bị thức ăn.

– Rối giấy Gia-cốp: Chào các bạn nhỏ, tôi là Gia-cốp. Hôm nay tôi và anh trai tôi sẽ kể cho các em nghe về một ngày rất quan trọng trong cuộc đời của chúng tôi.

– Rối giấy Ê-sau: Chào các em, tôi là Ê-sau. Tôi thích săn bắn và rất thích ăn thịt thú rừng. Vì thế sáng sớm tôi đã vào rừng săn bắn. Dù hết sức cố gắng, nhưng cả một ngày tôi chẳng săn được một con thú nào cả. Vừa đói vừa mệt, tôi quay về nhà để kiếm thứ gì có thể bỏ vào bụng cho no.

– Rối giấy Gia-cốp: Trong khi anh Ê-sau đi săn, tôi bận rộn với công việc trong nhà. Trước tiên tôi nhóm lửa trên bếp lò. Sau đó, tôi đổ nước vào nồi và đặt lên bếp. Khi nước sôi, tôi bỏ đậu cô-ve vào nồi. Các em có biết đậu cô-ve không? Nó giống như đậu Hoà lan vậy, là một loại hạt mình dẹp. Chúng tôi thường hay ăn đậu cô-ve. Tôi bỏ đậu cô-ve và hành tây vào cùng một lúc, khi nồi súp nầy chín rồi, thì trở thành màu đỏ. Ồ, nó rất thơm.

– Rối giấy Ê-sau: Tôi cũng nhận thấy nồi súp nầy rất thơm. Về gần đến nhà, mùi thơm của nồi súp khiến cho bụng tôi đói cồn cào. Tôi bảo Gia-cốp: “Mau múc cho anh một tô súp”.

– Rối giấy Gia-cốp: Nhưng tôi không đem súp cho anh ấy ngay. Như các em đã biết, Ê-sau được sinh ra trước tôi, nên anh ấy được hưởng quyền trưởng nam. Điều đó có nghĩa là anh ấy sẽ được cha chia cho phần gia tài gấp đôi chúng tôi. Tôi muốn có được quyền trưởng nam. Vì thế tôi nói với Ê-sau: “Anh hãy bán quyền trưởng nam cho em thì em sẽ cho anh ăn súp”.

– Rối giấy Ê-sau: Vì quá đói nên tôi sẵn sàng đổi bất cứ thứ gì để có thức ăn ngay. Thế là tôi nói: Quyền trưởng nam có ích gì? Nếu không có thức ăn tôi sẽ chết vì đói. Vì thế tôi đồng ý đổi quyền trưởng nam để lấy thức ăn.

Giáo viên bỏ con rối giấy xuống, nói với các em: Trong câu chuyện nầy, Gia-cốp lợi dụng thức ăn để đoạt lấy những gì anh ta muốn có từ người anh của mình một cách ích kỷ.

Các em sẽ nghe thêm một câu chuyện về Chúa Giê-xu và các bạn của Ngài là Ma-ri và Ma-thê. Câu chuyện nầy được chép trong Kinh Thánh Tân Ước, sách Lu-ca. Bây giờ, người xuất hiện sẽ là Ma-ri và Ma-thê, họ đang chuẩn bị đón tiếp Chúa Giê-xu đến thăm nhà mình.

b. Chuẩn bị thức ăn cho Chúa Giê-xu.

– Rối giấy Ma-thê: Chào các em, tôi là Ma-thê.

– Rối giấy Ma-ri: Chào các em, tôi là Ma-ri, em của Ma-thê. Bây giờ tôi sẽ đi chợ, còn Ma-thê đang bận rộn với công việc ở nhà.

– Rối giấy Ma-thê: Tôi phải làm nhiều việc để chuẩn bị mời Chúa Giê-xu dùng bữa tối. À! tôi sẽ xay sẵn bột mì để làm bánh. Không biết Ma-ri đi chợ sắp về chưa? Cô ấy có biết rằng trước bữa tối chúng tôi phải chuẩn bị rất nhiều thứ hay không? A! Ma-ri đã về. Nhanh lên, em đã mua gà chưa? Em có mua được cá tươi không? Chúng ta phải chuẩn bị thứ tốt nhất để mời Chúa Giê-xu.

– Rối giấy Ma-ri: Chị ơi, em đã cố gắng mua được con gà rất ngon, tiếc là không có cá tươi, em chỉ mua được cá ướp muối.

