Chuyên mục: NHI ĐỒNG

BÀI 1.  CÁC CÔNG VIỆC TRONG THỜI ĐẠI KINH THÁNH (GV-HV)

BÀI 1.  CÁC CÔNG VIỆC TRONG THỜI ĐẠI KINH THÁNH (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ IV. 2016 on 23 Tháng Bảy, 2018

BÀI 1.  CÁC CÔNG VIỆC TRONG THỜI ĐẠI KINH THÁNH (GV)

I. KINH THÁNH: Ru-tơ 2:1-17; Công Vụ 16:11-15.

II. CÂU GỐC: “Nàng… lạc ý lấy tay mình mà làm công việc” (Châm ngôn 31:13).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: So sánh các việc làm trong thời Bô-ô và Ly-đi với nông dân và thương nhân ngày nay có gì khác nhau.

– Cảm nhận: Các công việc của nông dân hay thương nhân đều có ích.

– Hành động: Trong tuần, em chọn làm một việc hợp với khả năng để giúp đỡ những người chung quanh.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

Giáo viên dựa vào hoàn cảnh thực tế, hướng dẫn các em tiến hành hai sinh hoạt gây hứng thú sau, hoặc chọn lấy một.

* Đề nghị 1: Ghép đôi.

1. Vật liệu: Trang tài liệu A trong sách giáo viên.

2. Chuẩn bị: Photo trang tài liệu A (gồm 2 phần: Hình và chữ). Tô màu phần hình, sau đó cắt tất cả ra thành hai bộ thiệp ghép đôi (một bộ thiệp ghép đôi gồm: 5 tấm hình và 5 tấm giấy có chữ cho mỗi hình).

Chia các em thành hai nhóm, phát cho mỗi nhóm một bộ thiệp ghép đôi. Hướng dẫn các em tiến hành ghép đôi các tấm thiệp hình và chữ như sau:

1. Tìm hình một phụ nữ (Gợi ý: Dưới góc hình đó có một ngôi sao).

2. Người phụ nữ đó là một góa phụ, góa phụ có nghĩa là chồng của bà ta đã chết. Vào thời đại Kinh Thánh, góa phụ không được hưởng gia tài của người chồng để lại. Vì thế họ rất nghèo, cần được sự giúp đỡ của người khác.

3. Tìm mảnh giấy có ghi từ “góa phụ”.

4. Vẽ một ngôi sao dưới góc tờ giấy nầy.

5. Tìm hình vẽ có ký hiệu hình vuông, hình này miêu tả vào thời đại Kinh Thánh, người ta gặt lúa trong đồng ruộng. Đàn ông phụ trách gặt hái, phụ nữ và trẻ em đem những bông lúa đã gặt bó thành từng bó.

6. Tìm tờ giấy có ghi từ “thu hoạch”. Vẽ dưới góc ký hiệu hình vuông.

7. Tìm hình vẽ có ký hiệu hình tròn, đây là một con dao đặc biệt, nó vừa dài vừa cong, chuyên dùng để gặt hái.

8. Con dao đó được gọi là “lưỡi liềm”. Vẽ ký hiệu hình tròn vào tờ giấy.

9. Tìm hình vẽ có ký hiệu hình bán nguyệt, góa phụ này đang lượm những bông lúa còn sót lại (Những bông lúa rơi lại sau khi đã cột thành từng bó). Vào thời đại Kinh Thánh, Đức Chúa Trời phán rằng, phải cho những người nghèo khó lượm những bông lúa rơi trên đồng ruộng.

10. Tìm tờ giấy có ghi từ “mót lúa”. Vẽ ký hiệu hình bán nguyệt vào tờ giấy.

11. Hình vẽ cuối cùng có nghĩa là gì đây? Đúng rồi, người đàn ông nầy đang đập lúa, những hạt lúa rơi chung quanh, việc nầy được gọi là “đập lúa”.

12. Tìm tờ giấy có ghi từ “đập lúa”. Vẽ ký hiệu hình tam giác vào tờ giấy.

13. Ghép đôi những hình vẽ và tờ giấy lại theo ký hiệu (Cho các em đem những hình vẽ và tờ giấy dán lên bảng).

B. BÀI HỌC KINH THÁNH

(Chuẩn bị thị cụ: Photo lớn trang tài liệu A hình 1-13 trong sách giáo viên, trang tư liệu A trong tập học viên).

  1. Vào đề.

Đức Chúa Trời tạo dựng nên mỗi người có sở thích và khả năng khác nhau, Chúa cho chúng ta tự do lựa chọn những công việc khác nhau để làm. Em thử kể ra một số công việc mà những người em biết đang làm? Họ là công nhân, nông dân, giáo viên, thầy thuốc…

Kinh Thánh cho chúng ta biết một số công việc mà những ngươi thời xưa đã làm (Cho các em xem hình, dùng những hình nầy làm ví dụ). Bài học nầy sẽ cho các em biết rõ hơn về các công việc mà người ta làm trong thời đại Kinh Thánh.

2. Bài học.

a. Câu chuyện của người nông dân.

Kinh Thánh kể rằng: Bô-ô là một nông gia rất giàu có. Lúc ấy, những cánh đồng ngút ngàn, cò bay thẳng cánh của ông đang vào mùa thu hoạch (cho các em xem hình 1). Những người làm công cho Bô-ô đang thoăn thoắt cắt những bông lúa trĩu nặng bằng chiếc lưỡi liềm bén ngót, cong vút. Sau đó, phụ nữ và trẻ em gom những bông lúa đã cắt bó lại thành từng bó. Trong mùa thu hoạch mọi người đều rất bận rộn.

Một hôm, ông Bô-ô đến thăm một trong những cánh đồng của mình, ông thấy một phụ nữ đang mót những bông lúa mà những thợ gặt làm rơi lại. Bô-ô chưa từng gặp người nầy bao giờ, ông hỏi những người làm công: “Người phụ nữ đó là ai?” Người ta trả lời: “Đó là dâu của bà Na-ô-mi, tên là Ru-tơ”. Tuy chưa từng gặp Ru-tơ, nhưng ông Bô-ô có nghe rằng chồng cô đã qua đời – như vậy, cô ta là một góa phụ (Đưa ra hình 1 và mời một em tìm tờ giấy có ghi từ “góa phụ”). Ông Bô-ô cũng biết bà Na-ô-mi là một góa phụ, vì ông là bà con xa với gia đình chồng bà. Bô-ô còn biết, Ru-tơ không trở về nhà cha mẹ mình mà quyết định ở lại sống cùng Na-ô-mi. Ông biết Ru-tơ yêu thương Na-ô-mi, sẵn lòng giúp đỡ Na-ô-mi trong lúc tuổi già. Vì thế, ông Bô-ô quyết định giúp đỡ Ru-tơ. Ông bảo Ru-tơ cứ tiếp tục mót lúa trong ruộng của mình, cũng như được uống nước trong bình như các thợ gặt khác. Đến giờ ăn, Bô-ô gọi Ru-tơ: “Đến đây ăn với chúng tôi”. Bô-ô đem bánh và hột mạch rang cho Ru-tơ ăn no nê. Phần còn dư lại, Ru-tơ nghĩ thầm: “Mình sẽ gói đem về cho mẹ. Nhất định mẹ mình rất thích những hột mạch rang nầy”.

Sau đó, Ru-tơ tiếp tục mót lúa. Ông Bô-ô dặn những người giúp việc: “Hãy để cho nàng mót lúa bất cứ nơi đâu. Thỉnh thoảng rút ra ít bông lúa bỏ cho nàng nhặt”. Còn Ru-tơ cứ mãi miết mót nhặt đến chiều tối, Ru-tơ rất vui vì số lúa có được nhiều hơn so với suy nghĩ. Nhờ sự nhân từ của Bô-ô mà Ru-tơ và Na-ô-mi có đủ lương thực để sống trong những ngày khó khăn.

b. Câu chuyện của người thương gia.

Buôn bán là một công việc quan trọng ngày nay. Đó cũng là một công việc quan trọng trong thời đại Kinh Thánh. Những người làm công việc nầy được gọi là thương gia.

Vào thời đại Kinh Thánh, đa số các cửa hiệu trong thành phố đều tập trung tại một khu vực, được gọi là chợ. Các cửa hiệu đều hướng về mặt đường (cho các em xem hình).

Kinh Thánh Tân Ước có nói đến một thương nhân tên là Ly-đi (Mở Kinh Thánh Công vụ 16, đồng thời đưa ra hình 12). Bà Ly-đi có một cửa tiệm buôn bán hàng sắc tía. Vào thời đó, hàng sắc tía rất quí, chỉ có những người giàu có sang trọng mới mặc những áo quần bằng loại vải nầy. Quần áo của vua chúa và những người bà con của họ đều may bằng hàng sắc tía.

Bà Ly-đi buôn bán hàng sắc tía, đương nhiên là rất giàu có. Trong căn nhà rộng lớn bà có rất nhiều người giúp việc. Kinh Thánh còn cho chúng ta biết, bà Ly-đi là người yêu mến Đức Chúa Trời. Cứ mỗi thứ bảy, bà đều cùng một vài phụ nữ cầu nguyện bên bờ sông. Vào một thứ bảy nọ, khi những phụ nữ nầy đang cầu nguyện, sứ đồ Phao-lô đến trò chuyện với họ. Ông phát hiện họ vẫn chưa hiểu biết về Chúa Giê-xu. Phao-lô liền giải thích cho họ biết, Chúa Giê-xu là Con Một của Đức Chúa Trời, Ngài đã chịu chết trên thập tự giá để loài người được tha tội. Tiếp sau đó, Phao-lô cho họ biết Chúa Giê-xu đã từ kẻ chết sống lại và hiện nay đang ngồi bên hữu Đức Chúa Trời để cầu thay cho loài người.

Bà Ly-đi nhận biết những lời Phao-lô nói là thật, bà tin Chúa Giê-xu và trở thành một thành viên trong gia đình của Chúa. Rồi bà mời Phao-lô cùng bạn của ông đến thăm nhà bà và ở với gia đình bà một thời gian để rao giảng Tin Lành.

3. Ứng dụng

Hướng dẫn các em trả lời các câu hỏi sau: Bô-ô giúp đỡ Ru-tơ bằng cách nào? Thương nhân Ly-đi làm thế nào để giúp đỡ Phao-lô và bạn của ông? Em có cho rằng Bô-ô và Ly-đi đều thích công việc của mình không? Vì sao?

Trong phần trắc nghiệm, giáo viên dựa vào gợi ý trong tập học viên hướng dẫn các em chia sẻ: Nhận biết công việc của Bô-ô và Ly-đi có giúp em hiểu biết về Kinh Thánh hơn không? Các em sẽ làm gì để giúp đỡ người chung quanh mình? (Những gì được Kinh Thánh chép lại đều là người thật việc thật).

BÀI 1. CÁC CÔNG VIỆC TRONG THỜI ĐẠI KINH THÁNH (HV)

I. KINH THÁNH: Ru-tơ 2:1-17; Công Vụ 16:11-15.

II. CÂU GỐC: “Nàng … lạc ý lấy tay mình mà làm công việc” (Châm

ngôn 31:13).

III. BÀI TẬP.

A. CÁC CÔNG VIỆC XƯA VÀ NAY.

Nối các công việc của Bô-ô và các công việc tương tự hiện nay

lại với nhau. Dùng cách như vậy tìm ra công việc ngày nay tương tự với công việc của Ly-đy ngày xưa.

B. TRẮC NGHIỆM.
Đánh dấu “x” vào hình vẽ không đúng.
– Người mót lúa là người …
– Những ai thường đến mua hàng
sắc tía?
– Dụng cụ mà người nông dân dùng
để gặt lúa.
– Các cửa hiệu trong thời đại Kinh
Thánh …

 

BÀI 13. BÀI ÔN (GV-HV)

BÀI 13. BÀI ÔN (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ III. 2016 on 20 Tháng Bảy, 2018

BÀI 13. BÀI ÔN (GV-HV)

I. KINH THÁNH: Tất cả các đoạn Kinh Thánh đã học trong quí.

II. CÂU GỐC: Tất cả những câu gốc đã học trong quí.

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Qua đời sống của Đa-vít, Đức Chúa Trời đã thực hiện lời hứa của Ngài cho dòng dõi ông.

– Cảm nhận: Sống đẹp lòng Chúa sẽ nhận được phước hạnh Chúa ban.

– Hành động: Em quyết tâm sống đẹp lòng Chúa.

III. ÔN CÂU GỐC.

Chuẩn bị giấy trắng tương ứng với số hiện diện của các em. Giáo viên viết một câu gốc lên mỗi mẫu giấy, nhưng không viết địa chỉ hoặc viết địa chỉ nhưng không viết câu gốc (những câu gốc đã học trong quí). Gọi từng em lên bốc thăm và nói lên địa chỉ hoặc câu gốc còn thiếu. Em nào đáp đúng được thưởng một chiếc kẹo.

