Chuyên mục: THIẾU NHI

BÀI 5. SỐNG CHÂN THẬT (GV-HV)

BÀI 5. SỐNG CHÂN THẬT (GV-HV)

in QUÍ IV. 2016, THIẾU NHI on 26 Tháng Bảy, 2018

BÀI 5. SỐNG CHÂN THẬT (GV)

I. KINH THÁNH: Sáng thế ký 25:27-34, 27:1-45.

II. CÂU GỐC: “Tình yêu thương… chẳng làm điều trái phép, chẳng kiếm tư lợi, chẳng nóng giận, chẳng nghi ngờ sự dữ, chẳng vui về điều không công bình, nhưng vui trong lẽ thật” (1Cô-rinh-tô 13:5-6).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Bằng sự lừa dối, Gia-cốp đã đoạt quyền trưởng nam và lời chúc phước dành cho anh mình.

– Cảm nhận: Trong tình yêu thương không có sự lừa dối.

– Hành động: Sống chân thật và đối xử công bằng với mọi người trong gia đình.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

1. Sinh hoạt thứ nhất: Quyền lợi đặc biệt.

a. Mục đích: Giúp các em nhận biết bối cảnh của câu chuyện Kinh Thánh này.

b. Tài liệu: Trang tư liệu C sách học viên.

c. Thực hiện: Câu chuyện Kinh Thánh hôm nay có đề cập đến quyền trưởng nam và giá trị của lời chúc phước. Cho các em mở sách học viên trang tư liệu C, và theo chỉ dẫn hoàn thành bài tập.

2. Sinh hoạt thứ hai: Em sẽ nói gì?

a. Mục đích: Qua các tình huống, giúp các em tập luyện cách cư xử với những người thân trong gia đình.

b. Chuẩn bị: Ghi các câu hỏi tình huống vào giấy, gấp lại.

c. Thực hiện: Giáo viên bỏ các tờ giấy ghi tình huống vào một cái hộp. Chia hai em một tổ, mỗi tổ bóc một tình huống và dựa theo tình huống đó mà trả lời (có thể thực hiện theo phương pháp đóng kịch, nên giới hạn thời gian).

* Các tình huống gợi ý như sau.

– Mẹ đã bảo con cất sách vở gọn gàng, nhưng tại sao con vẫn chứng nào tật nấy vậy hả?

– Em xin lỗi! Em đã làm hư bút máy của chị rồi!

– Ba ơi! Anh Hai đánh con!

– Con đã nói dối mẹ để đi chơi phải không?

– Mẹ ơi! Các chị đang cãi nhau kìa!

– Hu…hu…hu… Sao anh bẻ gãy tay con búp bê của em!

– Chị ơi! Cái áo em dơ rồi nè!

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

1. Vào đề.

(Giáo viên chuẩn bị một ít kẹo và bánh).

Các em thân mến! Cô có một ít kẹo và bánh ở đây. Có em nào đồng ý đổi cho cô vật gì mà em yêu thích nhất để lấy chúng không? Tại sao các em có quyết định như vậy? (Cho các em tự do trả lời).

Câu chuyện Kinh Thánh hôm nay nói về một cuộc trao đổi giữa hai anh em. Chúng ta cùng xem đây có phải là một cuộc trao đổi công bằng không nhé!

2. Bài học.

Y-sác và vợ là Rê-bê-ca có hai con trai sinh đôi. Các em thấy thông thường những người sinh đôi thì như thế nào? (Giống nhau, thậm chí có người giống nhau về sở thích, tính tình). Nhưng hai con trai sinh đôi của Rê-bê-ca thì không giống nhau. Người anh sinh ra trước, thân thể đỏ hồng và toàn thân đầy lông, nên cha mẹ đặt tên là Ê-sau, có nghĩa là nhiều lông. Người em sinh ra liền sau đó, tay nắm gót chân người anh nên cha mẹ đặt tên là Gia-cốp, có nghĩa là nắm gót.

Thời gian trôi qua, Ê-sau và Gia-cốp đều đã trưởng thành. Chúng ta không biết hai anh em đã trải qua tuổi thơ như thế nào, nhưng Ê-sau thì năng động, suốt ngày chỉ thích dong ruổi ngoài đồng săn bắn. Trong khi đó, Gia-cốp thì thích ở yên tĩnh trong nhà, phụ giúp mẹ. Vì vậy, bà Rê-bê-ca yêu thương Gia-cốp hơn, còn ông Y-sác thì yêu thương Ê-sau hơn.

Ê-sau không quan tâm đến việc gì hơn là săn bắn, ngay cả quyền trưởng nam, chàng cũng xem nhẹ. Địa vị trưởng nam đối với người Do-thái có quyền lợi rất lớn (Cho các em đã thực hiện phần sinh hoạt thứ nhất chia sẻ).

Một hôm, Gia-cốp ở nhà đang nấu canh đậu đỏ, thì Ê-sau đi săn về mồ hôi nhễ nhại. Chàng vừa mệt vừa đói. Mùi thơm của canh đậu đỏ bốc lên khiến Ê-sau càng đói cồn cào. Ê-sau liền nói với Gia-cốp: “Anh đói quá! Cho anh một chén canh gì đỏ đỏ đó được không?” Các em đọc Sáng thế ký 25:30-33 xem Gia-cốp có cho Ê-sau ăn không? (Mời hai em nam đọc đối thoại phần nầy).

Các em thấy cuộc trao đổi này có công bằng không? Tất cả chúng ta đều thấy không công bằng, nhưng Ê-sau thì không quan tâm, miễn sao giải quyết cơn đói là được. Các em nghĩ như thế nào về hành động của Ê-sau và Gia-cốp? (Cho các em tự do phát biểu).

Việc này rồi cũng trôi qua. Một thời gian khá lâu sau đó, cha của Ê-sau và Gia-cốp đã già. Ông cảm thấy mình sắp qua đời nên muốn chúc phước cho Ê-sau, con trai trưởng nam của ông. Chúc phước có nghĩa là gì? (Cho các em đã hoàn thành phần sinh hoạt thứ nhất trả lời).

Trước khi chúc phước cho con, Y-sác muốn ăn một món ngon được chế biến từ thịt thú rừng mà Ê-sau săn được. Ê-sau liền vội vã cầm cung tên ra đồng.

Trước khi Ê-sau trở về, thì ở nhà đã xảy ra một việc. Bà Rê-bê-ca  nghe được cuộc nói chuyện giữa hai cha con, nên cùng Gia-cốp lập mưu để người cha chúc phước cho Gia-cốp, chứ không phải cho Ê-sau. Các em đọc Sáng thế ký 27:9-10 xem Rê-bê-ca bày mưu cho Gia-cốp như thế nào?

Chờ mẹ nấu xong, Gia-cốp lấy áo của anh mình mặc vào, lấy da dê bọc hai tay và choàng quanh cổ để giả làm Ê-sau (vì Ê-sau có nhiều lông), rồi bưng thức ăn đến mời cha.

Lúc bấy giờ, đôi mắt của Y-sác đã mờ, nên Gia-cốp nói dối mình là Ê-sau. Cha chàng cảm thấy là lạ nên bảo con đến gần, và lấy tay rờ xem có đúng là Ê-sau không. Y-sác không thể hiểu được vì ông nghe giọng nói thì giống con trai út, còn đôi tay thì giống con trai trưởng. Để cho chắc chắn, Y-sác hỏi một lần nữa: “Con có phải là Ê-sau không?” Gia-cốp thưa: “Thưa cha! Phải, con là Ê-sau đây”. Y-sác liền ăn và sau đó chúc phước cho Gia-cốp, mà cứ tưởng là chúc phước cho con trưởng nam của mình. Các em đọc Sáng thế ký 27:27-29 xem Gia-cốp được phước gì? (Được Đức Chúa Trời ban mọi thứ tốt nhất, được quyền trên các anh em mình).

Sau đó, Ê-sau trở về nhà và vội vàng làm thức ăn dâng lên cho cha. Lúc này, Y-sác mới biết mình bị con trai út lừa, còn Ê-sau thì biết mình đã bị cướp mất lời chúc phước dành cho con trưởng nam. Các em nghĩ Ê-sau cảm thấy thế nào? (Căm giận). Ê-sau định bụng chờ cha qua đời sẽ giết Gia-cốp để trả thù. Vì thế, Gia-cốp phải chạy đến nhà cậu mình để trốn khỏi cơn tức giận của Ê-sau. Tình cảm gia đình rạn nứt. Anh em thù ghét nhau, và bà Rê-bê-ca phải xa cách đứa con trai yêu dấu của mình. Sự lừa dối đã đem đến nỗi buồn cho gia đình của Y-sác.

3. Ứng dụng.

a. Ôn lại câu chuyện.