– Rối giấy Ma-thê: Ôi, hỏng rồi! Thôi được, lúc làm bánh mì, thêm vào một chút bạc hà và nhục quế, để nó được đặc biệt một chút. Ma-ri, em còn đứng đó làm gì. Chúng ta còn rất nhiều việc phải làm. Chị còn chưa xay bột mì. Em đi xay được không? Đá mài ở trên kệ phía sau. Chị chuẩn bị nướng bánh đây. Đúng rồi, em phải dùng tiểu mạch chứ không phải đại mạch để làm bột mì. Chúng ta phải dành loại ngon nhất để đãi Chúa Giê-xu.

– Rối giấy Ma-ri: Chị ơi, có lẽ Chúa Giê-xu đến sớm, chúng ta sẽ được nghe Ngài giảng dạy. Ngài có biết bao điều kỳ diệu để kể cho chúng ta nghe…

– Rối giấy Ma-thê: Ma-ri, nếu chúng ta chưa làm xong bữa tối, thì làm sao có thể ngồi nghe Chúa Giê-xu dạy dỗ được. Nhanh lên! Hãy nấu nước cho chị làm gà, đừng quên bỏ muối.

– Rối giấy Ma-ri: Em còn phải đi lấy trái vả khô và đậu.

– Rối giấy Ma-thê: Để xem, chị phải đem bột nhồi từ hôm qua, trộn với bột mới nhồi, sau đó chị phải đợi bánh mì nở. Như vậy, bánh mì nướng mới dòn xốp, bột ở đây nầy. (Ngừng giây lát) Ma-ri! Em đâu rồi?

– Rối giấy Ma-ri: Dạ, em đây. Em đang xem Chúa Giê-xu đến chưa? Trái vả và trái đậu đều ở đây.

– Dẫn chuyện: Ma-thê bắt đầu bỏ gà vào nồi, rồi đem bánh mì vào lò nướng.

– Rối giấy Ma-thê: Chị làm bánh bông lan nho khô cho Chúa Giê-xu, để khi rời khỏi đây Ngài có thể mang theo ăn dọc đường.

– Rối giấy Ma-ri: Ngài đến rồi, chị ơi! Chúa Giê-xu đến rồi.

– Rối giấy Ma-thê: Chà! Ma-ri bỏ lại tất cả công việc, để chạy đến trò chuyện với Chúa Giê-xu. Muốn có một bữa tối thật ngon để đãi Chúa Giê-xu thì Ma-ri phải giúp mình chứ (tức giận).

– Dẫn chuyện: Ma-thê bực tức chạy vào phòng, nơi Ma-ri đang ngồi nghe Chúa Giê-xu giảng dạy.

– Rối giấy Ma-thê: Thưa Chúa, em con để một mình con làm hết mọi việc, xin Ngài bảo Ma-ri phụ giúp con với.

– Dẫn chuyện: Chúa Giê-xu nói với Ma-thê: Con chịu khó làm nhiều việc, nhưng có một việc cần mà thôi. Ma-ri đã lựa phần tốt là phần không có ai giành lấy được.

Ma-ri muốn có nhiều thời gian nghe Chúa Giê-xu dạy dỗ, cô yêu mến Chúa và học được từ Ngài những điều tốt đẹp. Ma-thê cũng rất yêu mến Chúa Giê-xu, cô muốn làm những việc đặc biệt cho Ngài.

3. Ứng dụng.

Con người cần phải có thức ăn để sống, mọi thức ăn đều do Chúa tạo ra cho loài người. Chúa vui lòng khi chúng ta biết chia thức ăn của mình cho những người cần đến. Đó là việc làm đẹp lòng Chúa, nhất định Chúa sẽ ban phước cho chúng ta.

Hướng dẫn các em trả lời phần bài tập trong bài 3 sách học viên. Sau khi các em làm xong, dựa vào lời thoại sau hướng dẫn các em chia sẻ: Những thức ăn được vẽ trong hình là những thứ người ta thường ăn trong thời đại Kinh Thánh. Trong số nầy, những thức ăn nào hiện nay chúng ta thường hay ăn? Em thích thức ăn nào nhất?

Trong phần bài tập B, hỏi các em: Gia-cốp làm thế nào để nấu chín nồi súp? Ma-thê dùng cách gì để nướng bánh?

Dựa theo gợi ý trong tập học viên, hướng dẫn các em kể ra ba loại dụng cụ điện hiện đại trong hình và hỏi các em: Những dụng cụ điện nầy có công dụng gì? Các em nghĩ nhân vật Kinh Thánh sẽ dùng cách gì, hoặc công cụ gì để thay thế những dụng cụ điện nầy?