IV. PHẦN ÔN BÀI.

Bạn phải nắm vững nội dung của mỗi bài, điểm lại những ý nào nên nhấn mạnh, những ý nào nên lướt.

Bạn ôn bài theo thứ tự. Có thể thay đổi theo các cách ôn sau đây.

  1. Gắn hình (nếu có) của mỗi truyện tích lên bảng. Cho các em nói tên nhân vật, công việc của họ; gợi ý bằng những câu hỏi để giúp các em nhớ hết câu chuyện. Bạn cho các em nói luôn phần ứng dụng. Sau đó bạn sơ lược câu chuyện, nhấn mạnh những điểm chính, nêu lên sự dạy dỗ để các em có thể nắm vững những điều đã học.
  2. Kể lại câu chuyện em thích và nhớ nhất.
  3. Giáo viên nhắc lại đặc điểm của mỗi nhân vật nhưng không dùng tên, chỉ dùng từ “tôi” để hỏi các em: “Tôi là ai?” Ví dụ: “Tôi có một người bạn thân đàn hát rất hay. Tôi là ai?”

 

BÀi 12.  ĐỨC CHÚA TRỜI HOÀN THÀNH LỜI HỨA (GV-HV)

BÀi 12.  ĐỨC CHÚA TRỜI HOÀN THÀNH LỜI HỨA (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ III. 2016 on 20 Tháng Bảy, 2018

BÀi 12.  ĐỨC CHÚA TRỜI HOÀN THÀNH LỜI HỨA

I. KINH THÁNH: Lu-ca 1:26-35; 2:1-7.

II. CÂU GỐC: “Ấy là hôm nay tại thành Đa-vít đã sanh cho các ngươi một Đấng Cứu Thế, là Christ, là Chúa” (Lu-ca 2:11).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Lời hứa của Đức Chúa Trời với Đa-vít đã trở thành sự thật. Ngài sai Chúa Giê-xu giáng sinh trong dòng dõi vua Đa-vít.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời luôn giữ lời hứa.

– Hành động: Cảm tạ Đức Chúa Trời đã ban Chúa Cứu Thế như lời Ngài hứa.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A.SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Gợi ý 1: Bối cảnh Kinh Thánh.

1. Mục đích: Giúp các em ôn lại chuyện Chúa Giê-xu giáng sinh ở Bết-lê-hem.

2. Vật liệu: Tập học viên bài 12, một tấm xốp 45 x 30cm làm mô hình, giấy nhám hoặc giấy màu xám làm đường đi, giấy màu xanh làm dòng suối, đất sét làm núi, giấy cứng làm thành Bết-lê-hem và Na-xa-rét, vài sợi kẽm 6 x 15cm để làm người, giấy màu hoặc vải làm quần áo, kéo, keo dán.

3. Thực hiện:

– Giáo viên căn cứ theo tập học viên, bài 12 để làm đường đi, dòng sông, thành Bết-lê-hem, Na-xa-rét, núi.

– Đến lớp, hướng dẫn các em mở tập học viên làm mô hình Chúa Giê-xu giáng sinh. Dán hình đường đi, sông, núi, thành Bết-lê-hem, Na-xa-rét vào tấm xốp. Sau đó giúp các em làm hình người bằng dây kẽm.

– Khi các em làm xong, giáo viên nói: “Ngày xưa, Ma-ri và Giô sép từ thành Na-xa-rét đến Bết-lê-hem theo con đường này. Họ phải vượt qua nhiều đồi núi, lội qua sông”, giáo viên vừa nói vừa cắm hình người bằng kẽm vào mô hình.

– Khuyến khích các em kể lại chuyện Chúa Giê-xu giáng sinh. Có thể vừa kể vừa di chuyển hình người trên mô hình để minh họa. Đến đoạn thiên sứ báo tin cho Ma-ri tại Na-xa-rét, giáo viên đặt câu hỏi: “Chúa Giê-xu giáng sinh tại thành nào?”

* Gợi ý 2: Ráp câu gốc.

1. Mục đích: Giúp các em mau thuộc câu gốc.

2. Vật liệu: Cắt giấy cứng ra thành nhiều tờ hình vuông (3 x 3cm), viết màu, kéo, bì thư (mỗi nhóm một cái).

3. Thực hiện:

– Dùng bút màu ghi câu gốc lên giấy hình vuông (mỗi tờ một chữ) rồi bỏ vào bao thư.

– Chia các em thành nhiều nhóm nhỏ, mỗi nhóm nhận một bao thư, xem nhóm nào xếp nhanh nhất và giải thích được ý nghĩa của câu gốc.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH

(Chuẩn bị thị trợ: Kinh Thánh, mô hình “Bối cảnh Kinh Thánh” trong phần “sinh hoạt đầu giờ”, tập học viên bài 12).

1. Vào đề

Các em thân mến, các em còn nhớ vua Đa-vít yêu mến Đức Chúa Trời nên muốn xây dựng gì cho Ngài?” (Đền thờ). “Tiên tri Na-than báo cho Đa-vít biết điều gì?” (Đức Chúa Trời muốn con của vua Đa-vít sẽ xây dựng đền thờ cho Ngài). Đức Chúa Trời cho Đa-vít biết chương trình đặc biệt của Ngài khi ban cho ông lời hứa kỳ diệu. “Lời hứa ấy là gì?” (Ngài sẽ sai một vị Vua vĩ đại đến thế gian. Vị vua đó được sinh ra từ dòng dõi Đa-vít và sẽ làm vua đời đời).

2. Bài học.

Một hôm, Đức Chúa Trời cho biết Cứu Chúa sắp đến. Trước tiên, Ngài sai thiên sứ báo tin cho Ma-ri, các em còn nhớ đó là tin gì không? (Cho các em trả lời). Tin tức mà thiên sứ báo cho Ma-ri nhắc các em về điều gì? (Lời hứa của Đức Chúa Trời với Đa-vít). Bấy giờ, Ma-ri biết rằng Chúa Cứu Thế sắp đến thế gian và biết mình sẽ là mẹ của Ngài.

Em nào nhớ Ma-ri sống ở đâu? (Na-xa-rét). Con Thánh sinh ra ở đâu? (Bết-lê-hem). Đây là những sự kiện quan trọng vì là lời hứa của Đức Chúa Trời. Bây giờ các em xem sự việc xảy ra như thế nào nha.

Một hôm, Sê-sa Au-gút-tơ ra lệnh phải lập sổ bộ cho cả dân sự. Như vậy, Giô-sép và Ma-ri phải đi đâu để khai tên vào sổ? Họ đến Bết-lê-hem, vì Giô-sép, chồng của Ma-ri là dòng dõi vua Đa-vít nên phải về quê hương của Giô-sép để đăng ký sổ bộ. (Cho các em cùng thực hiện phần “Sinh hoạt đầu giờ 1”, dùng “Bối cảnh Kinh Thánh thuật chuyện).

Đêm đó, Con của Đức Chúa Trời giáng sinh. Ngài được sinh ra từ dòng dõi Đa-vít và ngay tại thành Đa-vít là Bết-lê-hem, ứng nghiệm lời Đức Chúa Trời phán trong Kinh Thánh (cho các em đọc Kinh Thánh Lu-ca 2:11). Hỏi các em vì sao gọi là thành Đa-vít?

Như vậy, Đức Chúa Trời đã hoàn thành lời hứa của mình. Giờ đây, Chúa Giê-xu đang ngự trên trời, nhưng một ngày nào đó Ngài sẽ trở lại và làm Vua đời đời. Đó là lúc lời Đức Chúa Trời hứa với Đa-vít hoàn thành trọn vẹn.

3. Ứng dụng.

Đức Chúa Trời biết tất cả các em đều cần đến Cứu Chúa là Đấng đã gánh lấy tội lỗi. Đó là Chúa Giê-xu và qua Ngài, các em được làm hòa với Đức Chúa Trời, được tha thứ mọi tội lỗi để trở nên con cái Ngài (đọc Kinh Thánh Giăng 1:12). Đức Chúa Trời hứa rằng, Ngài sẽ làm thành những điều đã phán (Ê-xê-chi-ên 36:36). Vì biết Đức Chúa Trời luôn thực hiện lời Ngài hứa nên các em có thể đặt trọn lòng tin nơi lời hứa của Ngài.

– Nếu em nào muốn biết nhiều hơn về Cứu Chúa Giê-xu và sự tha tội của Ngài, mời các em đến nói chuyện với cô (thầy) để có thể hiểu rằng lời hứa của Chúa với các em là chân thật. Sau giờ học, giáo viên có thể trò chuyện với những em chưa tin Chúa.

– Hướng dẫn các em cầu nguyện cảm tạ tình thương của Chúa Cứu Thế đối với các em, xin Đức Chúa Trời tha thứ mọi tội lỗi và cảm tạ về lời hứa của Ngài. Sau cùng, giáo viên cầu nguyện kết thúc.

BÀI 12. ĐỨC CHÚA TRỜI HOÀN THÀNH LỜI HỨA

I. KINH THÁNH: Lu-ca 1:26-35; 2:1-7.

II. CÂU GỐC: “Ấy là hôm nay tại thành Đa-vít đã sanh cho các ngươi một Đấng Cứu Thế, là Christ, là Chúa” (Lu-ca 2:11).

III. BÀI TẬP.

A. CON RỐI: CÂU CHUYỆN CHÚA GIÊ-XU GIÁNG SINH.

Nhân vật: Ma-ri, Giô-sép, em bé Giê-xu, thiên sứ, con lừa. (Dùng dây kẽm, giấy màu hoặc vải để làm con rối như hình vẽ).

Nội dung

 

Ít lâu sau…

 

Thế là Ma-ri và Giô-sép rời Na-xa-rét đến Bết-lê-hem. Tại đó, Con Đức Chúa Trời giáng sinh, đúng như lời Ngài đã hứa.

 

 

 

B. MÔ HÌNH TRUYỆN KINH THÁNH

1. Làm mô hình truyện Kinh Thánh, tượng trưng đường từ Na-xa-rét đến Bết-lê-hem.

– Dùng giấy nhám hoặc giấy màu xám làm đường đi.

 

– Dùng giấy màu xanh dương làm dòng suối.

 

 

– Dùng đất sét làm núi.

 

 

– Dùng giấy cứng làm thành, cắm lên đất sét hay cát.

 

Tặng thiệp này cho bạn và mời tham dự lớp Trường Chúa Nhật, hoặc đặt lên bàn để nhắc mình luôn cảm tạ Đức Chúa Trời.

IV. PHỤ LỤC.

CẢM ƠN.

1. Ai đã giúp đỡ hoặc đối xử tốt với em?

………………………………………………………………………………………….

2. Người ấy đã làm gì cho em? ………………………………………..

– Em có cần cảm ơn người đó không?

– Em có yêu thương người đó không?

* Dưới đây là một vài cách bày tỏ lòng biết ơn.

THIỆP CẢM ƠN.

– Cắt một tờ giấy cứng.

– Viết vài lời cảm ơn.

– Dùng bút màu hoặc giấy màu trang trí cho đẹp.

CÂY CẢM ƠN.

Tìm một cành cây khô, cắm vào đất hoặc xốp. Làm một tấm thiệp, một mặt ghi tên người nhận, một mặt ghi vài lời cảm ơn.

Xỏ chỉ treo lên cành cây. Đặt trong nhà, trong lớp Trường Chúa Nhật hay tặng cho người đã giúp mình.

 

TRỒNG CÂY.

* Vật liệu:

– Một vỏ hộp hoặc lon rỗng.

– Đất và nước.

– Giấy hoa.

– Keo dán, kéo.

* Cách làm:

a. Dán giấy hoa chung quanh hộp.

2. Đổ đất vào, gieo hạt giống hoặc trồng cây.

3. Tưới nước.

4. Tặng người đã giúp đỡ hoặc đối xử tốt với em.

 

 

BẢNG THÀNH TÍCH

Những hình dưới đây ghi lại thành tích của em trong lớp học Trường Chúa Nhật. Mỗi hình chia làm hai phần: A – Hiện diện, B – Câu gốc.

Tuần nào em có đi học Trường Chúa Nhật, tô màu phần A, thuộc câu gốc, tô màu phần B. Hãy cố gắng lên để những búp bê của em có nhiều sắc màu đẹp đẽ.

Tên của em……………..……………………………………………………………

 

LỜI GÓP Ý CỦA GIÁO VIÊN.

 

Giáo viên……………………….