Cho các em mở sách học viên bài số 5, và theo gợi ý hoàn thành bài tập “Lời ai đã nói”. Sau đó hỏi các em: “Mỗi lời nói có gì sai, hoặc hành động nào không công bằng?” Gia-cốp đã làm hai việc gì không công bằng với Ê-sau? Điều đó mang lại hậu quả gì?

b. Học câu gốc.

Cho các em đọc câu gốc, sau đó thảo luận: “Một người sống chân thật thì sẽ có những biểu hiện như thế nào trong đời sống?” (…Chẳng làm điều trái phép, chẳng kiếm tư lợi, chẳng nóng giận, chẳng nghi ngờ sự dữ, chẳng vui về điều không công bình, nhưng vui trong lẽ thật). “Điều gì giúp chúng ta có thể sống chân thật với mọi người?” (Tình yêu thương).

c. Áp dụng vào đời sống.

Trong gia đình đôi khi cũng có những xích mích xảy ra. Cho các em theo gợi ý làm bài tập “Đừng mắc câu”, sau đó chia sẻ: “Làm thế nào để có thể tránh những sai lầm đó?” (Cho các em chia sẻ những gì đã viết).

BÀI 5. SỐNG CHÂN THẬT (HV)

I. KINH THÁNH: Sáng thế ký 25:27-34, 27:1-45.

II. CÂU GỐC: “Tình yêu thương… chẳng làm điều trái phép, chẳng kiếm tư lợi, chẳng nóng giận, chẳng nghi ngờ sự dữ, chẳng vui về điều không công bình, nhưng vui trong lẽ thật” (I Côrinhtô 13:5-6).

III. BÀI HỌC.

Esau và Gia-cốp là hai người con sinh đôi của Y-sác. Vì Ê-sau là anh nên được hưởng quyền trưởng nam.

Một ngày kia, Ê-sau đi săn về và rất đói. Anh vào bếp thì thấy Gia-cốp đang nấu một nồi canh đậu đỏ, bốc mùi thơm ngào ngạt. Bụng đói cồn cào, Ê-sau vội vàng đồng ý đổi quyền trưởng nam cho Gia-cốp, để lấy một tô canh đậu đỏ.

Thời gian trôi qua. Y-sác đã già nên muốn chúc phước cho con trưởng nam. Ông bảo Ê-sau đi săn rồi nấu một món ngon cho ông ăn rồi sẽ chúc phước cho. Trong khi Esau còn ở ngoài đồng, dưới sự giúp đỡ của mẹ, Gia-cốp bắt hai con dê mập béo nhất, nấu món ăn ngon rồi giả làm Ê-sau bưng vào cho cha. Gia-cốp lấy áo của Ê-sau mặc vào, lấy da dê bọc quanh cổ và tay, nên người cha không nhận ra vì mắt ông đã mù. Người cha ăn xong rồi chúc phước cho Gia-cốp mà cứ tưởng mình chúc phước cho Ê-sau.

Ê-sau trở về biết mọi chuyện thì rất tức giận đến nỗi muốn giết Gia-cốp. Gia-cốp sợ hãi phải chạy trốn. Sự lừa dối đã làm cho gia đình tan nát.

IV. BÀI TẬP.

1. Lời ai đã nói?

Em đọc những lời sau đây rồi lựa chọn tên người đã nói những lời đó từ thùng tên và điền vào chỗ trống sao cho thích hợp.

a. Tôi thương Ê-sau hơn. ……………..

b. Tôi thương Gia-cốp hơn. …………….

c. Anh ta chỉ biết đi săn, còn tôi thì biết nấu ăn! …………….

d. Quyền trưởng nam có ích gì khi sắp chết đói!? ……………..

e. Tôi đồng ý bán quyền trưởng nam. …………….

f. Con hãy giả làm Ê-sau! ……………

g. Tôi sẽ giết chết nó! …………..

THÙNG TÊN.

Gia-cốp. Ê-sau. Rê-bê-ca. La-ban. Giô-sép. Y-sác.

2. Đừng mắc câu!

Chọn một trường hợp em gặp phải, và ghi ra cách để tránh nó.

Trường hợp em thường gặp phải.

……………………

………………….

…………………..

Em muốn ăn cắp cây viết của anh trai.

Em muốn tát tai em gái vì nó đã hỗn với mẹ.

Em muốn đổ chén cơm và nói là ăn xong rồi!

Em muốn xin ba tiền đóng học phí để đi chơi.

Cách để tránh.

………………………

……………………..

BÀI 4.  NGƯỜI LÃNH ĐẠO NẮM LẤY LỜI HỨA (GV-HV)

BÀI 4.  NGƯỜI LÃNH ĐẠO NẮM LẤY LỜI HỨA (GV-HV)

in QUÍ IV. 2016, THIẾU NHI on 26 Tháng Bảy, 2018

BÀI 4.  NGƯỜI LÃNH ĐẠO NẮM LẤY LỜI HỨA (GV)

 I. KINH THÁNH: Giô-suê 1,3, 4:1-18.

II. CÂU GỐC: “Vậy nên, phải nhận biết rằng Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, ấy là Đức Chúa Trời, tức Đức Chúa Trời thành tín, giữ sự giao ước và nhân từ đến ngàn đời cho những người yêu mến Ngài và vâng giữ các điều răn Ngài” (Phục truyền 7:9).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Giô-suê vâng theo chỉ thị của Đức Chúa Trời hướng dẫn dân sự qua sông Giô-đanh.

– Cảm nhận: Giô-suê tin vào lời hứa của Đức Chúa Trời.

– Hành động: Trong tuần lễ này, áp dụng lời hứa của Đức Chúa Trời vào đời sống, để em làm người lãnh đạo tốt.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Mình hứa với bạn.

1. Mục đích: Giúp các em nhận biết thế nào là giữ lời hứa và thực hiện nó.

2. Thực hiện: Trước hết hỏi các em: “Thế nào là giữ lời hứa?” (Cho các em tự do trả lời). Sau đó chia 2 em một tổ, mỗi em sẽ hứa với bạn trong tổ mình một việc nào đó và thực hiện trong tuần này.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

1. Vào đề.

Tưởng tượng em được chọn làm giám đốc một công ty lớn, điều đầu tiên em sẽ làm là gì? (Cho các em trả lời). Chắc chắn sẽ có nhiều việc chờ em giải quyết. Nếu em quyết định đúng thì công ty sẽ có lợi, nhưng nếu em quyết định sai thì sẽ ra sao? Vì vậy, khi một người giữ chức vụ càng cao, thì áp lực công việc càng đè nặng khiến người đó đôi khi rất mệt mỏi.

Các em còn nhớ Giô-suê đang giữ chức vụ gì không? (Lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên). Với chức vụ này, các em nghĩ Giô-suê có cảm thấy khó khăn không? Tại sao? (Cho các em trả lời).

2. Bài học.

Các em biết không, từ khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập đến giờ, nhiều việc đã thay đổi. Trừ Giô-suê và Ca-lép, lớp người theo Môi-se qua Biển Đỏ đã chết hết. Bây giờ, chỉ còn con cháu họ theo Giô-suê vào xứ Ca-na-an mà thôi.

Thời điểm đã đến! Các em đọc Giô-suê 1:2 xem Đức Chúa Trời bảo Giô-suê làm gì? Đức Chúa Trời lặp lại lời hứa của Ngài đối với Giô-suê, và nhắc nhở ông phải ghi nhớ lời Ngài và cẩn thận làm theo. Như vậy, dù ông đi đến đâu, làm gì cũng sẽ được thành công.

Các em nghĩ Giô-suê cảm thấy thế nào khi nhận được lời hứa của Đức Chúa Trời? (Cho các em trả lời).

Bây giờ, Giô-suê đã chuẩn bị sẵn sàng để hướng dẫn dân sự qua sông Giô-đanh. Giô-suê tập họp các quan trưởng lại và dặn họ điều phải làm. “Hãy chuẩn bị sẵn sàng, vì ba ngày nữa các ngươi sẽ đi qua sông Giô-đanh, chinh phục xứ mà Đức Chúa Trời đã hứa ban cho chúng ta”.

Đây là một tin khiến mọi người phấn khởi. Nhưng lúc ấy, nước sông Giô-đanh đang dâng cao và chảy rất xiết, làm sao qua sông được? Xem ra rất nguy hiểm! Nhưng Giô-suê tin vào lời hứa của Đức Chúa Trời và biết Ngài sẽ có cách, phần ông cứ việc làm theo lời Ngài.

Dân Y-sơ-ra-ên làm theo lời dặn của Giô-suê, thu xếp hành lý chuẩn bị lên đường, nhưng có hai chi phái rưỡi không cần chuẩn bị vì Đức Chúa Trời đã ban cho họ phần đất phía bên này sông. Giô-suê nói với hai chi phái rưỡi kia rằng: “Vợ, con và gia súc các ngươi ở lại, nhưng các ngươi phải qua sông để giúp đỡ các anh em mình chinh phục xứ. Sau đó, các ngươi có thể trở về nhà”. Các em đoán xem những người trong hai chi phái rưỡi đó có đồng ý không? (Cho các em trả lời trước, sau đó đọc Giô-suê 1:16-17).