BÀI 3. THỨC ĂN TRONG THỜI ĐẠI KINH THÁNH (HV)

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 25:27-34; Lu-ca 10:38-42.
II. CÂU GỐC: “Người nào có mắt từ thiện sẽ được phước, vì người
ban bánh cho kẻ nghèo khó”
(Châm ngôn 22:9).
III. BÀI TẬP.
A. CHỌN THỨC ĂN

Xem hình và đánh dấu “V” lên thức ăn được nhắc đến trong câu
chuyện Kinh Thánh hôm nay.

B. ĐIỆN KHÍ HOÁ
Xem hình rồi nêu ra 6 loại dụng cụ phải sử dụng điện khí, vì thế
chúng không có trong thời đại Kinh Thánh. Sau đó kể ra công dụng
của các dụng cụ nầy. Trong thời đại Kinh Thánh, dùng cách gì để
thay thế những dụng cụ điện khí hoá nầy.

 

 

BÀI 2.TRANG G TRONG THỜI ĐẠI KINH THÁNH (GV-HV)

BÀI 2.TRANG G TRONG THỜI ĐẠI KINH THÁNH (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ IV. 2016 on 25 Tháng Bảy, 2018

BÀI 2.TRANG PHỤC TRONG THỜI ĐẠI KINH THÁNH (GV)

I. KINH THÁNH: Giô-suê 6:17-19; 7:19-21; 1Sa-mu-ên 18:1-4; Công Vụ 9:36-43

II. CÂU GỐC: “Còn về phần quần áo, các ngươi lại lo lắng mà làm chi?… Cha các ngươi ở trên trời vốn biết các ngươi cần dùng những điều đó rồi” (Ma-thi-ơ 6:28a; 32b).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Áo quần trong thời đại Kinh Thánh và ngày nay có gì khác nhau.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời ban cho chúng ta đủ mọi nhu cầu.

– Hành động: Cảm tạ Chúa ban cho em các loại quần áo khác nhau.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

Giáo viên có thể dựa vào hoàn cảnh thực tế tại địa phương, hướng dẫn các em tiến hành hai hoạt động sau đây để gây hứng thú học tập hoặc chọn lấy một.

* Đề nghị 1: Con chiên và quần áo.

1. Vật liệu: Trang tài liệu B trong tập học viên.

2. Thực hiện: Giáo viên nói với các em: Các em thử nghĩ xem con chiên và quần áo có liên hệ gì? Một con chiên có thể biến thành một bộ quần áo không? Đúng rồi, con chiên không thể biến thành quần áo, nhưng lông của nó có thể biến thành quần áo. Mời các em xem quá trình từ lông chiên biến thành quần áo rất thú vị nầy (Hướng dẫn các em mở trang tài liệu B trong tập học viên).

Để giúp các em hiểu trang tài liệu nầy, giáo viên đọc câu hỏi từng bước một, sau đó ngưng giây lát để các em có đủ thời gian trả lời.

Quá trình thiết kế quần áo không đơn giản, vì thế vào thời đại Kinh Thánh quần áo rất quí, và Đô-ca là một phụ nữ chuyên may quần áo.

* Đề nghị 2. Mặc quần áo.

1. Vật liệu: Trang tài liệu C trong tập học viên, kéo, keo dán.

2. Thực hiện: Giáo viên mời các em giúp đỡ mặc đồ cho nhân vật Kinh Thánh. Cho các em mở trang tư liệu C trong tập học viên và hướng dẫn các em làm. Khi các em hoàn tất, mời các em đưa ra sản phẩm của mình và dùng những câu hỏi sau để giúp các em chia sẻ: “Hãy nghĩ xem vì sao người thời đó thích mặc loại quần áo vừa dài vừa rộng?” (Đợi sau khi các em phát biểu ý kiến xong, có thể giải thích: Loại quần áo như vậy dễ may hơn, trong khí hậu nóng bức mặc những loại quần áo nầy cũng sẽ mát hơn. Nếu thời gian cho phép, có thể giải thích thêm: Người thời đó thích mặc loại quần áo nhộm màu sắc sặc sỡ, phụ nữ thích đeo đồ trang sức trên áo choàng, mạng che mặt và trên dây lưng).

B. BÀI HỌC KINH THÁNH

(Chuẩn bị giáo cụ: Photo lớn trang tài liệu B, hình 1-5 trong sách giáo viên, rồi tô màu và cắt ra, bảng, băng keo hai mặt, mạng che mặt, áo choàng (hóa trang theo cách ăn mặc của nhân vật trong thời đại Kinh Thánh).