BÀI 11.  LỜI HỨA ĐƯỢC THỰC HIỆN (GV-HV)

BÀI 11.  LỜI HỨA ĐƯỢC THỰC HIỆN (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ III. 2016 on 19 Tháng Bảy, 2018

BÀI 11.  LỜI HỨA ĐƯỢC THỰC HIỆN (GV)

I. KINH THÁNH: Lu-ca 1:26 – 56.

II. CÂU GỐC: “Phước cho người đã tin, vì lời Chúa truyền cho sẽ được ứng nghiệm” (Lu-ca 1:45).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Ma-ri tin cậy và hết lòng cảm tạ Chúa khi thiên sứ báo tin bà sẽ làm mẹ của Chúa Giê-xu.

– Cảm nhận: Vì yêu thương các em nên Đức Chúa Trời sai Con Một của Ngài đến thế gian làm Cứu Chúa các em.

– Hành động: Các em có thể cầu nguyện, ca hát hoặc vẽ tranh để bày tỏ niềm tin và lòng biết ơn Chúa.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ

* Làm thiệp (dùng để kẹp vào sách).

1. Mục đích: Giúp các em ôn lại lời của Đức Chúa Trời. Trong Kinh Thánh Cựu ước, Ngài hứa ban cho chúng ta Cứu Chúa, và lời hứa đó đã được thực hiện trong Tân ước.

2. Vật liệu: Tập học viên bài 11, giấy bìa màu, giấy bìa trắng (kích cỡ tùy ý, có thể làm nhỏ để làm thẻ ngăn sách), bút chì, bút màu, keo dán.

3. Thực hiện: Cho các em mở tập học viên bài 11, đọc phần bài học và làm bài tập.

Sau đó, cho các em làm thiệp. Trước tiên, viết lại câu Kinh thánh (nói về lời hứa của Đức Chúa Trời và sự thành tựu của lời hứa đó) trên giấy bìa trắng, dán lên hai mặt của giấy bìa màu. Có thể vẽ hình ảnh tuỳ thích vào chỗ trống để trang trí.

Sau khi làm xong, hỏi các em: “Phần đầu của Kinh thánh gọi là gì?” (Cựu ước). “Phần sau của Kinh Thánh gọi là gì?” (Tân ước). “Trong Cựu ước Đức Chúa Trời đã hứa những gì?” và “Đức Chúa Trời đã thực hiện lời hứa đó như thế nào?” (Xem hai câu Kinh thánh viết trên tấm thiệp) “Sách nào trong Kinh thánh cho chúng ta biết những điều ấy?”

A. BÀI HỌC KINH THÁNH

(Chuẩn bị: Kinh Thánh, con rối giấy thiên sứ và Ma-ri, sân khấu bằng hộp giấy (xem phụ lục).

  1. Vào đề

Tuần trước, các em đã biết Đức Chúa Trời hứa với Đa-vít một điều kỳ diệu. Khi Đa-vít đang làm vua, điều ấy chưa xảy ra, nhưng ông có tin rằng Đức Chúa Trời sẽ thực hiện lời hứa đó không? Đa-vít thể hiện đức tin mình như thế nào? (Cảm tạ Chúa về lời hứa của Ngài). Em nào còn nhớ câu gốc trong Ê-xê-chi-ên 36:36 không? (Cho các em đọc chung). Bây giờ mời các em lắng nghe câu chuyện hôm nay, xem Đức Chúa Trời thực hiện lời Ngài hứa với Đa-vít như thế nào?

  1. Bài học.

Hàng mấy trăm năm trôi qua, người ta trông đợi lời hứa của Đức Chúa Trời trở thành hiện thực. Ngài thường nhắc đến vị vua sẽ đến thế gian, nhưng chẳng hề nói khi nào điều đó được thực hiện. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời cho biết vị vua đó sẽ sinh ra tại Bết-lê-hem, nơi sinh trưởng của Đa-vít.

Cho đến một hôm, Đức Chúa Trời đã báo tin đặc biệt nầy cho Ma-ri, cô gái dịu hiền vừa mới hứa hôn với Giô-sép, một thanh niên thuộc dòng dõi vua Đa-vít… và mọi việc xảy ra như sau… (dùng sân khấu hộp giấy và đặt nhân vật bằng con rối khi thích hợp).

Hôm ấy, Ma-ri đang bận rộn với công việc hằng ngày, thình lình một thiên sứ hiện ra trước mặt làm Ma-ri hoảng hốt. Thiên sứ nói: “Xin chào mừng cô, người được ơn của Chúa! Chúa ở với cô”. Ma-ri không hiểu ý của thiên sứ, lại càng không biết vì sao thiên sứ xuất hiện trước mặt mình nên rất sợ hãi. Thiên sứ liền trấn an cô: “Hỡi Ma-ri, đừng sợ, vì cô được ơn trước mặt Đức Chúa Trời. Cô sắp có thai, sẽ sinh một con trai, và đặt tên là Giê-xu. Con trai đó rất cao trọng, sẽ được xưng là con Đức Chúa Trời”. Ma-ri ngạc nhiên hỏi: “Tôi chưa lập gia đình, làm sao có con được?” Thiên sứ trả lời: “Đức Thánh Linh sẽ giáng trên cô, chẳng việc gì Đức Chúa Trời không làm được”.

Ma-ri liền thưa: “Tôi là tôi tớ Chúa, sẵn sàng vâng theo ý muốn Chúa. Xin Chúa thực hiện mọi điều Ngài nói”.

Thiên sứ đi rồi, để lại trong lòng Ma-ri một cảm giác khó tả, vừa vui mừng vừa lo sợ. Vì Cứu Chúa do Đức Chúa Trời hứa ban sẽ đến thế gian và cô được chọn làm mẹ sinh ra Đấng ấy.

Ma-ri muốn báo tin mừng nầy cho một người bà con tên là Ê-li-sa-bét, hiện đang sống cách đây khá xa. Thế là Ma-ri vội vã thu xếp hành lý lên đường. Sau khi băng đồng vượt núi, trải qua một đoạn đường rất xa, Ma-ri đã đến nơi. Vì đã lâu không có dịp thăm viếng nhau, nên khi gặp mặt họ mừng rỡ vô cùng.

Ê-li-sa-bét nói với Ma-ri: “Cô là người hạnh phúc nhất trong giới phụ nữ! Thai trong lòng cô là phước hạnh lớn lao”. Ma-ri ca ngợi Đức Chúa Trời: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, tâm thần tôi mừng rỡ trong Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa tôi… Bởi Đấng toàn năng đã làm các việc lớn cho tôi. Danh Ngài là thánh” (Lu-ca 1:46, 47, 49).

  1. Ứng dụng.

* Hướng dẫn các em mở tập học viên bài 11 và tìm trong bốn hình vẽ: (1) Thiên sứ báo cho Ma-ri biết tin mừng gì? (2) Ma-ri ca ngợi Đức Chúa Trời như thế nào? Nếu còn thời gian, có thể mời hai em đóng vai thiên sứ, Ma-ri và một em đứng bên làm người dẫn chuyện.

* “Đoạn Kinh Thánh hôm nay báo cho các em một tin lành, đó là tin gì? Xin mời một em nói tin lành nầy cho các bạn khác nghe”.

* Mời các em nghe câu Kinh Thánh sau đây (1Giăng 4:10) để biết vì sao Đức Chúa Trời sai con Ngài đến thế gian “…Ngài đã yêu chúng ta, và sai con Ngài làm của lễ chuộc tội chúng ta”.

* “Tại sao Đức Chúa Trời sai Con Ngài đến thế gian? Chúa Giê-xu trở thành Chúa Cứu Thế của các em có ý nghĩa gì?” Chú ý nghe câu trả lời và quan sát phản ứng của các em khác để giáo viên có thể sửa đổi những suy nghĩ sai lệch và giúp các em hiểu rõ tình yêu thương của Đức Chúa Trời. Hãy cầu nguyên cho các em. Đức Thánh Linh sẽ giúp bạn nhận biết nhu cầu thuộc linh của các em.

Những em được nuôi dưỡng trong một gia đình Tin Lành từ nhỏ đã học tập yêu mến Chúa, trong lòng các em đã chuẩn bị để tiếp nhận Cứu Chúa, thì bạn nên khích lệ để các em nầy quyết định. Còn những em mới nghe đến Tin Lành của Chúa Giê-xu thì chưa nên hối thúc vội.

* “Đức Chúa Trời biết cô, các em và mọi người trên thế gian nầy đều cần một Cứu Chúa, vì tội lỗi của chúng ta đáng chịu hình phạt. Vì yêu thương chúng ta nên Đức Chúa Trời sai Con Ngài đến thế gian để cứu chúng ta. Nhờ Kinh Thánh và các sinh hoạt hằng tuần trong lớp giúp các em mỗi ngày một hiểu biết sâu sắc về tình yêu thương của Đức Chúa Trời hơn”.

* (Mời các em xem hình vẽ cuối cùng). Ma-ri sau khi nghe Tin Lành đã ca ngợi Đức Chúa Trời bằng cách nào? (Ma-ri thuật lại sự vĩ đại của Đức Chúa Trời).

* Sau khi nghe Tin Lành, các em có thể ca ngợi Chúa bằng cách nào?” Cho các em chọn và điền vào chỗ trống trong tập học viên (làm thơ, viết lời cầu nguyện hoặc vẽ một bức tranh – nếu không đủ thời gian, có thể cho các em mang về nhà làm).

* Giáo viên hướng dẫn cầu nguyện kết thúc.

IV. PHỤ LỤC.

* Con rối và sân khấu bằng giấy.

A. CON RỐI GIẤY BÌA: Thiên sứ và Ma-ri.

1. Vật liệu: Giấy bìa trắng, bút chì màu, que kem, băng keo, kéo.

2. Thực hiện: Vẽ phóng to hình mẫu lên giấy rồi tô màu lên. Sau đó, dán que kem lên mặt sau con rối bằng băng keo.

B. SÂN KHẤU RỐI BẰNG GIẤY.

1. Vật liệu: Một cái hộp giấy, hai sợi dây, bút màu, dao, băng keo, kéo.

2. Thực hiện: Úp hộp giấy ngang, dùng mặt bên làm sân khấu, buộc hai sợi dây ở bốn góc, cắt đường khe vừa đủ cắm que kem qua mặt sân khấu (xem hình).

Lật nắp hộp lên, vẽ bối cảnh thích hợp với câu chuyện để làm phông sân khấu (xem hình). Khi sử dụng, đeo hai sợi dây lên vai, để sân khấu trước bụng. Lúc kể chuyện, tuần tự cắm các nhân vật con rối lên sân khấu.

BÀI 11.  LỜI HỨA ĐƯỢC THỰC HIỆN (HV)

I. KINH THÁNH: Lu-ca 1:26 – 56.

II. CÂU GỐC: “Phước cho người đã tin, vì lời Chúa truyền cho sẽ được ứng nghiệm” (Lu-ca 1:45).

III. BÀI TẬP

A. TÔ MÀU

 

Ma-ri! Đừng sợ, vì tôi báo cho cô một tin mừng.

 

Ma-ri đến thăm Ê-li-sa-bét.

B. ĐIỀN VÀO CHỖ TRỐNG.

1. Mở mục lục của Kinh Thánh và điền chữ “Tân” hoặc “Cựu” vào trong ô trống.

Phần thứ nhất của Kinh Thánh gọi là ………..…. ƯỚC

Phần thứ hai của Kinh Thánh gọi là ………… ƯỚC .

– TÂN ƯỚC cho chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời đã giữ đúng lời hứa ban Con Ngài là Chúa GIÊ-XU cho chúng ta.

– CỰU ƯỚC cho chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời hứa ban Chúa Cứu Thế.

2. Bài nầy cho các em biết một ……………..lành và qua đó các em biết …………………………… yêu thương các em vô cùng.

C. EM LÀM GÌ ĐỂ CA NGỢI CHÚA?

*  CA HÁT                 *  VẼ TRANH                        * CẦU NGUYỆN

Chọn một trong ba điều trên rồi viết bài hát, lời cầu nguyện hoặc vẽ tranh vào khoảng trống dưới đây.

 

Bài 10. ĐÁNH BẠI SI-SÊ-RA (GV-HV)

Bài 10. ĐÁNH BẠI SI-SÊ-RA (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ III. 2016, QUÍ III. 2016, THIẾU NHI on 19 Tháng Bảy, 2018

BÀI 10.  ĐÁNH BẠI SI-SÊ-RA (GV)

 I. KINH THÁNH: Các Quan Xét 4.

II. CÂU GỐC: “Trong ngày sợ hãi, tôi sẽ để lòng nhờ cậy nơi Chúa. Tôi nhờ Đức Chúa Trời, và ngợi khen lời của Ngài; tôi để lòng tin cậy nơi Đức Chúa Trời, ắt sẽ chẳng sợ gì” (Thi Thiên 56:3-4).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Ba-rác tin tưởng Đê-bô-ra hơn là nhờ cậy Đức Chúa Trời, nên ông đã sợ hãi khi nhận nhiệm vụ.