Giô-suê hướng dẫn dân sự đến bờ sông và dựng lều tại đó để chuẩn bị qua sông. Giô-suê thông báo cho dân sự một chỉ thị đặc biệt nữa khiến họ rất phấn khởi. Các em đọc Giô-suê 3:5 xem đó là chỉ thị gì? (Làm cho mình ra thánh, vì ngày mai Đức Chúa Trời sẽ làm một việc kỳ diệu).

Cuối cùng, giờ phút chờ đợi cũng đã đến! Các thầy tế lễ khiêng Hòm giao ước của Đức Chúa Trời tiến đến mé sông Giô-đanh. Nước sông đang chảy xiết. Các thầy tế lễ vẫn cứ tiến tới và họ đặt chân xuống nước. Thật lạ lùng, nước từ thượng nguồn chảy xuống bỗng ngưng lại, nước sông dồn lại thành một đống lộ ra một con đường. Dân sự đi qua sông như đi trên đất khô. Các thầy tế lễ khiêng Hòm giao ước của Đức Chúa Trời dừng lại giữa sông, chờ cho tất cả mọi người lên hết bờ bên kia.

Điều Giô-suê nói là sự thật. Đức Chúa Trời đã làm một việc kỳ diệu. Các em còn nhớ Đức Chúa Trời đã từng làm điều kỳ diệu như thế này cho dân Y-sơ-ra-ên vào lúc nào không?

Khi dân sự qua sông an toàn, Đức Chúa Trời bảo Giô-suê chọn mỗi chi phái một người, đi xuống giữa sông, ngay chỗ các thầy tế lễ đứng, mỗi người vác một hòn đá đem lên bờ. Đức Chúa Trời muốn Giô-suê dựng 12 hòn đá này lên làm một đài kỷ niệm, để họ và con cháu họ mãi mãi không quên điều mà Đức Chúa Trời đã làm cho họ trong ngày hôm nay. Khi các thầy tế lễ vừa đặt chân lên bờ, nước sông Giô-đanh bỗng chảy xiết trở lại.

Giô-suê chỉ vào đài tưởng niệm và nói: “Sau này, khi con cháu các ngươi hỏi những hòn đá này có ý nghĩa gì? Các ngươi nói cho chúng biết Đức Chúa Trời đã khiến nước sông Giô-đanh rẽ ra, để các ngươi đi qua. Những hòn đá này để kỷ niệm quyền năng của Đức Chúa Trời”.

Đức Chúa Trời khiến dân Y-sơ-ra-ên vâng phục và tôn kính Giô-suê, như đã vâng phục và tôn kính Môi-se vậy. Họ biết Đức Chúa Trời luôn ở cùng, và đã chọn một người lãnh đạo tốt cho họ.

3. Ứng dụng.

a. Ôn lại câu chuyện.

Thảo luận với các em: “Nếu Giô-suê và dân sự cho rằng qua sông Giô-đanh vào mùa này là nguy hiểm, thì họ sẽ làm gì?” “Giả sử dân Y-sơ-ra-ên không làm theo chỉ thị của Giô-suê thì sẽ ra sao?” “Điều cần thiết nhất khi Giô-suê và dân sự qua sông Giô-đanh là gì? (Tin vào lời hứa của Đức Chúa Trời).

b. Học câu gốc.

Cho các em đọc câu gốc bài này rồi thảo luận: “Thành tín” có nghĩa là gì? (Luôn luôn thực hiện lời đã hứa). Kinh Thánh cho chúng ta biết, Đức Chúa Trời thể hiện Ngài là Đấng thành tín như thế nào? (Ngài giữ sự giao ước và nhân từ đến ngàn đời cho những người yêu mến Ngài và vâng giữ các điều răn Ngài).

c. Áp dụng vào đời sống.

Cho các em theo hướng dẫn hoàn thành bài tập “Đức Chúa Trời hứa…”. Sau đó cho mỗi em thay phiên nhau nói: “Đức Chúa Trời luôn ở cùng… (tên của em) mỗi ngày”. Sau đó hỏi các em: “Trong tuần lễ này, em cần nhớ lại lời hứa nào Đức Chúa Trời đã hứa với em?” “Lời hứa đó khích lệ em như thế nào?”

BÀI 4.  NGƯỜI LÃNH ĐẠO NẮM LẤY LỜI HỨA (HV)

 I. KINH THÁNH: Giôsuê 1,3, 4:1-18.

II. CÂU GỐC: “Vậy nên, phải nhận biết rằng Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, ấy là Đức Chúa Trời, tức Đức Chúa Trời thành tín, giữ sự giao ước và nhân từ đến ngàn đời cho những người yêu mến Ngài và vâng giữ các điều răn Ngài” (Phục truyền 7:9)

III. BÀI TẬP.

  1. Qua sông Giô-đanh.

Dân Y-sơ-ra-ên tin vào lời hứa của Đức Chúa Trời, nên Ngài bày tỏ quyền năng của Ngài. Em chọn những từ ngữ thích hợp trên bảng chữ rồi điền vào chỗ trống của tảng đá, để hoàn thành lời hứa của Đức Chúa Trời và đi vào vùng Đất Hứa.

“Phàm nơi nào bàn chân các ngươi đạp đến, thì Ta ……………… các ngươi” (Giôsuê 1:3).

“Trót đời ngươi sống, thì chẳng sẽ ai được ………………………… trước mặt ngươi” (Giôsuê 1:5).

“Ta sẽ ………………… ngươi, không ……………… ngươi” (Giôsuê 1:5).

“Ngày mai, Đức Chúa Trời sẽ làm những …………………… giữa các ngươi” (Giôsuê 3:5).

Bắt đầu.

Hoàn thành.

Đất hứa.

Nghi ngờ.

Nghi ngờ.

Nghi ngờ.

BẢNG CHỮ.

Căn dặn. Chống cự. Ở cùng. Phép lạ. Lìa bỏ. Biển lớn. Vâng theo. Ranh giới. Bình an. Ban cho.

  1. Đức Chúa Trời hứa …

Một người lãnh đạo tốt luôn ghi nhớ lời hứa của Đức Chúa Trời. Em viết hoặc vẽ ra một việc khiến em nhớ đến lời của Đức Chúa Trời hứa với em. Ví dụ: Đi lạc đường, đi thi, ở nhà một mình…

BÀI 3. CHỌN NGƯỜI LÃNH ĐẠO TỐT (GV-HV)

BÀI 3. CHỌN NGƯỜI LÃNH ĐẠO TỐT (GV-HV)

in QUÍ IV. 2016, THIẾU NHI on 25 Tháng Bảy, 2018

BÀI 3. CHỌN NGƯỜI LÃNH ĐẠO TỐT

I. KINH THÁNH: Dân số 27:15-23, Phục truyền 31:1-8, 34:1-12.

II. CÂU GỐC: “Chớ để người ta khinh con vì trẻ tuổi, nhưng phải lấy lời nói, nết làm, sự yêu thương, đức tin và sự tinh sạch mà làm gương cho các tín đồ” (1Ti-mô-thê 4:12).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Đức Chúa Trời chọn Giô-suê làm người lãnh đạo kế vị Môi-se.

– Cảm nhận: Giô-suê có những phẩm chất của một người lãnh đạo tốt.

– Hành động: Học tập làm một người lãnh đạo tốt trong tuần này.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Nhớ lại nhân vật.

1. Mục đích: Giúp các em nhớ lại những việc làm của nhân vật trong bài học này.

2. Chuẩn bị: Giấy bìa cứng, tư liệu về Giô-suê trong hai bài học trước.

3. Thực hiện: Trước hết, giáo viên ghi những câu ngắn tư liệu về Giô-suê lên miếng bìa cứng, rồi đem giấu trong lớp (dưới ghế, bàn, sau cánh cửa…). Khi thực hiện, cho các em tìm những miếng bìa tư liệu đó. Sau khi tìm được tất cả những miếng giấy bìa cứng đó, các em sẽ dựa trên tư liệu ngắn gọn ghi trên đó để nhắc lại việc làm của Giô-suê. Ví dụ: Tư liệu trên miếng bìa cứng là “Thám tử Giô-suê”, các em sẽ nhắc lại Giô-suê đã có thái độ như thế nào khi do thám xứ Ca-na-an?

Tư liệu gợi ý như sau: Giúp đỡ Môi-se, tin cậy Đức Chúa Trời, làm điều đúng, khích lệ người khác, can đảm, vâng lời…

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

1. Vào đề.

Các em thân mến! Có công việc gì, hoặc vật gì mà các em rất ưa thích, nhưng phải chờ đợi một thời gian khá dài mới có thể làm được hoặc mới mua được không? (Cho các em tự do phát biểu). Thật vậy, khi phải chờ đợi, thì tự nhiên các em sẽ thấy thời gian chờ đợi đó thật là dài phải không?