Nhờ các em xếp gọn lại những tài liệu được dùng trong phần “Sinh Hoạt Đầu Giờ”. Trong khi các em đang sắp xếp, giáo viên nhanh chóng đeo mạng che mặt lên, mặc áo choàng vào, hoặc có thể mời một người đã chuẩn bị sẵn. Sau đó, tự giới thiệu: Chào các bạn nhỏ. Hôm nay chúng ta sẽ học đến những trang phục mà người trong thời đại Kinh Thánh mặc, tôi là giáo viên đặc biệt của các em. Nhìn áo quần tôi đang mặc, các em có thể biết được trang phục của những người trong thời đại Kinh Thánh khác với những gì chúng ta đang mặc ngày nay (Mời em nào đã hoàn thành “Mặc quần áo” trong phần Sinh Hoạt Đầu Giờ giới thiệu sản phẩm của mình cho các bạn xem).

1. Vào đề.

Áo quần của nhân vật trong thời đại Kinh Thánh tốn nhiều thời gian để may hơn so với ngày nay (Mời các em kể ra các bước cần thực hiện khi may quần áo trong phần sinh hoạt đầu giờ “Con chiên và quần áo”). Vì may quần áo tốn nhiều thời gian và công sức, nên quần áo rất quí giá. Những người mặc quần áo bằng vải tốt, được cắt may khéo léo, đẹp đẽ, có thể chứng tỏ mình là người giàu có. Câu chuyện hôm nay sẽ cho các em biết về một số trang phục của người xưa.

2. Bài học.

a. A-can và chiếc áo choàng đẹp.

Cô (thầy) sẽ giới thiệu cho các em một người lính trong Kinh Thánh tên là A-can. Một lần nọ, A-can cùng những người lính Y-sơ-ra-ên đi chiến đấu. Đức Chúa Trời ra lệnh không được lấy bất cứ thứ gì sau khi chiến thắng quân thù. Nhờ Đức Chúa Trời giúp đỡ, quân Y-sơ-ra-ên thắng trận, họ tiến vào thành trong tiếng hò reo chiến thắng. Chính lúc đó, A-can nhìn thấy chiếc áo choàng đẹp đẽ và một số vàng bạc quí giá khác nữa. Lòng tham nổi lên, A-can lén lấy đem về trại của mình giấu thật kỹ. Sau đó, vị chỉ huy điều tra và biết A-can không tuân lệnh, nên xử phạt anh ta rất nặng.

Từ câu chuyện nầy các em có thể thấy chiếc áo choàng tốt đẹp đối với A-can cũng quan trọng như vàng bạc. Và điều đáng buồn là những thứ nầy đối với anh ta còn quan trọng hơn cả vâng lời Chúa.

b. Chiếc áo của Giô-na-than tặng Đa-vít.

Vào thời đại Kinh Thánh, quần áo đối với người thời đó rất quí. Một trong những câu chuyện mà cô (thầy) rất thích, đó là câu chuyện Giô-na-than tặng áo cho Đa-vít.

Từ khi đánh thắng người khổng lồ Gô-li-át, Đa-vít được sống bên cạnh vua Sau-lơ cùng gia đình ông. Ở đó Đa-vít quen biết Giô-na-than là con trai của vua Sau-lơ, và họ trở thành một đôi bạn tốt (dán hình 2 lên bảng, đem hình 3 (áo choàng) đặt vào tay của Giô-na-than). Như các em biết, bạn tốt thường giúp đỡ lẫn nhau. Một hôm, Giô-na-than tặng Đa-vít chiếc áo choàng quí giá mà các hòang tử thường mặc (Đem hình áo choàng từ tay của Giô-na-than sang hình của Đa-vít. Khi nói đến những thứ có liên quan thì đem hình 4 và 5 từ hình Giô-na-than sang hình Đa-vít).  Giô-na-than còn tặng cho Đa-vít áo giáp, đai thắt lưng, kiếm cung của mình. Giô-na-than muốn bày tỏ cùng Đa-vít rằng, anh ta mong muốn mãi mãi là bạn của Đa-vít. Đa-vít cũng mong muốn mãi là bạn của Giô-na-than khi nhận những món quà nầy. Họ là bạn tốt của nhau suốt đời.

c. Đô-ca may áo cho người khác.