– Cảm nhận: Em nhờ cậy Đức Chúa Trời thì không sợ hãi.

– Hành động: Học thuộc lòng những câu Kinh Thánh có thể giúp em chế ngự sự sợ hãi.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

1. Cầu nguyện cho bạn và các em học tập nhờ cậy Chúa để thoát khỏi sự sợ hãi.

2. Chuẩn bị cho phần thủ công, sinh hoạt.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH

  1. Vào đề.

Khi ba mẹ hay thầy cô giáo ở trường giao cho các em một công việc hơi khó một chút, thì các em sẽ phản ứng như thế nào? (Cho các em phát biểu ý kiến). Có lẽ các em cần phải có nhiều sự khích lệ, thậm chí cần có sự giúp đỡ của mọi người thì mới hoàn thành công việc được giao.

Trong bài học Kinh Thánh hôm nay, chúng ta sẽ được biết về một người, người đó phải nhận một công việc rất quan trọng, nhưng trong lòng lại đầy sợ hãi. Vậy chúng ta cùng xem người đó có thái độ và hành động như thế nào trước nhiệm vụ được giao nhé!

  1. Bài học.

Các em còn nhớ trong bài học trước, dân Y-sơ-ra-ên đã hứa nguyện điều gì không? (Cho các em trả lời). Sau khi Giô-suê qua đời, dân Y-sơ-ra-ên vẫn giữ lời hứa của mình trung tín thờ phượng Đức Chúa Trời. Năm tháng trôi qua, họ từ từ quên Đức Chúa Trời, và bị dân Ca-na-an dụ dỗ thờ lạy thần tượng. Đó cũng là hậu quả của việc dân Y-sơ-ra-ên không vâng lời Chúa dặn là tiêu diệt hết dân Ca-na-an khi chiếm xư. Đức Chúa Trời nhiều lần cảnh cáo và nhắc nhở dân Y-sơ-ra-ên, nhưng họ vẫn không thay đổi, nên Ngài dùng tay của dân Ca-na-an sửa phạt họ.

Nhiều năm về trước, Giô-suê từng đánh bại Hát-so. (Ghi tên thành nầy trên bảng). Bây giờ, vì dân Y-sơ-ra-ên bội nghịch Đức Chúa Trời, nên Ngài đã khiến thành Hát-so trở nên hùng mạnh và đàn áp dân Y-sơ-ra-ên. Dân Y-sơ-ra-ên bị lâm vào cảnh khốn cùng, cực khổ trong suốt 20 năm. Họ không còn chịu đựng nổi nữa nên quay lại kêu cầu Đức Chúa Trời giải cứu.

Dân Y-sơ-ra-ên khiếp sợ Si-sê-ra, vị tướng lãnh đạo quân của vua Gia-bin, thành Hát-so. Ai nghe đến tên nầy đều phải kinh hoàng, bạt vía. Người ta sợ vì hắn tàn ác, nhưng cũng vì những khí giới bằng sắt của hắn. Si-sê-ra có đến 900 chiếc xe chiến đấu, và trên mỗi chiếc đều có những chiến sĩ dũng cảm và tài giỏi điều khiển.

(1) Ba-rác được giao nhiệm vụ đánh bại Si-sê-ra.

Tuy dân Y-sơ-ra-ên quên Đức Chúa Trời, nhưng Ngài không bao giờ quên họ. Đức Chúa Trời đã dùng một người để nhắc nhở và khuyên dạy họ làm theo lời Đức Chúa Trời, đồng thời đoán xét dân sự. Người đó là nữ tiên tri Đê-bô-ra. Bản thân Đê-bô-ra cũng phải chịu sự ức hiếp của quân Si-sê-ra, nhưng bà hiểu đó là sự cho phép của Đức Chúa Trời nhằm sửa phạt dân Y-sơ-ra-ên.

Một ngày kia, Đức Chúa Trời bày tỏ cho Đê-bô-ra biết kế hoạch đánh bại quân Si-sê-ra. Bà liền chọn một người tên là Ba-rác để lãnh đạo cuộc chiến nầy. Khi Ba-rác đến, Đê-bô-ra nói cho ông biết kế hoạch của Đức Chúa Trời. Ba-rác được giao nhiệm vụ với lời hứa của Đức Chúa Trời là sẽ chiến thắng Si-sê-ra. Nhưng Ba-rác vẫn sợ hãi.

Quân Si-sê-ra có 900 xe chiến đấu, và vô số binh lính tài giỏi, còn binh lính Y-sơ-ra-ên chỉ là những người dân thường, không hề được huấn luyện để chiến đấu. Càng nghĩ Ba-rác càng lo sợ, ông không đủ can đảm để nhận nhiệm vụ to lớn nầy. Ba-rác nói với Đê-bô-ra: “Nếu bà ra trận với tôi, tôi sẽ đi. Nếu không, tôi không đi đâu!”

Ba-rác không hoàn toàn tin cậy Đức Chúa Trời, nên mới sợ hãi, muốn Đê-bô-ra cùng đi với mình. Đê-bô-ra đáp: “Được rồi, tôi sẽ đi với ông, nhưng sự vinh hiển của việc nầy không thuộc về ông, vì Chúa sẽ phó Si-sê-ra vào tay một người nữ”. Có Đê-bô-ra cùng ra trận, Ba-rác mới đủ can đảm nhận công việc Chúa giao.

(2) Đức Chúa Trời giúp Ba-rác đánh bại Si-sê-ra.

Theo kế hoạch của Đức Chúa Trời, Ba-rác cùng Đê-bô-ra dẫn theo mười ngàn chiến sĩ đi tới núi Tha-bô. Tin nầy tới tai Si-sê-ra. Si-sê-ra lập tức tập trung toàn bộ quân đội và 900 xe sắt của mình chuẩn bị chiến đấu.

Tuy có sự hiện diện của Đê-bô-ra, nhưng Ba-rác cũng không ngăn được nỗi lo sợ khi phải đối đầu với Si-sê-ra. Đê-bô-ra nói với Ba-rác: “Hãy đứng dậy, vì hôm nay là ngày Đức Giê-hô-va phó Si-sê-ra vào tay ông. Có Chúa đi trước ông đó”.

Được sự khích lệ của Đê-bô-ra, Ba-rác dẫn quân xuống núi nghênh chiến đội quân của Si-sê-ra. Đức Giê-hô-va chiến đấu cho dân sự của Ngài, khiến quân của Si-sê-ra thua chạy tán loạn. Dân Y-sơ-ra-ên thừa thắng xông lên tiêu diệt quân địch, còn Si-sê-ra nhảy xuống xe chạy bộ tẩu thoát. Chín trăm xe bằng sắt là chỗ dựa sức mạnh của Si-sê-ra đều tan tành, còn sức mạnh của quân đội Y-sơ-ra-ên là Đức Giê-hô-va.

Si-sê-ra chạy trốn đến trại của một người tên là Gia-ên. Quân lính của ông đã bị giết sạch, nên bây giờ điều quan trọng nhất của ông là bảo toàn tính mạng của mình. Nhà Gia-ên vốn có quan hệ thân thiết với vua Hát-so, nên khi Si-sê-ra chạy được tới đây thì cảm thấy an toàn. Gia-ên chăm sóc Si-sê-ra rất chu đáo, và vì quá mệt mỏi nên ngủ thiếp đi, không hề cảnh giác. Gia-ên đợi lúc Si-sê-ra ngủ say thì giết ông ta. Vừa lúc đó, Ba-rác và quân Y-sơ-ra-ên đi ngang qua đó. Gia-ên mời họ vào trại chỉ cho thấy xác Si-sê-ra nằm sóng soài dưới đất.

Đức Chúa Trời đã cho dân Y-sơ-ra-ên toàn thắng Si-sê-ra, y như lời Ngài đã phán với Đê-bô-ra. Nhưng rất tiếc là Ba-rác không có được sự vinh hiển trong chiến thắng nầy, mà vinh hiển đó lại thuộc về Đê-bô-ra, vì ông không hết lòng tin cậy Đức Chúa Trời.

Vui mừng vì chiến thắng, Đê-bô-ra cùng với Ba-rác hát một bài ca ngợi Chúa. Các em có thể đọc bài ca nầy trong Các quan xét đoạn 5, hoặc đọc một phần trong tập học viên. Sau đó, xứ được hòa bình trong 40 năm.

  1. Ứng dụng.

Các em thân mến! Trong bài học nầy, các em học được điều gì qua Ba-rác và Đê-bô-ra? (Cho các em phát biểu).

– Ba-rác: Đáng lẽ Ba-rác là người rất vinh hạnh, vì được chọn làm người lãnh đạo cuộc chiến và biết chắc phần thắng thuộc về mình, nhưng Ba-rác lại sợ hãi. Nếu Ba-rác hết lòng tin cậy Chúa thì ông sẽ không sợ hãi.

– Đê-bô-ra: Khi Ba-rác sợ hãi, trở nên yếu đuối, thì Đê-bô-ra là người khích lệ Ba-rác tin cậy Chúa. Không những khích lệ, Đê-bô-ra còn cùng đi với Ba-rác để giúp ông hoàn thành nhiệm vụ.

Ai cũng có lúc sợ hãi phải không các em? Vậy, khi sợ hãi, các em thường làm gì? Các em có thể có những ý kiến:

  1. Kể cho cha mẹ hay thầy cô giáo nghe về sự lo sợ của em. Họ sẽ giúp đỡ em.
  2. Chạy trốn.
  3. Đắp mền trùm đầu.
  4. Khóc.
  5. Cầu nguyện v.v…

Câu Kinh Thánh sau đây sẽ giúp các em rất nhiều: “Trong ngày sợ hãi, tôi sẽ để lòng nhờ cậy nơi Chúa. Tôi nhờ Đức Chúa Trời, và ngợi khen lời của Ngài; tôi để lòng tin cậy nơi Đức Chúa Trời, ắt sẽ chẳng sợ gì” (Thi 56:3-4).

Các em nên nhớ Đức Chúa Trời luôn ở cùng các em. Khi nào trong lòng các em sợ hãi, thì kêu cầu và nhờ cậy Chúa, chắc chắn sẽ không còn sợ hãi nữa.

Còn một vấn đề khác chúng ta cũng cần đề cập tới: “Em làm gì để giúp đỡ bạn đang sợ hãi?” Các em có cách nào giống như cách của Đê-bô-ra không? Em út của các em còn nhỏ, rất sợ bóng tối, các em nên mở đèn để mọi nơi được sáng, hoặc đi cùng với em út ở những chỗ có bóng tối, và không được hù dọa cho em giật mình. Khi một bạn hay sợ, các em phải khích lệ, giúp đỡ, cùng cầu nguyện với bạn ấy. (Cho các em nêu ra nhiều trường hợp khác và cùng cầu nguyện).

BÀI 10. ĐÁNH BẠI SI-SÊ-RA

I. KINH THÁNH: Các Quan Xét 4.

II. CÂU GỐC: “Trong ngày sợ hãi, tôi sẽ để lòng nhờ cậy nơi Chúa. Tôi nhờ Đức Chúa Trời, và ngợi khen lời của Ngài; tôi để lòng tin cậy nơi Đức Chúa Trời, ắt sẽ chẳng sợ gì” (Thi Thiên 56:3-4).

III. BÀI HỌC.

Sau khi Giô-suê qua đời, dân Y-sơ-ra-ên từ bỏ Đức Chúa Trời mà thờ lạy thần tượng của dân Ca-na-an. Đức Chúa Trời sửa phạt bằng cách phó họ vào tay Gia-bin, là vua Ca-na-an trị vì tại Hát-so. Quá khốn khổ, dân Y-sơ-ra-ên kêu cầu Đức Chúa Trời giải cứu.

Lúc đó, nữ tiên tri Đê-bô-ra đang làm quan xét Y-sơ-ra-ên. Bà vâng lời Đức Chúa Trời chọn Ba-rác đi đánh Si-sê-ra, một vị tướng lãnh đạo đội quân của vua Gia-bin. Ba-rác thấy mình không đủ can đảm để gánh vác công việc nầy, nên ông đề nghị Đê-bô-ra cùng đi.

Tuy Ba-rác chỉ có mười ngàn quân, còn Si-sê-ra có cả 900 xe bằng sắt và vô vàn binh lính, nhưng Đức Chúa Trời đã hứa Ba-rác sẽ thắng.