Các em biết không, dân Ysơ-ra-ên phải chờ đợi trong 40 năm mới được vào Đất Hứa. Tại sao họ phải chờ đợi như vậy? (Cho các em nhắc lại bài cũ). Cuối cùng, ngày họ mong đợi cũng đã đến! Ngày mà Đức Chúa Trời cho phép họ đi vào Đất Hứa.

2. Bài học.

Lúc bấy giờ, Môi-se đã 120 tuổi. Đức Chúa Trời cho Môi-se biết ông sắp qua đời. Môi-se sẵn sàng vâng phục Đức Chúa Trời, nhưng ông lo lắng dân sự sẽ ra sao nếu không có người lãnh đạo? Các em đọc Dân số 27:16-17 xem Môi-se cầu xin Đức Chúa Trời điều gì?

Dân Y-sơ-ra-ên cần một người lãnh đạo. Theo các em, ai là người thích hợp để thay thế Môi-se? Tại sao? (Cho các em trả lời). Các em đọc Dân số 27:18-20 xem Đức Chúa Trời bảo Môi-se chọn ai và tại sao phải chọn người đó?

Vậy là Giô-suê sẽ là người lãnh đạo mới của dân Y-sơ-ra-ên. Môi-se rất vui vì ông biết Giô-suê là người kính sợ và vâng phục Đức Chúa Trời. Những việc làm nào của Giô-suê cho các em thấy ông sẽ là người lãnh đạo tốt? (Cho các em chia sẻ phần sinh hoạt đầu giờ). Giô-suê hoàn toàn thích hợp với chức vụ này. Đức Chúa Trời đã chuẩn bị Giô-suê, huấn luyện ông để ông trở thành người lãnh đạo tốt cho dân Ysơ-ra-ên.

Môi-se làm theo lời Đức Chúa Trời, ông tập họp dân Ysơ-ra-ên lại và bảo họ. “Ngày nay, ta đã được 120 tuổi, không thể tiếp tục hướng dẫn các ngươi được nữa, nhưng Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi sẽ đi trước các ngươi. Ngài sẽ bảo vệ và hướng dẫn các ngươi vào xứ. Ngài cũng ban cho các ngươi người lãnh đạo mới là Giô-suê”. Tiếp đó, Môi-se khích lệ dân sự: “Hãy vững lòng bền chí, đừng sợ dân Ca-na-an, vì Đức Chúa Trời đi cùng các ngươi. Ngài không lìa khỏi các ngươi, cũng không từ bỏ các ngươi đâu!”

Sau đó, Giô-suê đi lên đứng trước mặt Môi-se, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và cả dân sự. Môi-se vâng theo mạng lệnh của Đức Chúa Trời đặt tay lên đầu Giô-suê, tuyên bố Giô-suê là người lãnh đạo mới của dân Y-sơ-ra-ên và khích lệ ông. Các em đọc Phục truyền 31:7-8 xem Môi-se khích lệ Giô-suê như thế nào? (Vững lòng bền chí, đừng sợ hãi vì Đức Chúa Trời sẽ ở cùng).

Cuối cùng, Môi-se nhắc nhở dân sự phải ghi nhớ lời Đức Chúa Trời và vâng theo, cũng truyền dạy cho con cháu vâng theo điều răn của Đức Chúa Trời nữa. Như thế, họ và con cháu họ sẽ nhận được phước hạnh Đức Chúa Trời ban cho.

Sau khi nói chuyện với dân sự xong, Môi-se từ giã họ rồi đi lên núi Nê-bô. Tại đó, Đức Chúa Trời cho Môi-se nhìn thấy toàn xứ Ca-na-an rồi ông qua đời. Kinh Thánh cho chúng ta biết Đức Chúa Trời chôn cất Môi-se, nhưng không cho biết mộ Môi-se ở đâu. Dân Y-sơ-ra-ên để tang Môi-se 30 ngày. Chắc họ rất thương tiếc ông.

Giô-suê bắt đầu vào chức vụ. Điều đầu tiên ông phải làm là hướng dẫn dân sự tiến chiếm Đất Hứa. Ông có hoàn thành nhiệm vụ của mình không? Tuần sau chúng ta sẽ biết nhé!

3. Ứng dụng.

a. Ôn lại câu chuyện.

Cho các em mở sách học viên bài số 3, và theo chỉ dẫn hoàn thành bài tập “Người lãnh đạo mới”. Sau đó cho các em thảo luận: “Giô-suê có tính cách đặc biệt nào để ông có thể làm một người lãnh đạo tốt? Em nghĩ Giô-suê cảm thấy như thế nào khi nhận lấy trách nhiệm lãnh đạo?

b. Học câu gốc.

Hướng dẫn các em đọc câu gốc, sau đó thảo luận: “Ai là gương tốt cho em trong lời nói (không nói dối, nói tục, nói lời hung dữ…), hoặc nết làm (làm điều đúng, vâng phục…), hoặc sự yêu thương (giúp đỡ, chia sẻ…) hoặc đức tin (tin cậy và vâng theo lời Chúa), hoặc sự tinh sạch (không làm điều xấu, điều sai trái)?

c. Áp dụng vào đời sống.

Giáo viên thảo luận với các em: “Mỗi người chúng ta đều có thể trở thành những người lãnh đạo tốt. Các em sẽ trở thành người lãnh đạo tốt đối với em trai hoặc em gái mình, hoặc bạn bè trong lớp. Em sẽ trở thành người lãnh đạo trên phương diện nào? (Học tập, lao động, học lời Chúa…). Tiếp đó, cho các em theo hướng dẫn hoàn thành bài tập “Sáng tác câu chuyện” và chia sẻ những gì mình đã viết. Khích lệ các em thực hiện vai trò người lãnh đạo nhỏ trong tuần này.

(Giáo viên có thể dựa vào tài liệu sáng tác một câu chuyện trước, để hướng dẫn các em dễ dàng hơn).

BÀI 3. NGƯỜI LÃNH ĐẠO LÀM GƯƠNG TỐT

I. KINH THÁNH: Dân số 27:15-23, Phục truyền 31:1-8, 34:1-12.

II. CÂU GỐC: “Chớ để người ta khinh con vì trẻ tuổi, nhưng phải lấy lời nói, nết làm, sự yêu thương, đức tin và sự tinh sạch mà làm gương cho các tín đồ” (1Ti-mô-thê 4:12).

III. BÀI TẬP.

1. Người lãnh đạo mới.

Em dựa vào mỗi số sau đường kẻ ngang để tìm từ thích hợp trên con đường lên núi, rồi điền vào chỗ trống (phải theo hướng mũi tên).

Dân Y-sơ-ra-ên lưu lạc trong ___ ___ (3) ___ ___ ___ (5). Đức Chúa Trời ___ ___ (10) với Môi-se. Lúc ấy, Môi-se đã ___ ___ (16). Đức Chúa Trời cho biết ông sắp phải ___ (8). Môi-se ___ ___ (12) Đức Chúa Trời chọn người ___ ___ (6) mới. Đức Chúa Trời bảo Môi-se tập họp ___ ___ (1) và ___ ___ ___ (2) _______ (4), tuyên bố ___ ___ (13) là người lãnh đạo mới của họ. Môi-se đặt tay trên ___ (9) của Giôsuê và nói: “Hãy ___ ___ (11), phải có ___ ___ (15) nơi Đức Chúa Trời. Sau đó, Môi-se đi lên ___ ___ (7) Nêbô và chết tại đó. Dân sự rất ___ ___ (14) ông, và họ tiếp tục đi theo người lãnh đạo mới của họ.

Lấy chữ và sắp xếp đúng như trong bản viết tay.

2. Sáng tác câu chuyện.

Em dùng tài liệu phía dưới để viết một câu chuyện về “Người lãnh đạo tốt”.

BÀI 2. NGƯỜI LÃNH ĐẠO TIN CẬY CHÚA (GV-HV)

BÀI 2. NGƯỜI LÃNH ĐẠO TIN CẬY CHÚA (GV-HV)

in QUÍ IV. 2016, THIẾU NHI on 25 Tháng Bảy, 2018

BÀI 2. NGƯỜI LÃNH ĐẠO TIN CẬY CHÚA (GV)

I. KINH THÁNH: Dân số ký 13-14:35.

II. CÂU GỐC: “Hãy hết lòng tin cậy Đức Giê-hô-va, chớ nương cậy nơi sự thông sáng của con”(Châm ngôn 3:5).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Lời báo cáo của Giô-suê và Ca-lép về xứ Ca-na-an, khác với lời báo cáo của 10 thám tử còn lại.