Những câu chuyện mà các em vừa nghe đều xảy ra trước khi Chúa Giê-xu giáng sinh nhiều năm, và được chép trong Kinh Thánh Cựu Ước. Vào thời đại sau khi Chúa Giê-xu giáng sinh, quần áo vẫn tương đối quan trọng. Có một phụ nữ tên là Đô-ca thường may áo cho những người nghèo khổ. Một hôm, bà bị bệnh và qua đời. Bạn bè của bà vô cùng thương tiếc. Nghe tin ông Phi-e-rơ đang ở trong thành phố gần đó, họ liền sai người mời ông xuống gấp. Đến nơi, họ đưa ông lên căn phòng trên gác. Các bà góa đứng bên ông khóc lóc và đưa cho Phi-e-rơ xem những chiếc áo choàng, áo dài mà bà Đô-ca đã may cho, họ nhớ lại tấm lòng và sự quan tâm của bà Đô-ca đối với họ. Ông Phi-e-rơ mời các góa phụ ra khỏi phòng, rồi quì gối cầu nguyện. Sau khi cầu nguyện xong, Phi-e-rơ đứng dậy gọi: “Đô-ca, hãy vùng dậy”. Bà Đô-ca mở mắt, trông thấy Phi-e-rơ liền ngồi dậy. Ông Phi-e-rơ đưa tay đỡ bà đứng lên, rồi gọi các tín hữu và những bà góa vào phòng, cho gặp người vừa sống lại.

Mọi người đều vui mừng vì Đức Chúa Trời nhậm lời cầu nguyện của Phi-e-rơ, cho Đô-ca sống lại. Qua việc đó, có rất nhiều người tin nhận Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời. Và chắc có lẽ bà Đô-ca sẽ tiếp tục may áo cho những góa phụ cần được giúp đỡ.

3. Ứng dụng.

Bài học nầy giúp các em biết những sự khác nhau của trang phục thời nay và thời Kinh Thánh. Nhưng có một điều, dù ở bất cứ thời đại nào, thái độ của con người đối với việc ăn mặc cũng đều giống nhau. Người ta thường lo lắng về việc ăn mặc, nhưng Chúa bảo chúng ta đừng lo lắng, vì Ngài biết rõ nhu cầu của chúng ta và ban cho đủ mọi sự cần dùng.

Theo sự gợi ý trong sách học viên, cho các em trả lời phần “Quà tặng cho Đa-vít”. Sau đó hỏi để các em chia sẻ: Giô-na-than tặng áo choàng, kiếm, cung, dây thắt lưng cho Đa-vít để bày tỏ điều gì? Nếu Đa-vít và Giô-na-than sống trong thời nay, em thử nghĩ xem Giô-na-than sẽ tặng cho Đa-vít thứ gì?

Trong phần “Xưa và nay”, giáo viên dựa vào gợi ý trong tập học viên, hướng dẫn các em trả lời. Giáo viên đọc những câu hỏi trong hình vẽ cách rõ ràng.

Đáp án: Hình cặp thứ 1: v x; thứ 2: v x; thứ 3: v x; thứ 4: v v.

C. SINH HOẠT THỰC HÀNH.

* Tô màu ghép hình.

1. Vật liệu: Trang tài liệu B hình 6 trong sách giáo viên, bút màu.

2. Chuẩn bị: Photo lớn hình 6, cắt dọc theo đường viền thành 8 phần (nếu các em đông, giáo viên có thể làm hai bộ hình hoặc cắt thành mười phần như khăn choàng và áo choàng cắt rời ra v. v…). Sau đó chia cho mỗi em một tấm, cho các em tô màu lên hình đó, rồi mời các em đem hình ghép lên bảng.

BÀI 2. TRANG PHỤC TRONG THỜI ĐẠI KINH THÁNH (HV)

I. KINH THÁNH: Giô-suê 6:17-19; 7:19; 1Sa-mu-ên 18:1-4; (Công Vụ
9:36-43).
II. CÂU GỐC: “Còn về phần quần áo, các ngươi lại lo lắng mà làm
chi? …Cha các ngươi ở trên trời vốn biết các ngươi cần dùng
những điều đó rồi” (Ma-thi-ơ 6:28a, 32b).
III. BÀI TẬP.
A. QUÀ CỦA GIÔ-NA-THAN TẶNG ĐA-VÍT.
Tô màu lên những thứ Giô-na-than tặng Đa-vít.

B. XƯA VÀ NAY.
– So sánh từng cặp hình vẽ, sau đó trả lời.
– Hình nào đúng, đánh dấu “V” vào ô vuông, hình nào sai, thì đánh
dấu “X”.