Đức Chúa Trời làm cho hết thảy xe cộ và quân của Si-sê-ra bỏ chạy tán loạn chạy trước mặt Ba-rác. Quân của Si-sê-ra bị giết không sót một người. Si-sê-ra cũng bị giết chết. Dân Y-sơ-ra-ên đã hoàn toàn chiến thắng. Đê-bô-ra cùng với Ba-rác sáng tác một bài hát ca ngợi Chúa.

BÀI 10. LỜI HỨA KỲ DIỆU (GV-HV)

BÀI 10. LỜI HỨA KỲ DIỆU (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ III. 2016 on 19 Tháng Bảy, 2018

BÀI 10. LỜI HỨA KỲ DIỆU

I. KINH THÁNH: 2Sa-mu-ên 6,7; 1Sử Ký 15-17

II. CÂU GỐC: “Ta, Đức Giê-hô-va, đã phán lời đó, và sẽ làm thành” (Ê-xê-chi-ên 36:36).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Khi được Đức Chúa Trời ban cho một lời hứa kỳ diệu, Đa-vít tin tưởng và cảm tạ Ngài.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời luôn thực hiện lời hứa của Ngài.

– Hành động: Cảm ơn Chúa vì lời Ngài hứa cùng chúng ta.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Gợi ý 1: Em tìm được không?

1. Mục đích: Giúp các em hiểu bối cảnh của câu chuyện Kinh Thánh hôm nay.

2. Vật liệu: Tập học viên bài 10, 1 tấm bảng ghi các câu hỏi, mỗi em một tờ giấy cứng (7 x 12cm) (3 x 5cm), kẹp giấy, bút màu.

3. Thực hiện: Giáo viên viết các câu hỏi lên tấm bảng: Hòm giao ước là gì? Hãy vẽ hoặc tìm một tấm hình về hòm giao ước (xem tập học viên bài 10). Tại sao hòm giáo ước lại đặc biệt như vậy? Mỗi em một tờ giấy đáp án ghi “Em tìm được rồi (xem “Gợi ý 1”, phần “Sinh hoạt đầu giờ” bài 3).

B. BÀI HỌC KINH THÁNH

(Chuẩn bị thị trợ: Kinh Thánh, hình phụ trợ (xem phụ lục), rối hình que (xem phụ lục bài 9), hình vẽ “Đa-vít và Giô-na-than ” (xem phụ lục bài 6).

* Phương pháp: Kết hợp sử dụng hình ảnh và con rối diễn kịch để kể chuyện.

1. Vào đề

Cám ơn Chúa vì trong tuần qua, Chúa giúp các em có thể bày tỏ tình yêu thương đối với người khác qua việc thực hiện lời hứa của mình.

Các em còn nhớ Đa-vít và Giô-na-than kết ước điều gì không? Đa-vít thực hiện lời hứa đó như thế nào? (Cho các em trả lời). Đức Chúa Trời cũng hứa với Đa-vít một điều kỳ diệu. Các em theo dõi bài học Kinh Thánh hôm nay xem Đức Chúa Trời hứa gì với Đa-vít nhé.

2. Bài học.

Đa-vít lên ngôi đã nhiều năm, cũng như các vị vua khác, Đa-vít xây dựng cung điện nguy nga cho mình. Một hôm, Đa-vít suy nghĩ và muốn rước hòm giao ước về Giê-ru-sa-lem (cho các em đưa hình hòm giao ước làm trong phần “Sinh hoạt đầu giờ” ra và giải thích hòm giao ước là gì? Vì sao hòm giao ước lại quan trọng như thế?)

Trước khi Đa-vít làm vua, dân Phi-li-tin cướp lấy hòm giao ước, sau đó họ gởi trả về cho dân Y-sơ-ra-ên. Nhưng thay vì đặt trong một nơi tôn nghiêm để thờ phượng, người ta đặt hòm giao ước trong một căn nhà bình thường. Vua Đa-vít muốn đặt hòm giao ước trong một nơi đặc biệt nên phải dời hòm đi; khi chuyển dời hòm giao ước, phải thận trọng và tuân theo lời phán dạy của Đức Chúa Trời (cho các em xem hình). Không ai được đụng vào hòm, kể cả vua Đa-vít. Dân chúng đàn hát, thổi kèn để ca ngợi Đức Chúa Trời. Trong không khí sôi nổi và vui vẻ, hòm giao ước được chuyển đến Giê-ru-sa-lem.

(Đến phần đối thoại giữa Đa-vít và Na-than, giáo viên dùng rối hình que diễn đạt) Khi hòm giao ước được chuyển về Giê-ru-sa-lem, Đa-vít vui mừng. Nhưng còn có điều khiến vua bất an, suy nghĩ nhiều, đó là nơi đặt hòm giao ước. Cuối cùng, vua nói với Na-than là tiên tri của Đức Chúa Trời – người có nhiệm vụ báo cho dân chúng biết ý chỉ của Ngài: “Na-than, ta sống trong cung điện tráng lệ, còn hòm giao ước của Đức Chúa Trời lại ở trong hội mạc. Ta muốn xây một đền thờ cho Đức Chúa Trời làm nơi đặt hòm giao ước để dân chúng đến thờ phượng”. Tiên tri Na-than nghĩ đấy là một ý tốt nên trả lời: “Hãy làm theo điều bệ hạ đã định vì Đức Chúa Trời ở cùng bệ hạ”.

Nhưng trong đêm đó, Đức Chúa Trời bảo Na-than báo cho Đa-vít biết một tin quan trọng: Ngài không muốn vua Đa-vít xây đền thờ vì Ngài đã có chương trình riêng. Qua Na-than, Đức Chúa Trời phán với Đa-vít: “Khi con còn chăn chiên nơi đồng vắng, Ta đã chọn con làm vua cai trị dân sự Ta. Ta vẫn luôn ở cùng, giúp đỡ con. Ta sẽ khiến con trở nên một vị vua vĩ đại và danh tiếng. Nhưng Ta không chọn con xây đền thờ cho Ta, con trai của con sẽ làm việc đó”.

Sau đó, Đức Chúa Trời ban cho Đa-vít một lời hứa kỳ diệu. Sau khi Đa-vít qua đời, dòng dõi của ông sẽ mãi mãi làm vua. Đây là phần thứ nhất của lời hứa, và còn một điều kỳ diệu hơn, ấy là Đức Chúa Trời sẽ dấy lên một vị vua vĩ đại từ dòng dõi của Đa-vít, và người ấy sẽ làm vua đến đời đời. Lời hứa này mãi đến mấy ngàn năm sau mới trở thành sự thật. Lúc đó, Đa-vít đã chết nhưng ông biết Đức Chúa Trời sẽ giữ lời hứa vì Ngài là Đấng thành tín. Đa-vít vui mừng trước lời hứa của Đức Chúa Trời. Ông nói: “Lạy Chúa, Ngài thật vĩ đại. Ngoài Ngài không có chân thần nào khác. Ngài đã hứa với con những điều tốt lành. Xin Chúa ban phước cho dòng dõi con. Nguyện ý chỉ Ngài được thực hiện (2Sa-mu-ên 7:22,25,28).

3. Ứng dụng.

– Giúp các em làm con rối ngón tay theo hướng dẫn trong tập học viên. Hỏi các em: Làm thế nào để biết được Đức Chúa Trời sẽ giữ lời hứa? (Giải thích cho các em hiểu: Kinh Thánh cho biết Đức Chúa Trời yêu thương, nhân từ, quyền năng…); cần nhấn mạnh: Đôi khi các em không giữ lời hứa với người khác, nhưng Đức Chúa Trời là Đấng thành tín, Ngài luôn thực hiện lời Ngài đã hứa.

– Hướng dẫn các em học câu gốc. Nói với các em: Điều gì Đức Chúa Trời hứa, chắc chắn Ngài sẽ thực hiện; khuyến khích các em đọc câu gốc từ bài 1 đến bài 10.

– Cuối cùng, mời một em cầu nguyện cảm tạ Chúa về những lời hứa của Ngài. Giáo viên cầu nguyện kết thúc.

V. PHỤ LỤC.

* Hình phụ trợ: Đa-vít rước hòm giao ước.

1. Vật liệu: Giấy cứng màu trắng, viết chì, viết màu.

BÀI 10.  LỜI HỨA KỲ DIỆU

I. KINH THÁNH: 2Sa-mu-ên 6,7; 1Sử Ký 15 – 17.

II. CÂU GỐC: “Ta, Đức Giê-hô-va đã phán lời đó và sẽ làm thành” (Ê-xê-chi-ên 36:36).

III. BÀI TẬP.

A. THỬ TÀI EM.

1. Vẽ các hình bên lên giấy cứng, cắt ra làm rối ngón tay.

2. Dùng con rối Đa-vít, thuật lại lời hứa của Đức Chúa Trời.

3. Sau đó, kể lại những gì Đa-vít đã hứa với Chúa.

 

 

 

 

 

 

B. LỜI HỨA TRONG KINH THÁNH.

– Dùng một con rối, đọc những lời hứa của Đức Chúa Trời.

“Đừng sợ, Ta sẽ giúp đỡ ngươi” (Ê-sai 41:13).

“Ta ở cùng ngươi, ngươi đi đâu sẽ theo gìn giữ đó” (Sáng 28:15).

“Chớ run sợ… vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi vẫn ở cùng ngươi trong mọi nơi ngươi đi” (Giô-suê 1:9).

“Hãy kêu cầu Ta, Ta sẽ trả lời cho” (Giê-rê-mi 33:3).

“Đức Chúa Trời tôi sẽ làm cho đầy đủ mọi sự cần dùng của anh em y theo sự giàu có của Ngài ở nơi vinh hiển trong Đức Chúa Giê-xu Christ” (Phi-líp 4:19).

“Ví bằng trong anh em có kẻ kém khôn ngoan, hãy cầu xin Đức Chúa Trời, là Đấng ban cho mọi người cách rộng rãi, không trách móc ai, thì kẻ ấy sẽ được ban cho” (Gia-cơ 1:5).

 

BÀI 9. GIỮ LỜI HỨA (GV-HV)

BÀI 9. GIỮ LỜI HỨA (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ III. 2016 on 18 Tháng Bảy, 2018

BÀI 9. GIỮ LỜI HỨA (GV)

I. KINH THÁNH: 1Sa-mu-ên 20:12-17; 2Sa-mu-ên 4:4, 5:1-5; 9:1-13.

II. CÂU GỐC: “Khi một người nào có hứa nguyện …thì chớ nên thất tín. Mọi lời ra khỏi miệng người, người phải làm theo” (Dân Số Ký 3:3).

III. BÀI TẬP.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Con rối bằng que kem.

1. Mục đích: Giúp các em nhớ lại câu chuyện Đa-vít và Giô-na-than hứa nguyện với nhau (bài 6), để tạo ấn tượng cho câu chuyện Kinh Thánh nầy.

2. Vật liệu: Tập học viên bài 6 và 9, giấy cứng, viết chì, viết lông màu, kéo, hồ dán, que kem.

3. Thực hiện:

Giúp các em làm con rối bằng que kem theo hướng dẫn trong tập học viên bài 9.

Gợi ý các em vẽ hình Đa-vít và Giô-na-than cao khoảng 20cm. Các em có thể diễn kịch rối theo lời thoại trong bài 6 hoặc tự đặt lời thoại.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị thị trợ: Rối hình que (vua Đa-vít, Mê-phi-bô-sết A, B, Xíp-ba, Na-than – xem phụ lục).

1. Vào đề.

Các em thân mến, các em có thích làm cho người khác vui không? Chắc hẳn trong chúng ta ai cũng muốn đem niềm vui đến cho người khác. Tuần trước các em có tặng quà cho ai không? Người đó có vui và bất ngờ khi nhận được quà không? (Cho các em chia sẻ kinh nghiệm). Khi các em đối xử tốt với người khác, chẳng những người ấy vui mà các em cũng cảm thấy vui nữa. Em nào có thể kể lại câu chuyện về ba người bạn của Đa-vít? (Họ không ngại nguy hiểm, đến cửa thành Bết-lê-hem lấy nước giếng về cho Đa-vít uống). Đa-vít biết họ yêu quí mình bởi vì họ sẵn sàng làm vui lòng ông. Câu chuyện hôm nay nói về việc Đa-vít làm vui lòng người khác khi giữ trọn lời hứa với Giô-na-than. (Mời hai em lên, dùng hình rối đã làm trong phần “Sinh hoạt đầu giờ” để kể lại câu chuyện). Bây giờ các em cùng lắng nghe câu chuyện nầy xem Đa-vít đã giữ trọn lời hứa như thế nào nhé.