– Cảm nhận: Giô-suê và Ca-lép không hùa theo số đông, quyết giữ vững lòng tin cậy nơi Đức Chúa Trời.

– Hành động: Làm theo lời Chúa, không nghe theo lời bạn xúi giục làm điều không đẹp lòng Ngài.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Sự chọn lựa của em. 

1. Mục đích: Các em thảo luận giữa việc nên làm và không nên làm.

2. Tài liệu: Trang tư liệu B sách học viên.

3. Thực hiện: Cho các em mở sách học viên trang tư liệu B, và theo hướng dẫn hoàn thành bài tập. Sau đó hỏi các em: “Mỗi người trong hình vẽ muốn em làm gì? Em chọn lựa thế nào? Tại sao?”

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

1. Vào đề.

Có khi nào em và một nhóm bạn quyết định làm một việc nào đó, nhưng trong số đó có người phản đối không? Ví dụ: Mọi người quyết định cùng xem phim hoạt hình, nhưng một vài bạn lại muốn xem chương trình “Em yêu khoa học”… (Cho các em tự do chia sẻ). Hôm nay, các em sẽ thấy có 12 người nhưng chia làm hai phe, với hai ý kiến trái ngược nhau. Bây giờ chúng ta sẽ xem ý kiến của họ như thế nào nhé!

2. Bài học.

Dân Ysơ-ra-ên đóng trại tại đồng vắng Pha-ran. Đức Chúa Trời bảo Môi-se cho người do thám xứ Ca-na-an trước khi đưa dân sự vào. Các em đọc Dân số ký 13:2 xem Đức Chúa Trời chỉ thị Môi-se như thế nào? (Cho các em đọc câu Kinh Thánh).

Môi-se làm theo lời Đức Chúa Trời phán dặn, chọn trong 12 chi phái mỗi chi phái 1 người để đi do thám xứ. Trong 12 người được chọn, có Giô-suê và Ca-lép.

Môi-se nói: “Hãy đi xem xứ đó như thế nào. Dân sự ở đó mạnh hay yếu, đất đai tốt hay xấu, và hái trái cây xứ đó đem về đây!”

Mười hai thám tử chuẩn bị lên đường. Họ là người đầu tiên nhìn thấy xứ tốt đẹp mà Đức Chúa Trời hứa ban. Một tháng trôi qua, họ cũng chưa trở về. Mọi người ở nhà trông đợi. Rồi ngày thứ 40, mười hai thám tử trở về, đem theo những chùm nho nặng trĩu đến hai người khiêng, cùng nhiều loại trái cây khác. Các em đọc Dân số ký 13:27 xem các thám tử báo cáo với Môi-se về xứ đó như thế nào?

Các thám tử thấy xứ Ca-na-an thật sự “đượm sữa và mật”. Trái cây họ đem về đã nói lên điều đó. Nhưng, họ nói tiếp: “Dân xứ đó rất mạnh, thành trì rất vững vàng. Còn nữa, chúng tôi thấy những người khổng lồ sống ở đó nữa!”

Dân sự hoang mang lo lắng. Nhưng thám tử Ca-lép khích lệ dân sự: “Chúng ta hãy đi lên chiếm xứ, vì chúng ta sẽ chinh phục được”. Nhưng các thám tử khác phản đối: “Không được! Không được! Chúng ta không thể đánh chiếm xứ đó, vì dân xứ đó mạnh hơn chúng ta! So với họ, chúng ta chỉ như những con cào cào mà thôi!”

Lời nói của các thám tử này khiến dân sự sợ hãi. Họ bắt đầu khóc lóc, lằm bằm oán trách Môi-se: “Chúng tôi thà chết tại Ai-cập hoặc trong đồng vắng còn hơn! Tại sao Đức Chúa Trời dẫn chúng tôi vào đất này để bị giết?!” Rồi họ bàn với nhau lập một người lãnh đạo khác để dẫn họ quay trở về Ai-cập.

Dân sự hoàn toàn không tin cậy lời hứa của Đức Chúa Trời cho họ. Họ đã quên những ngày tháng đi trong đồng vắng, Ngài đã nuôi nấng, chăm sóc, giải cứu, giúp đỡ họ như thế nào.

Trước tình hình đó, Giô-suê và Ca-lép xé áo mình bày tỏ lòng đau thương. Hai ông nói với dân sự. Các em đọc Dân số ký 14:7-9 xem hai ông có cái nhìn khác với những thám tử kia như thế nào?

Dĩ nhiên Giô-suê và Ca-lép cũng nhìn thấy thành trì vững chắc và những người khổng lồ, nhưng họ tin vào lời hứa của Đức Chúa Trời. Ngài đã hứa ban cho họ vùng đất này. Giô-suê và Ca-lép khuyên dân sự đừng sợ dân cư ở đó, vì Đức Chúa Trời sẽ ở cùng họ. Dân sự không những không nghe mà còn muốn ném đá giết chết hai ông nữa.

Các em nghĩ Đức Chúa Trời cảm thấy thế nào trước hành động của dân sự? (Rất buồn). Theo em, Ngài sẽ làm gì? (Ngài sửa phạt họ). Những người không tin vào lời hứa của Đức Chúa Trời và đã nói: “Chúng tôi thà chết trong đồng vắng” thì sẽ nhận được như điều họ nói. Hành động không tin cậy Đức Chúa Trời của họ khiến họ phải trả giá: 40 năm lưu lạc trong đồng vắng cho đến khi chết hết, chỉ con cháu họ sinh ra trong thời gian đó, cùng Giô-suê và Ca-lép được vào xứ Ca-na-an mà thôi. Còn 10 thám tử cùng đi với Giô-suê và Ca-lép bị Đức Chúa Trời phạt chết ngay sau đó trong một tai vạ.

Sau 40 năm, Giô-suê hướng dẫn lớp người sinh ra và lớn lên trong đồng vắng đi vào xứ Ca-na-an. Lời hứa của Đức Chúa Trời cho dân Y-sơ-ra-ên đã được thực hiện.

3. Ứng dụng.

a. Ôn lại câu chuyện.

Cho các em mở sách học viên bài số 2 và theo chỉ dẫn hoàn thành bài tập “Hai cách nhìn”. Sau đó hỏi các em: “10 thám tử có cảm nhận như thế nào đối với việc tiến vào xứ Ca-na-an?” “Còn Giô-suê và Ca-lép thì có cảm nhận như thế nào?” “Giô-suê và Ca-lép đã thể hiện họ là người lãnh đạo tốt như thế nào?” (Tin cậy Đức Chúa Trời, làm điều đúng, khích lệ dân sự).

b. Học câu gốc.

Cho các em đọc câu gốc, sau đó thảo luận: “Chớ nương cậy nơi sự thông sáng của con có nghĩa gì?” “Vì sao lại không nên như vậy? Bằng cách nào để em có được sự hướng dẫn của Chúa và thêm lòng tin cậy Ngài?”

c. Áp dụng vào đời sống.

Trước hết thảo luận với các em: “Qua Giô-suê và Ca-lép, em nhận thấy phẩm chất của người lãnh đạo tốt là gì? (Tin cậy Đức Chúa Trời, làm điều đẹp lòng Chúa, từ chối làm điều không đúng, giúp người khác nhận ra cái sai, và khích lệ họ làm điều đúng). Sau đó, cho các em theo hướng dẫn làm bài tập “Lời nói của người lãnh đạo tốt”, rồi chia sẻ những gì đã viết.

BÀI 2. NGƯỜI LÃNH ĐẠO TIN CẬY CHÚA (HV)

 I. KINH THÁNH: Dân số ký 13-14:35.

II. CÂU GỐC: “Hãy hết lòng tin cậy Đức Giê-hô-va, chớ nương cậy nơi sự thông sáng của con” (Châm ngôn 3:5).

III. BÀI TẬP.

1. Hai cách nhìn.

Em nối chữ ở hàng dọc và số ở hàng ngang để tìm từ ghi trên đường kẻ.

Báo Cáo Của 10 Thám Tử.

Dân xứ đó có những A5 B2.

Chúng ta như A1 C3.

Báo Cáo Của Giôsuê Và Calép.

Chúng ta A3 B5 phải B4 C2 xứ đó, bởi vì A2 A4 B1 C4 C1 B3 C5.

2. Lời nói của người lãnh đạo tốt.

Em đọc lời thoại phía dưới và trả lời vào chỗ trống của B và D để thể hiện họ là người lãnh đạo tốt.