2. Bài học.

(Theo diễn tiến câu chuyện mà dùng rối que để diễn). Đa-vít và những người theo ông vẫn tiếp tục ẩn náu để trốn tránh vua Sau-lơ. Một ngày kia, có người chạy đến gặp Đa-vít nói: “Tôi vừa mới từ trại quân Y-sơ-ra-ên đến đây”. Đa-vít vội hỏi: “Tình hình chiến trận thế nào?” Người kia vừa thở gấp vừa trả lời: “Quân Phi-li-tin đã thắng trận, vua Sau-lơ và Giô-na-than đều đã chết nơi chiến trường”.

Chết rồi ư? Đa-vít sững sờ! Ông thật không thể tin điều mình vừa nghe. Người bạn thân thiết đã chết, cả vua Sau-lơ cũng vậy. Từ giờ về sau, Đa-vít sẽ không bao giờ được gặp lại họ nữa. Đa-vít cảm thấy đau xót mà chẳng biết làm gì. Ông cầu nguyện với Đức Chúa Trời và Ngài bảo ông đến thành Hếp-rôn. Khi đến nơi, những người trong các chi phái đến gặp Đa-vít và tôn ông lên làm vua. Họ nói: “Chúng tôi muốn lập ngài làm vua. Khi Sau-lơ đang làm vua thì chính ngài đã lãnh đạo chúng tôi. Đức Chúa Trời phán ngài là người chăn và là vua của chúng tôi” (2Sa-mu-ên 5:2).

Lên ngôi, Đa-vít phải lo nhiều việc. Trước hết, phải đánh đuổi kẻ thù, sau đó, xây một đền thờ thật đẹp ở Giê-ru-sa-lem để thờ phượng Đức Chúa Trời.

Một hôm, Đa-vít nghĩ đến Giô-na-than và nhớ đến lời hứa của mình với người bạn thân năm xưa. Đa-vít liền tìm cách để thực hiện lời hứa. Ông cho gọi một đầy tớ của Sau-lơ đến và hỏi: “Trong gia đình vua Sau-lơ có ai còn sống không? Ta muốn vì cớ Giô-na-than  mà trả ơn”. Xíp-ba trả lời: “Có một người con trai của Giô-na-than  còn sống nhưng bị tật hai chân”. Nghe vậy, Đa-vít lập tức cho người đi tìm con trai Giô-na-than là Mê-phi-bô-sết.

Đến gặp Đa-vít, Mê-phi-bô-sết sợ hãi sấp mình xuống đất, cúi đầu lạy. Một vị vua mới lên ngôi thường giết hết những người trong gia tộc của vua cũ để ngai vàng được vững bền. Vì là cháu nội của vua Sau-lơ nên Mê-phi-bô-sết sợ Đa-vít sẽ giết mình. Đa-vít biết vậy nên nói: “Mê-phi-bô-sết, đừng sợ! Ta đã hứa với cha con là sẽ đối xử tốt với con của người. Ta sẽ giao tất cả đất đai của ông nội con lại cho con và từ đây về sau, con sẽ ăn chung bàn với ta trong hoàng cung”. Mê-phi-bô-sết cúi đầu lạy: “Tôi là ai mà được vua đối xử tốt như vậy?”  Thấy Mê-phi-bô-sết vui mừng, Đa-vít rất vui. Đa-vít gọi Xíp-ba đến căn dặn: “Ta đã ban cho cháu nội của chủ ông tất cả tài sản của gia đình Sau-lơ trước kia, vậy ông sẽ cùng các con trai và đầy tớ mình cày cấy đất đó, lấy hoa lợi phụng dưỡng nhà chủ”. Xíp-ba làm theo lời vua Đa-vít dặn bảo.

Từ đó, Mê-phi-bô-sết sống hạnh phúc, tự do, vui vẻ trong hoàng cung. Tất cả là nhờ vua Đa-vít giữ trọn lời hứa với người bạn thân của mình là Giô-na-than.

3. Ứng dụng.

– Hướng dẫn các em suy nghĩ và nói lên điều mình sẽ ghi vào khoảng trống trong hình vẽ (có thể là: “Ta sẽ chăm sóc con”, “Con hãy ở với ta”, hoặc “Đừng sợ…”). Khi các em chia sẻ xong, viết lại lời hứa của Đa-vít với Mê-phi-bô-sết.

– Tại sao cần phải giữ lời hứa? (Để người khác có lòng tin nơi mình và cũng là cách bày tỏ tình yêu thương).

– Hướng dẫn các em suy nghĩ trong tuần nầy sẽ hứa với ai điều gì? Đây phải là những lời hứa có thể thực hiện được.

– Nếu gặp trở ngại khiến các em khó giữ lời hứa, em sẽ làm gì? Nên gặp trực tiếp hoặc viết thư xin lỗi và giải thích nguyên nhân với người mà em đã hứa. Nhưng đó là trường hợp ngoại lệ, vì một khi đã hứa với ai điều gì, các em phải luôn giữ lời hứa và thực hiện cho đúng.

– Hướng dẫn các em làm sổ hứa nguyện hoặc thiệp kết ước theo tập học viên bài 9.

– Khuyến khích các em thực hiện kế hoạch và dặn các em tuần sau đến lớp chia sẻ với các bạn hai việc sau: (1) Điều gì xảy ra khi em tặng thiệp hoặc sổ ấy cho người khác? (2) Em làm cách nào để thực hiện tốt lời hứa?

– Sau đó, giáo viên hướng dẫn các em cầu nguyện, xin Chúa giúp các em sống yêu thương và biết giữ lời hứa.

V. PHỤ LỤC.

* Rối hình que.

1. Vật liệu: Giấy cứng, que kem, hồ dán, kéo, viết chì, viết chì màu.

Cách làm: Giáo viên dùng viết chì vẽ theo các hình sau đây rồi tô màu, và dùng băng keo dán que vào phía sau hình (Xem tập học viên bài 9).

BÀI 9. GIỮ LỜI HỨA (HV)

I. KINH THÁNH: 1Sa-mu-ên 20:12-17; 2Sa-mu-ên 4:4, 5:1-5; 9:1-13.

II. CÂU GỐC: “Khi một người nào có hứa nguyện …thì chớ nên thất tín. Mọi lời ra khỏi miệng người, người phải làm theo” (Dân Số Ký 3:3).

III. BÀI TẬP.

A. THỬ TÀI EM.

Em hãy dùng con rối trên thanh tre kể lại câu chuyện Đa-vít và Giô-na-than. Em vẽ hai nhân vật Đa-vít và Giô-na-than trên giấy cứng.

Sau khi vẽ xong, cắt hình ra dán lên thanh tre.

 

 

Em có thể kể lại câu chuyện trong bài 6 bằng lối diễn đạt của em, hoặc dùng lời thoại trong bài 6.

* Nội dung vở diễn.

1. Giô-na-than tặng gì cho Đa-vít?

2. Đa-vít hứa gì với Giô-na-than?

* Đa-vít giữ lời hứa như thế nào? Hoàn tất bức tranh sau đây bằng câu nói của Đa-vít.

 

 

 

B. GIỮ LỜI HỨA.

1. Giữ lời hứa với người khác cũng là cách bày tỏ tình yêu thương.

2. Dùng một trong những cách sau để ghi nhớ lời hứa của mình.

a. Làm sổ hứa nguyện, ghi những lời hứa của mình vào đó.

b. Làm thiệp hứa nguyện, ghi lời hứa của mình. HỨA NGUYỆN

– Tặng sổ hay thiệp hứa nguyện nầy cho người mình đã hứa.

BÀI 8. MÓN QUÀ BẤT NGỜ (GV-HV)

BÀI 8. MÓN QUÀ BẤT NGỜ (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ III. 2016 on 18 Tháng Bảy, 2018

BÀI 8. MÓN QUÀ BẤT NGỜ (GV)

I. KINH THÁNH: 2Sa-mu-ên 23:13-17; 1Sử Ký 11:15-19.

II. CÂU GỐC: “Mỗi một người trong anh em chớ chăm về lợi riêng mình, nhưng phải chăm về lợi kẻ khác nữa” (Phi-líp 2:4).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Để có thể tặng Đa-vít một món quà bất ngờ, ba người bạn của ông đã không ngại gian khó, sẵn sàng hy sinh mọi sự.

– Cảm nhận: Cảm thông và quan tâm đến hoàn cảnh người khác sẽ dẫn đến hành động bày tỏ lòng yêu thương đối với họ.

– Hành động:

(1) Nêu tên một người, nhớ đến nhu cầu của người ấy và tìm cách giúp đỡ.

(2) Nói ra ý thích của người ấy.

(3) Bởi tình yêu thương của mình, em làm cho người ấy cảm thấy vui mừng.

(4) Thực hiện những điều ấy trong tuần này.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Em tìm được không?

1. Mục đích: Giúp các em hiểu bối cảnh của câu chuyện Kinh Thánh và chia sẻ cho các bạn.

2. Vật liệu: Tập học viên bài 8, ghim giấy, bảng câu hỏi, thẻ trả lời (kích cỡ tương tự bài trước); chuẩn bị các vật liệu để làm giếng: Giấy dày 30 x 7cm, đất sét, giấy màu, keo dán.

3. Thực hiện:

– Trước giờ học, giáo viên chuẩn bị sẵn bảng câu hỏi “Em tìm được không?” Ghi lên bảng các câu hỏi: Trong thời Kinh Thánh, người ta lấy nước bằng cách nào? Giếng được làm như thế nào? Các em có thể làm hoặc vẽ một cái giếng không?

– Em nào trả lời được thì dùng ghim giấy kẹp thẻ trả lời “Em tìm được” cạnh câu hỏi đó (tương tự bài trước).

B. BÀI HỌC KINH THÁNH

(Chuẩn bị thị trợ: Kinh Thánh, hình vẽ (xem phụ lục), bảng câu hỏi “Em tìm được không?” (đã làm trong phần “Sinh Hoạt Đầu Giờ”).

1. Vào đề

Bài học trước cho các em biết, dù có nhiều cơ hội để giết Sau-lơ, nhưng Đa-vít đã không trả thù. Điều đó cho thấy Đa-vít là người có lòng nhân từ, yêu thương. Trong tuần vừa qua, các em có làm theo gương của Đa-vít không? Các em xử sự với những người không tốt đối với mình như thế nào? Em nào có thể chia sẻ kinh nghiệm nầy cho các bạn cùng nghe? (Cho các em trả lời). Cám ơn Chúa đã giúp các em thực hiện được lời dạy của Ngài.

Bây giờ mời các em lắng nghe câu chuyện sau đây và tìm ra hai điểm: (1). Những người bạn của Đa-vít đã thể hiện lòng yêu mến Đa-vít như thế nào? (2). Vì sao họ biết được nỗi ước ao của Đa-vít?

2. Bài học.

Trong lúc đang ẩn náu tại đồng vắng, Đa-vít nghe tin người Phi-li-tin liên tục đánh chiếm đất nước Y-sơ-ra-ên; thậm chí, họ tấn công cả Bết-lê-hem, nơi Đa-vít sinh ra và lớn lên. Quân Phi-li-tin hiện đang đóng quân ở ven suối tại trũng Bết-lê-hem.

Một hôm, ba người bạn của Đa-vít là những người lính dũng cảm đến thăm và kể cho Đa-vít nghe tin tức ở quê nhà. Đa-vít kinh ngạc và đau buồn khi biết quân giặc đã tràn đến tận Bết-lê-hem, nơi ông từng dẫn bầy chiên tới những đồng cỏ xanh, giếng nước trong mát, ngọt ngào bên cửa thành.

(Hỏi các em các câu hỏi trong bảng “Em làm được không?”, cho các em xem những cái giếng do các em làm và hình thị trợ Đa-vít).

Vì đang sống ở một nơi khan hiếm nước nên Đa-vít thường nhớ đến giếng nước mát mẻ tại Bết-lê-hem. Đa-vít nhủ thầm: “Ước gì ta được uống nước giếng ở cửa thành Bết-lê-hem!” Biết được điều nầy, ba người bạn của Đa-vít bàn với nhau về Bết-lê-hem lấy nước cho Đa-vít. Muốn đến giếng nước tại Bết-lê-hem, họ phải đi qua trại quân Phi-li-tin. Đường đi dù xa xôi, nguy hiểm, nhưng vì muốn thực hiện điều mơ ước của Đa-vít nên họ quyết tâm vượt mọi khó khăn mang nước về cho bạn. Họ giấu không cho Đa-vít biết ý định đó, sợ ông ngăn cản không cho họ mạo hiểm.

Thế là ba người lặng lẽ lên đường. Họ vượt núi, băng đèo, xuyên qua bao chặng đường dài. Ba dũng sĩ đến nơi người Phi-li-tin đóng quân. Sau khi vượt qua vùng quân địch chiếm đóng một cách thật khó khăn, họ tìm đường đi đến cửa thành và cuối cùng, đến giếng nước, múc đầy bình rồi mang trở về.

Đa-vít kinh ngạc khi thấy ba người bạn mình đem nước giếng thành Bết-lê-hem về. Ông thật không tin vào điều mắt thấy và lòng rất cảm động vì tình thương của ba người bạn dành cho mình. Đa-vít hiểu chỉ vì muốn lấy nước giếng Bết-lê-hem cho ông uống mà các bạn đã mạo hiểm đến thế. Bình nước giếng đối với ông có giá trị lớn lao vô cùng, bởi nó được đánh đổi bằng sự nguy hiểm đến tính mạng của ba dũng sĩ. Đa-vít không biết lấy gì để bày tỏ lòng biết ơn các bạn. Ba người bạn của Đa-vít đã đem đến cho ông món quà bất ngờ và thật quí giá.

3. Ứng dụng.

Hỏi các em: Ba người bạn của Đa-vít đã làm gì để bày tỏ sự quan tâm và lòng yêu thương đối với ông? (Cho các em trả lời). Sau đó, hướng dẫn các em học câu gốc, khuyến khích các em giải thích câu gốc, hoặc phát biểu cảm nghĩ của mình đối với câu gốc.

– Sự quan tâm và lòng yêu thương của ba dũng sĩ khiến Đa-vít rất vui và cảm động. Đã có ai làm việc gì khiến các em ngạc nhiên và vui mừng chưa? Lúc đó các em có cảm nghĩ gì?” Giáo viên có thể khuyến khích các em suy nghĩ bằng cách chia sẻ kinh nghiệm của mình. Sau đó, cho các em chia sẻ kinh nghiệm của các em.

– Tại sao ba người bạn của Đa-vít biết được ý muốn của ông? Làm thế nào em biết được ý thích của bạn bè và người thân? Dạy các em biết quan tâm đến những người chung quanh, tìm hiểu xem có ai cần giúp đỡ không?

– Hướng dẫn các em làm phần bài tập trong tập học viên.  Khuyến khích các em suy nghĩ mình nên làm gì để cha mẹ, anh chị hoặc bạn bè vui lòng? Cho các em chọn một người rồi viết ý định của mình ra giấy, tuần sau đến lớp chia sẻ với các bạn xem mình thực hiện như thế nào.

– Hướng dẫn các em cầu nguyện kết thúc buổi học, xin Chúa giúp các em biết cách bày tỏ lòng yêu thương và sự quan tâm của mình đối với người khác.

V. PHỤ LỤC.

* Hình phụ trợ: Đa-vít, ba người bạn của Đa-vít.

1. Vật liệu: 1 tờ bìa trắng, viết chì, viết màu.

2. Cách làm: Trước giờ học, giáo viên dùng bút chì vẽ theo hình dưới đây (Xem hình) rồi tô màu. Gấp theo đường chấm chấm, sẽ có hai hình để minh họa khi kể chuyện.

 

 BÀI 8.     MÓN QUÀ BẤT NGỜ (HV)

I. KINH THÁNH: 2Sa-mu-ên 23:13-17.

II. CÂU GỐC: “Mỗi người trong anh em chớ chăm về lợi riêng mình, nhưng phải chăm về lợi kẻ khác nữa” (Phi-líp 2:4).

III. BÀI TẬP.

A. EM LÀM.

Hình vẽ dưới đây cho em thấy cách lấy nước giếng trong thời Kinh Thánh. Người ta cột dây thừng vào thùng, thả xuống giếng. Khi nước vào đầy thùng, kéo thùng lên, đổ vào bình nước của mình.

Em hãy chọn một trong ba cách dưới đây để làm một cái giếng:

1. Vẽ hình những viên đá chồng lên nhau trên giấy màu xám tro rồi dán nối hai đầu lại.

2. Dùng đất sét nắn gạch xếp thành cái giếng.

3. Vẽ hình cái giếng lên giấy.

B. EM LÀM VUI LÒNG NGƯỜI KHÁC.

Em sẽ làm vui lòng ai? Dùng bút khoanh tròn những người em chọn và viết tên vào chỗ trống.

CEM CHỌN CÁCH NÀO?

Hãy . chọn một cách nào đó để bày tỏ tình cảm với người em đã chọn. Ví dụ: Tặng hoa, phụ làm việc, nói chuyện, tặng thiệp …

Em có thể làm món quà sau đây tặng cho người em muốn làm vui lòng.

1. Tìm một cái lon rỗng.

2. Dán giấy hoa hoặc hình vẽ chung quanh.

3. Dùng nút áo, sỏi dán vào để trang trí.

4. Cái lon trở thành hộp cắm viết hoặc bình cắm hoa.

BÀI 7.  KHÔNG TRẢ THÙ (GV-HV)

BÀI 7.  KHÔNG TRẢ THÙ (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ III. 2016 on 17 Tháng Bảy, 2018

BÀI 7.  KHÔNG TRẢ THÙ (GV)

I. KINH THÁNH: 1Sa-mu-ên 21-24; 26.

II. CÂU GỐC: “Hãy yêu kẻ thù mình, làm ơn cho kẻ ghét mình” (Lu-ca 6:27).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Đa-vít bày tỏ lòng yêu thương đối với Sau-lơ bằng cách bỏ qua nhiều cơ hội trả thù.

– Cảm nhận: Chúa muốn các em đối xử nhân ái với mọi người.

– Hành động: Xin Chúa giúp em vâng theo lời dạy của Chúa, sống yêu thương, nhân ái cả với những người không tốt đối với mình.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Em tìm được không?

1. Mục đích: Giúp các em tìm ra nơi Đa-vít và quân lính ẩn náu.

2. Vật liệu: Tập học viên bài 7, kẹp giấy, 1 tờ giấy cứng 30 x 50cm làm bảng câu hỏi, mỗi em 3 miếng giấy dày 3 x 5cm, ghim kẹp giấy hoặc keo dán, bút chì.

3. Thực hiện:

Giáo viên làm bảng câu hỏi “Em tìm được không?” và một số thẻ trả lời “Em tìm được rồi”. Giáo viên nêu câu hỏi: Đồng vắng là gì? Người ta làm thế nào để có nước uống nơi đồng vắng? Có mạch nước trong đồng vắng không?

Khi tìm ra câu trả lời, các em ghi tên mình vào thẻ trả lời “Em tìm được rồi” và ghim bên cạnh câu hỏi (xem hình).

– Giáo viên hỏi các em: “Vì sao hang núi là nơi lý tưởng để ẩn náu?” (Vì nơi đó có thức ăn, nước uống, nho và ôlive – Đó là sa mạc gần biển Chết, nơi ẩn náu của những người tị nạn).

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị thị cụ: Kinh Thánh, hình (Đa-vít và Gô-li-át, Đa-vít và quân lính), bảng câu hỏi “Em tìm được không?”, tập học viên bài 7).

 

  1. Vào đề.

Các em thân mến, bài học tuần trước đã cho các em biết về một đôi bạn tốt, các em còn nhớ hai người bạn ấy tên gì không?(Cho các em trả lời). Theo các em, giữa bạn và thù có gì khác nhau? Giô-na-than  và Đa-vít là bạn hay thù? Sau-lơ và Đa-vít là bạn hay thù?

Bây giờ các em cùng lắng nghe câu chuyện nầy và suy nghĩ xem Sau-lơ đối với Đa-vít thế nào và Đa-vít đối đãi với Sau-lơ ra sao nhé.

  1. Bài học.

Khi Đa-vít được Giô-na-than  cho biết vua Sau-lơ muốn giết mình, Đa-vít liền đến ẩn náu một nơi vua Sau-lơ khó phát hiện, đó là một thành của người Phi-li-tin, cách nơi ở của Sau-lơ khá xa. Nào ngờ người Phi-li-tin phát hiện ra Đa-vít và báo cho vua của xứ này. Thế là Đa-vít đành phải trốn đi nơi khác.

Nơi ẩn náu kế tiếp của Đa-vít là một hang đá trong núi. Lúc này, có khoảng bốn trăm người đi theo Đa-vít. Ông trở thành lãnh đạo của cả nhóm và họ cùng trải qua những tháng ngày khốn khó, gian nan. Một thời gian sau, vua Sau-lơ phát hiện ra nơi ẩn náu của họ. Sau-lơ mừng rỡ đem quân đến bắt Đa-vít, nhưng khi đến nơi, Đa-vít và những người theo ông đã chạy trốn ra đồng vắng. Sau-lơ phải mất nhiều công sức để lần theo dấu vết của Đa-vít. Cuối cùng, Sau-lơ cũng phát hiện ra tung tích của Đa-vít và lập tức dẫn quân đến bao vây. Khi sắp bắt được Đa-vít, bỗng có người đến báo với Sau-lơ: “Xin bệ hạ về ngay, quân Phi-li-tin đang kéo đến đánh ta”. Sau-lơ đành rút về đánh quân Phi-li-tin. Thế là Đa-vít có cơ hội trốn sang chỗ khác, nơi có suối nước trong mát.

Đa-vít và những người theo ông vẫn tiếp tục ẩn náu trong hang núi. Một hôm có chuyện lạ xảy ra. Sau khi đánh đuổi quân Phi-li-tin, vua Sau-lơ trở về và được tin báo đã tìm ra tung tích của Đa-vít nên tiếp tục săn đuổi. Sau-lơ đến đồng vắng, thấy một hang đá liền đi vào mà không ngờ đó là nơi Đa-vít đang ẩn nấp. Những người theo Đa-vít đều nói: “Đa-vít! Đây là cơ hội tốt để giết Sau-lơ”. Thế nhưng, Đa-vít không giết và cũng ngăn cản không cho những người trong nhóm giết Sau-lơ; Đa-vít chỉ cắt vạt áo của vua. Đến lúc Sau-lơ rời khỏi hang, Đa-vít mới gọi ông và nói to rằng: “Tâu bệ hạ, tôi có cơ hội giết bệ hạ, nhưng tôi không làm như vậy, tôi chỉ lấy đi một mảnh áo của bệ hạ. Vậy tại sao bệ hạ lại tìm cách giết tôi?”  Sau-lơ nghe xong giật mình. Ông cảm động nói: “Đa-vít, con đối với ta thật tốt. Ta biết Đức Chúa Trời sẽ chọn con làm vua”. Sau đó, Sau-lơ truyền lệnh rút quân. Tuy vậy, Đa-vít và những người trong nhóm vẫn ở lại đồng vắng vì không dám tin Sau-lơ. Quả nhiên, chẳng bao lâu sau, Sau-lơ lại dẫn quân tiếp tục đuổi bắt Đa-vít.

Một đêm nọ, Đa-vít cùng những người trong nhóm tìm đến nơi Sau-lơ đóng trại. Đa-vít dẫn theo hai người đột nhập trại quân. Họ nhẹ nhàng tiến đến chỗ Sau-lơ đang ngủ. Một người nói: “Đây là cơ hội tốt để giết Sau-lơ”. Nhưng Đa-vít ngăn lại: “Không, chúng ta chỉ lấy cây gươm nơi đầu giường và bình nước của vua rồi rời khỏi đây”. Họ rút lui trong khi cả trại quân Sau-lơ đều ngủ ngon, chẳng hề hay biết gì, vì Đức Chúa Trời khiến họ ngủ mê. Khi đã sang đến đỉnh núi bên kia, Đa-vít quay lại hướng trại quân Sau-lơ nói lớn: “Tại sao bệ hạ vẫn còn tìm giết tôi?” Sau-lơ nhận ra Đa-vít, liền nói: “Ta thật có lỗi với con. Đa-vít, ta hứa sẽ không làm hại con nữa!” Đa-vít nói: “Đây là cây giáo và bình nước của vua. Xin hãy cho người đến lấy về. Tôi muốn cho bệ hạ biết rằng, dù có cơ hội giết bệ hạ nhưng tôi đã không làm như vậy”. Sau-lơ nói: “Hỡi Đa-vít, xin Đức Chúa Trời ban phước cho con. Con sẽ làm nên việc lớn và trở thành người vĩ đại”.

  1. Ứng dụng.

– Dù không bị kẻ thù săn đuổi, phải trốn tránh trong đồng vắng, nhưng có lẽ các em đã từng bị người khác đối xử không tốt.

Cho vài em chia sẻ lại thái độ của mình khi gặp người đối xử không tốt. Giáo viên hướng dẫn các em hoàn tất bài tập và hỏi: “Nếu gặp người đối xử với mình không tốt, các em cảm thấy thế nào? Em có thể xử sự như Đa-vít đối với kẻ thù không? Nếu không, các em sẽ làm gì?” Hãy giải thích nan đề của em, nếu khó, có thể cùng nhau cầu nguyện giao phó cho Chúa.

– Hướng dẫn các em nói hoặc viết ra phương pháp tốt nhất để đối xử với kẻ thù. Cầu nguyện xin Chúa giúp các em sống nhân từ, yêu thương mọi người.