A. Anh ơi! Mẹ có ở nhà không?

B. Mẹ chưa về!

A. Khi mẹ về nói với mẹ là hôm nay em không có ra ngoài nhen!

B. ……………………………………………………….

C. Em muốn xem phim này không?

D. Ba em nói không nên xem.

C. Hay lắm!

D. Ba em nói không thích hợp với trẻ em!

C. Vậy, em đến nhà anh xem. Ba sẽ không biết!

D. ……………………………………………………….

BÀI 1. NGƯỜI LÃNH ĐẠO PHẢI BIẾT VÂNG LỜI (GV-HV)

BÀI 1. NGƯỜI LÃNH ĐẠO PHẢI BIẾT VÂNG LỜI (GV-HV)

in QUÍ IV. 2016, THIẾU NHI on 23 Tháng Bảy, 2018

BÀI 1. NGƯỜI LÃNH ĐẠO PHẢI BIẾT VÂNG LỜI (GV)

 I. KINH THÁNH: Xuất Ê-díp-tô 17:8-16.

II. CÂU GỐC: “Hãy nghe lời khuyên dạy, và tiếp nhận sự giáo hối, để con được khôn ngoan trong lúc cuối cùng” (Châm ngôn 19:20).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Giô-suê vâng theo chỉ thị của Môi-se và Đức Chúa Trời đã giúp ông chiến thắng dân A-ma-léc.

– Cảm nhận: Vâng theo lời khuyên dạy thì sẽ thành công.

– Hành động: Vâng phục những chỉ thị mà người lãnh đạo (ba mẹ, giáo viên…) đưa ra.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Sự hướng dẫn trên bản đồ.

1. Mục đích: Cho các em tự tìm ra câu gốc của bài học Kinh Thánh này.

2. Tài liệu: Sách học viên trang tư liệu A.

3. Thực hiện: Hướng dẫn các em mở sách học viên trang tư liệu A, cho các em theo hướng dẫn hoàn thành bài tập, tìm ra câu gốc của bài này.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

1. Vào đề.

Các em thân mến! Bây giờ chúng ta sẽ gặp gỡ một đoàn người Hê-bơ-rơ từ xứ Ai-cập đến. Trong đoàn người ấy có một thanh niên tên là Giô-suê. Giô-suê là người yêu mến Đức Chúa Trời.

2. Bài học.

Từ lúc dân Ysơ-ra-ên rời Ai-cập cho đến bây giờ, Giô-suê nhìn thấy rõ Đức Chúa Trời đã chăm lo cho dân sự Ngài. Giô-suê cũng nhận biết Đức Chúa Trời chọn lựa Môi-se làm người lãnh đạo. Dù lúc ấy Giô-suê còn trẻ, nhưng ông vẫn là người trợ giúp đắc lực của Môi-se. Lúc này, Môi-se đang hướng dẫn dân sự vượt qua đồng vắng Sin, đến vùng đất mà Đức Chúa Trời hứa ban (chỉ trên bản đồ).

Bây giờ các em nhắm mắt lại và thử tưởng tượng mình cùng đoàn dân Y-sơ-ra-ên đang đi trong đồng vắng. Các em cảm thấy thế nào? Khí hậu nóng bức cùng mùi của súc vật chung quanh. Các em nghe tiếng chân người và tiếng súc vật kêu. Bỗng nhiên, các em lại nghe có tiếng nhốn nháo phía sau. Chuyện gì vậy? Bây giờ các em mở mắt ra xem chuyện gì xảy ra nhé!

Các em đọc Xuất Ê-díp-tô 17:8 xem chuyện gì đã xảy ra? (Người A-ma-léc đến khiêu chiến). Người A-ma-léc không cho dân Y-sơ-ra-ên và đàn súc vật đi ngang qua vùng đất của họ, nên muốn khiêu chiến. Trong hoàn cảnh đó, Môi-se ra lệnh cho Giô-suê: “Ngươi hãy tuyển chọn một số thanh niên trai tráng để chiến đấu với dân A-ma-léc. Còn ta sẽ đứng trên đỉnh đồi cầm gậy của Đức Giê-hô-va trong tay”. 

Giô-suê lập tức vâng theo chỉ thị của Môi-se, nhanh chóng tuyển quân, sẵn sàng chiến đấu. Giô-suê lãnh đạo quân Y-sơ-ra-ên ra trận. Khi nhìn lên đỉnh đồi, họ thấy Môi-se đang cầm cây gậy giơ cao lên, thì biết ông đang cầu xin Đức Chúa Trời giúp đỡ.

Y-sơ-ra-ên tấn công dân A-ma-léc. Họ đang chiến thắng. Bỗng nhiên, dân A-ma-léc mạnh lên. Dân Y-sơ-ra-ên phải lùi lại. Các em đọc Xuất 17:11 xem tại sao lại như vậy?

Thì ra, thế trận tùy thuộc vào việc Môi-se giơ tay cao lên hay hạ xuống. Khi tay Môi-se hạ xuống, dân A-ma-léc trở nên mạnh mẽ. Môi-se gấp rút giơ hai tay lên, tiếp tục cầu nguyện với Đức Chúa Trời (giáo viên vừa nói vừa giơ hai tay lên, cho các em làm theo). Thật lạ lùng, người A-ma-léc bỗng trở nên yếu đuối. Xem ra, tay của Môi-se không thể nào để xuống được, nhưng ông không thể nào giơ mãi vì sẽ rất mỏi. Các em có cảm thấy mỏi không?

Các em đọc Xuất 17:12 xem Môi-se phải làm thế nào? A-rôn là anh của Môi-se, còn Hu-rơ là bạn. Hai người phải giúp đỡ Môi-se. Họ lấy đá kê cho ông ngồi, rồi hai người ở hai bên nâng cánh tay của Môi-se lên. Đây không phải là một việc dễ, vì tay họ không bao lâu cũng sẽ bị mỏi. Nhưng nhất định họ phải làm như vậy cho đến khi mặt trời lặn. Đây là khoảng thời gian quan trọng để quyết định kết quả trận chiến.

Mặt trời lặn xuống! Giô-suê đánh bại người A-ma-léc. Lúc ấy, chắc Môi-se, A-rôn và Hu-rơ lập tức để tay xuống để nghỉ ngơi. Chính Đức Chúa Trời giúp đỡ Giô-suê chiến thắng dân A-ma-léc.

Sau đó, Đức Chúa Trời nói chuyện với Môi-se. Các em đọc Xuất 17:14 xem Ngài phán dặn Môi-se làm gì? Đức Chúa Trời muốn dân Y-sơ-ra-ên ghi nhớ chính Ngài giúp họ chiến thắng.

Môi-se lập một bàn thờ cho Đức Giê-hô-va, để thờ phượng và cảm tạ Ngài đã giúp dân Y-sơ-ra-ên chiến thắng. Môi-se đặt tên bàn thờ là “Giê-hô-va cờ xí của tôi”, có nghĩa là “Đức Chúa Trời vùa giúp”. Tên gọi này nhắc nhở họ phải ghi nhớ quyền năng và sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời.

3. Ứng dụng.

a. Ôn lại câu chuyện.

Cho các em mở sách học viên bài số 1 và theo hướng dẫn hoàn thành bài tập “Cuộc chiến giữa Y-sơ-ra-ên và A-ma-léc”. Sau đó, cho các em thảo luận: “Nếu Giô-suê sợ hãi không dám vâng lời Môi-se thì sẽ ra sao? Theo em, tại sao Giô-suê vâng theo chỉ thị của Môi-se? (Giô-suê biết Môi-se là người của Đức Chúa Trời, là người lãnh đạo tốt, vâng phục Đức Chúa Trời). Lần này, Giô-suê học tập được gì ở Môi-se? (Một người lãnh đạo không bao giờ quên cầu xin Đức Chúa Trời giúp đỡ).

b. Học câu gốc.

Cho các em chia sẻ phần sinh hoạt đầu giờ, sau đó đọc câu gốc rồi thảo luận: “Trọng tâm câu Kinh Thánh này là gì? (Các em phải lắng nghe và tiếp nhận mọi lời khuyên dạy, nhất là lời khuyên dạy trong Kinh Thánh. Như thế, các em sẽ được sự khôn ngoan và thành công).

c. Áp dụng vào đời sống.

Trước hết thảo luận với các em: “Những người nào là người lãnh đạo trong đời sống của các em?” (Ba, mẹ, thầy, cô, người huấn luyện…). Em tự đánh giá mình được bao nhiêu điểm về phương diện vâng lời họ? (100 điểm là tối đa). Sau đó cho các em theo hướng dẫn hoàn thành bài tập “Lời nói của ai?”

Giáo viên chia sẻ: “Vâng lời đôi khi không phải là việc dễ, bởi vì chúng ta thường thích làm theo ý mình. Nếu những người hướng dẫn khuyên các em làm điều đúng mà các em không nghe theo, thì sẽ thất bại. Xin Đức Chúa Trời giúp đỡ các em vâng phục sự hướng dẫn của người khác, như: Mục sư, ba mẹ, thầy cô, anh chị hướng dẫn… Có một điều chắc chắn các em phải vâng phục, đó là phải tin Chúa Giê-xu để trở nên con cái của Đức Chúa Trời. Các em đã vâng phục Đức Chúa Trời tiếp nhận Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa chưa? (Cho các em cầu nguyện).