V. PHỤ LỤC.

* Hình: Đa-vít và quân lính.

1. Vật liệu: 2 tờ giấy dày màu trắng, viết chì, chì màu.

2. Cách làm: Giáo viên dùng viết chì vẽ theo hình mẫu (xem hình) và tô màu. Sau đó, xếp theo đường chấm và dán lại; dùng hình để minh họa khi kể chuyện.

BÀI 7. MÓN QUÀ BẤT NGỜ (HV)

I. KINH THÁNH: 2Sa-mu-ên 23:13-17.

II. CÂU GỐC: “Mỗi người trong anh em chớ chăm về lợi riêng mình, nhưng phải chăm về lợi kẻ khác nữa” (Phi-líp 2:4).

III. BÀI TẬP.

A. EM LÀM.

Hình vẽ dưới đây cho em thấy cách lấy nước giếng trong thời Kinh Thánh. Người ta cột dây thừng vào thùng, thả xuống giếng. Khi nước vào đầy thùng, kéo thùng lên, đổ vào bình nước của mình.

Em hãy chọn một trong ba cách dưới đây để làm một cái giếng:

1. Vẽ hình những viên đá chồng lên nhau trên giấy màu xám tro rồi dán nối hai đầu lại.

2. Dùng đất sét nắn gạch xếp thành cái giếng.

3. Vẽ hình cái giếng lên giấy.

B. EM LÀM VUI LÒNG NGƯỜI KHÁC.

Em sẽ làm vui lòng ai? Dùng bút khoanh tròn những người em chọn và viết tên vào chỗ trống.

C. EM CHỌN CÁCH NÀO?

Hãy chọn một cách nào đó để bày tỏ tình cảm với người em đã chọn. Ví dụ: Tặng hoa, phụ làm việc, nói chuyện, tặng thiệp …

Em có thể làm món quà sau đây tặng cho người em muốn làm vui lòng.

1. Tìm một cái lon rỗng.

2. Dán giấy hoa hoặc hình vẽ chung quanh.

3. Dùng nút áo, sỏi dán vào để trang trí.

4. Cái lon trở thành hộp cắm viết hoặc bình cắm hoa.

BÀI 6. ĐÔI BẠN TỐT (GV-HV)

BÀI 6. ĐÔI BẠN TỐT (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ III. 2016 on 17 Tháng Bảy, 2018

BÀI 6. ĐÔI BẠN TỐT (GV)

I. KINH THÁNH: 1Sa-mu-ên 18 – 20.

II. CÂU GỐC: “Bằng hữu thương mến nhau luôn luôn” (Châm Ngôn 17:17).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Giô-na-than luôn thương mến Đa-vít dù lúc Đa-vít được vua Sau-lơ ưu ái hay khi bị vua thù ghét.

– Cảm nhận: Bạn tốt bày tỏ lòng yêu thương khi mình gặp bất kỳ hoàn cảnh nào.

– Hành động: Em quyết tâm trở nên bạn tốt của mọi người.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Trò chơi câu gốc.

1. Mục đích: Giúp các em ghi nhớ câu gốc.

2. Vật liệu: Viết màu, bảng giấy, thẻ trả lời (mỗi tấm viết một câu gốc).

3. Thực hiện:

– Trước giờ học, giáo viên dùng viết màu ghi câu gốc đã xáo trộn thứ tự lên bảng giấy, ghi câu gốc đúng thứ tự vào thẻ trả lời. Giáo viên có thể xem sỉ số học viên để chuẩn bị một số câu gốc đã học.

– Đến lớp, mỗi em chọn một câu gốc và dùng thời gian ngắn để sắp xếp lại các chữ trong câu theo thứ tự. Sau đó so sánh với thẻ trả lời xem có đúng không? Giáo viên khen thưởng những em sắp xếp nhanh và đúng nhất.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

1. Vào đề.

Các em thân mến, nếu cần người làm giúp một việc, em sẽ nhờ ai? Vì sao em chọn người ấy? (Cho các em trả lời). Chắc chắn người đó là bạn tốt nhất của em phải không? Các em có biết Kinh Thánh dạy chúng ta làm thế nào để trở thành người bạn tốt không? Các em lắng nghe câu chuyện Kinh Thánh và câu gốc hôm nay để có câu trả lời nha.

2. Bài học.

(Giáo viên cho các em xem hình bài trước để ôn lại cảnh Đa-vít đối đầu với Gô-li-át. Đa-vít đã nói và làm gì?) Các em tưởng tượng xem, sau khi Đa-vít thắng Gô-li-át, chuyện gì sẽ xảy ra? Rất ít người biết cậu bé chăn chiên Đa-vít, thế nhưng giờ đây Đa-vít bỗng trở thành vị anh hùng của cả nước. Ai nấy đều bảo nhau: “Đa-vít thật là giỏi!”

Vua Sau-lơ lập Đa-vít cầm đầu đạo quân. Vì lập được nhiều chiến công nên Đa-vít được phụ nữ trong thành hát xướng ca ngợi. Hoàng tử Giô-na-than kết bạn cùng Đa-vít.

Giô-na-than con trưởng của Sau-lơ (cho các em xem hình) hứa sẽ mãi là bạn thân của Đa-vít và tặng Đa-vít nhiều quà đặc biệt như gươm, cung, áo choàng và đai thắt lưng của mình nữa. Thấy Đa-vít sử dụng những vật nầy, mọi người đều biết Đa-vít là bạn thân của hoàng tử Giô-na-than.

Vua Sau-lơ thấy Đa-vít được nhiều người quí mến nên sinh lòng ganh tỵ. Đến khi nghe người ta ca hát tung hô Đa-vít, Sau-lơ nổi giận quát lớn: “Thế nầy là thế nào? Họ ca ngợi Đa-vít hơn ta sao?” Người ta hát rằng: “Sau-lơ giết hàng ngàn, còn Đa-vít giết hàng vạn”. Điều đó khiến Sau-lơ lo sợ một ngày nào đó, dân chúng sẽ lập Đa-vít làm vua. Vì vậy, Sau-lơ ngày càng bất an và buồn bực.

Một hôm, Đa-vít đàn cho vua nghe như thường lệ. Khi Đa-vít đang gảy đàn (giáo viên dừng lại giây lát), bỗng Sau-lơ cầm một cây giáo trên tay, nhắm thẳng vào Đa-vít mà phóng tới. Nhưng thật là may, Đa-vít tránh kịp mũi giáo độc ác đó!

Sau việc ấy, Sau-lơ lập Đa-vít làm trưởng ngàn người đi chiến đấu. Vua muốn Đa-vít bỏ xác nơi chiến trường, nhưng Đức Chúa Trời bảo vệ Đa-vít nên cậu mỗi ngày càng lập thêm chiến công. Đa-vít ra trận trở về thì đứng đầu đạo binh khiến Sau-lơ ngày càng tức giận hơn.

Từ ngày Đa-vít được vua cha thương mến Giô-na-than trở thành bạn tốt của Đa-vít. Nhưng nay, dù Đa-vít không còn được vua Sau-lơ thương mến nữa, thì Giô-na-than vẫn là bạn tốt của Đa-vít. Hay tin vua cha định giết Đa-vít, Giô-na-than liền bí mật báo cho Đa-vít tìm nơi ẩn náu, còn mình thì tìm cách để cha và Đa-vít làm hòa với nhau.

Dù không rõ âm mưu của cha nhưng Giô-na-than biết bạn mình đang gặp nguy hiểm. Giô-na-than yêu mến Đa-vít nên nói với bạn: “Đa-vít, bất kỳ điều gì bạn muốn, mình cũng sẽ hết lòng giúp bạn”. Đa-vít và Giô-na-than hứa sẽ là bạn tốt của nhau dù hoàn cảnh có thay đổi thế nào đi nữa. Giô-na-than giúp Đa-vít chạy trốn, còn Đa-vít hứa sẽ đối xử tốt với Giô-na-than và con cái của Giô-na-than. Sau nầy họ đã giữ lời hứa và không hề thay đổi dù bất cứ điều gì xảy ra.

Giô-na-than nghĩ cách giúp Đa-vít chạy trốn. Đa-vít ẩn náu trong đồng ruộng, trong khi Giô-na-than dò ý Sau-lơ, xem ông muốn xử Đa-vít thế nào. Giô-na-than căn dặn: “Khi biết được ý định của cha, tôi sẽ đến đồng ruộng nầy và bắn ba mũi tên. Khi bạn nghe tôi bảo người nhặt tên: Các mũi tên ở bên này, thì có nghĩa là bạn có thể trở về bình an. Còn nếu tôi nói rằng: Các mũi tên ở bên kia, thì anh phải mau đi ngay. Nguyện Đức Chúa Trời làm chứng cho anh và tôi”.

Chỉ vài ngày sau, Giô-na-than biết vua Sau-lơ định xử Đa-vít tội chết. Theo thường lệ, Giô-na-than và Đa-vít cùng ăn tối với Sau-lơ. Sau-lơ thấy Đa-vít vắng mặt hai bữa rồi nên tức giận truyền lệnh: “Hãy đi bắt Đa-vít đem về đây cho ta. Nó sẽ phải chết”. Giô-na-than  hỏi: “Sao cha lại muốn giết Đa-vít?” Sau-lơ giận dữ phóng cây giáo về phía Giô-na-than. Thấy vậy, Giô-na-than biết Đa-vít không thể nào trở về sống trong cung an toàn được, chắc chắn cha mình sẽ giết Đa-vít.

Sáng hôm sau, Giô-na-than đến điểm hẹn ngoài đồng ruộng cùng một người hầu. Giô-na-than đem cung tên ra bắn và bảo người nhặt tên: “Tên ở bên kia. Đi nhanh lên, đừng chần chừ”. Người nhặt tên dĩ nhiên không biết ẩn ý của Giô-na-than, nhưng Đa-vít hiểu mình phải nhanh chóng rời khỏi nơi đây tìm nơi ẩn náu.

Khi người hầu đã đi rồi, Đa-vít ra khỏi chỗ nấp. Đa-vít và Giô-na-than ôm nhau từ giã và cả hai đều khóc khi chia tay. Tuy phải xa nhau, nhưng Đa-vít vui mừng vì có được người bạn tốt như Giô-na-than, người bạn dù lúc sung sướng hay khi gặp khó khăn đều sẵn lòng giúp đỡ, không tính toán thiệt hơn, giữ trọn lời hứa, vì bạn sẵn lòng quên cả mạng sống mình. Đa-vít sẽ chẳng bao giờ quên Giô-na-than, người bạn thân yêu của mình.

3. Ứng dụng.

– Hướng dẫn các em làm bài tập trong sách học viên, sau đó hỏi: Giô-na-than đã bày tỏ lòng yêu thương đối với Đa-vít như thế nào? Cho các em đọc câu gốc hôm nay, gạch dưới chữ “luôn luôn” và nhắc nhở các em biết cách đối xử với bạn. Khuyến khích các em suy nghĩ và hoàn thành câu: “Bạn chính là…”.

– Nếu các em vui vẻ, dễ gần gũi, các em có thể dễ dàng kết bạn phải không? Nếu một người bạn của em lỡ làm một điều khiến em và mọi người không vui thì em sẽ đối xử như thế nào? Ví dụ: Em và các bạn đang tham dự cuộc chạy thi tiếp sức. Đến cuối cuộc thi, bạn Cường bị té khiến cả đội thua cuộc. Các bạn nghỉ chơi với Cường và cằn nhằn bạn ấy. Nhưng khi nhớ đến câu gốc bài nầy, nhất là hai chữ “luôn luôn”, thì em sẽ xử sự ra sao? Cho các em trả lời. Khuyến khích các em phát biểu trong hoàn cảnh nào cần có bạn nhất? Giúp các em hiểu biết cách cư xử trong tình bạn.

– Hướng dẫn các em cầu nguyện, xin Chúa giúp các em trở nên người bạn tốt của mọi người.

BÀI 6. ĐÔI BẠN TỐT (HV)

I. KINH THÁNH: 1Sa-mu-ên 18 – 20.

II. CÂU GỐC: “Bằng hữu thương mến nhau luôn luôn” (Châm Ngôn 17:17).

III. BÀI TẬP.

* EM SẼ LÀM GÌ?

Em và các bạn chơi đá cầu. Em là nhóm trưởng đang lựa chọn nhóm viên cho nhóm của mình. Em chọn Cường, Trân và Tân, nhưng Cường và Trân đều nói: “Đừng chọn Tân, bạn ấy chơi dở lắm”.

Em sẽ làm gì? Viết hoặc vẽ vào ô trống cho biết em sẽ làm gì để trở thành bạn tốt.

 

 

 

 

EM LÀ BẠN TỐT