BÀI 1.  NGƯỜI LÃNH ĐẠO PHẢI BIẾT VÂNG LỜI (HV)

 I. KINH THÁNH: Xuất E-díp-tô 17:8-16.

II. CÂU GỐC: “Hãy nghe lời khuyên dạy, và tiếp nhận sự giáo hối, để con được khôn ngoan trong lúc cuối cùng” (Châm ngôn 19:20).

III. BÀI TẬP

1. Cuộc chiến giữa Y-sơ-ra-ên và A-ma-léc.

Em chọn lựa hình vẽ thích hợp và trả lời câu hỏi phía dưới.

Tuyển chọn một số người ra trận.

(Hình A).

Kinh Thánh.

(Hình B).

Bàn thờ.

(Hình C).

A-rôn, Hu-rơ.

(Hình D).

Người A-ma-léc.

(Hình E).

Môi-se, A-rôn, Hu-rơ.

(Hình G).

a. Ai khiêu chiến với dân Y-sơ-ra-ên?

Hình ……

b. Môi-se chỉ thị cho Môi-se làm gì?

Hình ……

c. Ai đứng trên đỉnh đồi?

Hình ……

b. Ai giúp đỡ Môi-se khi ông mệt mỏi?

Hình ……

c. Môi-se làm gì sau khi chiến thắng?

Hình …….

d. Môi-se ghi lại sự kiện này vào đâu?

Hình ……

2. Lời nói của ai?

Trong cuộc sống, người lãnh đạo thường ra những chỉ thị. Em dùng đường vẽ nối nhân vật và lời nói sao cho phù hợp. Sau đó, em tự đánh giá mình được bao nhiêu điểm về phương diện vâng lời, nhớ tối đa là 100 điểm nhé!

(từ trên xuống dưới, từ trái qua phải)

 

Cảnh sát.

Giáo viên.

Ba.

Mẹ.

Huấn luyện viên.

Lớp trưởng.

  • Em là cầu thủ dự bị.
  • Đi xe đạp phải đúng đường dành cho xe đạp.
  • Xếp hàng ở đây.
  • Để đồ chơi đúng chỗ.
  • Cắm trại ngày mai phải dừng lại. (Hỏi Trâm câu nầy nghĩa gì?
  • Bạn bè phải giúp đỡ lẫn nhau.
  • Hôm nay bạn trực vệ sinh.
  • Phải đi trên đường dành cho người đi bộ.
  • Làm xong bài mới xem tivi.
  • Đừng đá cầu qua bên trái.
  • Mặc áo lạnh mới ra ngoài.
  • Ngày mai nộp bài.

BÀI 13.  BÀI ÔN (GV-HV)

BÀI 13.  BÀI ÔN (GV-HV)

in QUÍ III. 2016, THIẾU NHI on 20 Tháng Bảy, 2018

BÀI 13.  BÀI ÔN (GV-HV)

Tuần lễ cuối quý nầy, giáo viên giúp các em ôn lại những nhân vật đã học trong quí như: Môi-se, Ba-la-am, Giô-suê, hai thám tử, Ra-háp, A-can, Đê-bô-ra, Ba-rác, Ghê-đê-ôn… rút ra những việc làm đặc biệt của họ, để lấy đó làm sự dạy dỗ, nhắc nhở các em.

Cho các em ôn lại những câu gốc đã học trong quí nầy, để lời của Chúa vun đắp thêm cho đức tin của các em được trưởng thành.

Sau đó cho các em làm bài khảo sát trong tập học viên. Nếu có thể được, các bạn chuẩn bị vài gói quà nhỏ để khích lệ những em đã làm bài tốt.

SINH HOẠT.

Chúc mừng các em đã học xong 12 bài trong quý này. Các em đã học biết về gương tốt cũng như những gương xấu của các nhân vật. Trong giờ sinh hoạt hôm nay, các em sẽ chơi trò “Tâm đầu ý hiệp” để ôn lại điều nào em nên học và điều nào em nên từ bỏ.

– Chia lớp ra làm nhiều nhóm (mỗi nhóm 5-6 người), xếp thành hàng dọc. NHD phát cho mỗi nhóm một tờ giấy dài và một cây viết.         – Sau khi nghe lệnh của NHD, người đầu nhóm chọn tên một nhân vật đã học như Môi-se, A-háp, Giô-suê, Ba-la-am, A-can, Ba-rác, Đê-bô-ra, Ghê-đê-ôn… xong gấp lại rồi chuyền cho người thứ hai.

– Người thứ hai xem xong rồi viết tiếp một câu diễn tả ưu khuyết điểm của nhân vật đó, gấp lại rồi chuyền cho người thứ ba và cứ tiếp tục cho đến người cuối cùng.

– Người cuối cùng xem phần viết của người vừa đưa cho mình rồi đoán xem nhân vật đó là ai và ghi vào giấy nộp cho NHD.

Luật chơi: Chỉ được phép xem phần viết của người kế mình.

– Ví dụ: (1) Ba-la-am, (2) tham của cải vật chất, (3) lấy cái áo choàng, (4) Giấu trong trại, (5) Bị ném đá chết, (6) Ba-la-am.

BÀI 12.  GƯƠM CỦA ĐỨC GIÊ-HÔ-VA VÀ CỦA GHÊ-ĐÊ-ÔN (GV-HV)

BÀI 12.  GƯƠM CỦA ĐỨC GIÊ-HÔ-VA VÀ CỦA GHÊ-ĐÊ-ÔN (GV-HV)

in QUÍ III. 2016, THIẾU NHI on 20 Tháng Bảy, 2018

BÀI 12.  GƯƠM CỦA ĐỨC GIÊ-HÔ-VA VÀ CỦA GHÊ-ĐÊ-ÔN (GV)

I. KINH THÁNH: Các Quan Xét 6:33; 7:22

II. CÂU GỐC: “Hãy phó thác đường lối mình cho Đức Giê-hô-va, và nhờ cậy nơi Ngài, thì Ngài sẽ làm thành việc ấy” (Thi Thiên 37:5).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Đức Chúa Trời nhiều lần bày tỏ cho Ghê-đê-ôn biết chắc sự kêu gọi của Ngài để ông vững vàng nhận lấy và hoàn thành nhiệm vụ.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời luôn giúp đỡ chúng ta khi chúng ta nhờ cậy Ngài.

– Hành động: Phó thác đời sống của mình cho Chúa và nhờ cậy Ngài.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY

* Chuẩn bị.

1. Vật liệu để thực hiện phần thủ công.

2. Thị cụ: Kèn, bình, nến.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

1. Vào đề.

Các em thân mến! Có phải Đức Chúa Trời luôn chăm sóc các em không? Nếu Ngài bảo các em làm một việc gì đó mà các em cảm thấy lo sợ thì các em có cầu xin Chúa giúp đỡ không? Và nếu như các em cầu xin Chúa giúp đỡ quá nhiều lần, Đức Chúa Trời có cho là phiền phức không? Ngài có thể vì thế mà nổi giận với các em không? (Mời các em phát biểu ý kiến).

Đức Chúa Trời muốn Ghê-đê-ôn thực hiện một việc khó. Các em còn nhớ việc đó không? (Phá đổ bàn thờ tà thần Ba-anh. Ghê-đê-ôn đã làm xong. Còn việc cứu dân Y-sơ-ra-ên khỏi tay dân Ma-đi-an thì Ghê-đê-ôn chưa hoàn thành).

2. Bài học.

a. Dấu hiệu cho Ghê-đê-ôn.

Một hôm, dân Ma-đi-an cùng với dân Amaléc lại kéo đến. Chúng vượt qua chỗ cạn của sông Giô-đanh và đóng trại tại một thung lũng gần nơi dân Y-sơ-ra-ên ở. Đây là lúc Ghê-đê-ôn phải hành động. Chàng thổi kèn tập hợp chiến sĩ của các chi phái, và sai người đến những chi phái ở xa không nghe tiếng kèn, dặn các chiến sĩ chuẩn bị sẵn sàng ra trận.

Quân số của Ma-đi-an đông hơn nhiều so với quân số của Y-sơ-ra-ên. Tuy đã chuẩn bị sẵn sàng, nhưng Ghê-đê-ôn vẫn lo lắng. Muốn biết chắc chắn có phải Đức Chúa Trời sai mình đi đánh dân Ma-đi-an không, nên trước khi hành động, Ghê-đê-ôn cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời: “Nếu thật sự Chúa muốn dùng tay con giải cứu dân Y-sơ-ra-ên, thì xin cho con một dấu hiệu. Con sẽ để miếng da chiên trên sân đạp lúa, nếu đêm nay sương chỉ làm ướt miếng da chiên, còn mặt sân khô ráo, thì con sẽ nhận biết Chúa dùng tay con giải cứu Y-sơ-ra-ên”.

Ghê-đê-ôn cẩn thận trải miếng da chiên ra sân đạp lúa, vì biết chắc đêm nay sương sẽ xuống nhiều. Sáng sớm hôm sau, Ghê-đê-ôn ra xem thì thấy miếng da chiên ướt đẫm đến nỗi vắt được cả chén nước, còn mặt sân lại khô ráo. Đức Chúa Trời đã trả lời y như điều Ghê-đê-ôn cầu xin.

Nhưng Ghê-đê-ôn vẫn chưa tin chắc, vì chàng nghĩ rằng gió cũng có thể thổi khô lớp sương trên sân, nhưng không thể thổi khô miếng da chiên trong một thời gian ngắn. Vì thế, một lần nữa, Ghê-đê-ôn cầu xin Đức Chúa Trời thực hiện phép lạ khác: “Xin Chúa cho lần nầy miếng da chiên khô ráo, còn khắp sân bị sương thấm ướt”. Sáng hôm sau, Ghê-đê-ôn nôn nóng chạy ra xem kết quả thế nào, thì quả nhiên thấy miếng da chiên hoàn toàn khô ráo, còn khắp sân lại ướt đẫm sương đêm. Không còn nghi ngờ gì nữa, Ghê-đê-ôn biết chắc Đức Chúa Trời kêu gọi chàng đi giải cứu dân Y-sơ-ra-ên khỏi tay Ma-đi-an và Ngài sẽ ở cùng chàng

b. Ghê-đê-ôn tuyển chọn chiến sĩ.

(1) Tuyển chọn lần thứ nhất.

Sau tiếng kèn kêu gọi của Ghê-đê-ôn, những thanh niên Y-sơ-ra-ên từ các chi phái đều tập hợp lại, tổng số được ba mươi hai ngàn người. Tuy nhiên, quân số ba mươi hai ngàn người không thấm vào đâu so với quân Ma-đi-an đông như cào cào, như cát bãi biển. Vậy mà Đức Chúa Trời bảo Ghê-đê-ôn, ba mươi hai ngàn người là quá đông, e dân Y-sơ-ra-ên kiêu ngạo cho rằng mình chiến thắng là do quân đội hùng hậu, chứ không phải do Đức Chúa Trời. “Vậy bây giờ, ngươi hãy thông báo cho các chiến sĩ: Ai lo lắng, sợ hãi, hãy trở về nhà!”

Mệnh lệnh được ban ra, có 22.000 chiến sĩ trở về.

(2) Tuyển chọn lần thứ hai.

Bây giờ chỉ còn có mười ngàn người, số quân quá nhỏ bé so với đội quân hùng hậu của dân Ma-đi-an, nhưng Chúa lại phán với Ghê-đê-ôn: “Hãy còn đông  quá!” Thế là Ghê-đê-ôn tiếp tục tuyển chọn theo cách của Chúa. Chàng quan sát mười ngàn chiến sĩ uống nước dưới suối. Đa số họ đều quì gối cúi mặt xuống uống nước. Các em nghĩ xem nếu như quân địch tấn công bất ngờ, nhưng người nầy có trông thấy không? Có lập tức cầm vũ khí phản công không? Tại sao? (Cho các em phát biểu).

Chỉ có một số ít người khom lưng xuống, dùng tay bụm nước uống. Các em nghĩ những người nầy sẽ như thế nào khi có quân địch bất ngờ tấn công? (Cho các em nhận xét). Đức Chúa Trời bảo Ghê-đê-ôn chọn những người nầy làm chiến sĩ trong quân đội mình. Các em thử đoán xem được bao nhiêu người? Chỉ có ba trăm người. Đức Chúa Trời phán rằng: “Ta sẽ dùng ba trăm người nầy để giải cứu các ngươi khỏi tay Ma-đi-an”.

Ghê-đê-ôn biết với quân số ba trăm người như vầy sẽ không làm được gì trước quân Ma-đi-an, nhưng chàng cứ phó thác và nhờ cậy Đức Chúa Trời.

c. Sự khích lệ cho Ghê-đê-ôn.

Tuy Ghê-đê-ôn sẵn sàng vâng lời, nhưng Chúa thấy trong lòng của chàng vẫn còn lo sợ, nên Ngài phán: “Nếu ngươi còn lo sợ, thì hãy đi với Phura, đầy tớ ngươi, xuống trại quân Ma-đi-an nghe ngóng những điều họ bàn tán, rồi ngươi sẽ vững tâm mà đem quân xuống đánh”.

Ghê-đê-ôn và Phu-ra đi trong bóng tối đến trại quân Ma-đi-an. Tại đây, Ghê-đê-ôn nhìn thấy trại của quân địch đông không kể xiết, còn lạc đà thì rất nhiều. Ghê-đê-ôn đến gần một trại quân, thì nghe có tiếng nói chuyện bên trong. Một người nói: “Tôi thấy một giấc mơ thật lạ. Có một cái bánh nhỏ làm bằng bột lúa mạch lăn vào trại quân Ma-đi-an, đụng phải một cái trại làm cho nó đổ sập xuống”.

Người kia đáp: “Đó chắc là gươm của Ghê-đê-ôn, người Y-sơ-ra-ên. Đức Chúa Trời đã phó Ma-đi-an và cả trại quân nầy vào tay ông ta”.

Ghê-đê-ôn lắng nghe toàn bộ câu chuyện, nỗi lo sợ tan biến. Ghê-đê-ôn quì lạy Đức Chúa Trời rồi trở về trại mình. Chúa cho chàng nghe câu chuyện nầy để biết rằng những lời Chúa nói đều sẽ thành hiện thực. Bây giờ, Ghê-đê-ôn tràn đầy niềm tin và sẵn sàng vào trận.

b. Ghê-đê-ôn tấn công lúc nửa đêm.

Sau khi trở về, Ghê-đê-ôn lập tức dẫn quân đột kích vào doanh trại của quân địch. Ghê-đê-ôn chia quân làm ba đội, mỗi đội một trăm người. Họ không mang gươm, cung tên mà chỉ mang kèn và đuốc để trong bình. Đây là thứ vũ khí đặc biệt, bình không chỉ để bảo vệ ngọn đuốc không bị gió thổi tắt, mà còn có thể giấu kín ngọn lửa cho đến khi cần thiết mới phát sáng. Khi nghe hiệu lệnh của Ghê-đê-ôn, đột nhiên trong đêm tĩnh lặng, ba trăm chiếc kèn đồng loạt thổi lên tứ phía, ba trăm cái bình bị đập vỡ nghe sổn soảng, âm thanh nghe điếc cả tai, ba trăm ngọn đuốc chiếu sáng, rồi mỗi người tay trái cầm đuốc, tay phải cầm kèn thổi vang trời. Họ la hét: “Gươm của Đức Giê-hô-va và của Ghê-đê-ôn”. Quân Ma-đi-an thức giấc trong kinh hoàng. Họ tưởng đã bị bao vây khắp nơi, nên tìm đường chạy trốn. Trong cơn hỗn loạn, Đức Chúa Trời khiến quân Ma-đi-an quay trở lại chém giết lẫn nhau, chết vô số kể. Kết quả là gươm của Đức Giê-hô-va và của Ghê-đê-ôn làm cho quân Ma-đi-an hoàn toàn bại trận. Đức Chúa Trời đã chiến đấu cho dân sự của Ngài.

3. Ứng dụng.

Các em thân mến! Nếu các em bị ai đó cứ hỏi đi hỏi lại một vấn đề, các em có cảm thấy bực mình không? Rất có thể chúng ta sẽ bực mình, và cho là người đó quấy rầy chúng ta, nhưng  Đức Chúa Trời thì không hề như vậy. Bài học hôm nay cho thấy Ghê-đê-ôn đã hỏi Chúa nhiều lần chỉ một vấn đề, dù Chúa đã trả lời rất rõ, nhưng Đức Chúa Trời không hề cho là phiền phức, cũng không quở trách. Đức Chúa Trời yêu thương các em, dùng lời nhỏ nhẹ của Ngài khích lệ các em, ban cho các em khả năng cần thiết, giống như Ngài đã từng giúp đỡ Ghê-đê-ôn vậy.

Câu gốc hôm nay dạy các em: “Hãy phó thác đường lối mình cho Đức Giê-hô-va, và nhờ cậy nơi Ngài, thì Ngài sẽ làm thành việc ấy” (Thi Thiên 37:5).

Các em hiểu “phó thác” nghĩa là gì? “Phó thác” là giao cho. Nói cách khác, “phó thác” là giao hết cho Chúa và không còn bận tâm, không còn lo lắng đến việc đó nữa. Hãy để ý đến phần cuối của câu gốc, không phải Ngài chỉ giúp đỡ mà chính Ngài sẽ làm thành việc ấy. Đây là sự khích lệ rất lớn cho mỗi chúng ta. Các em thấy không, trước việc lớn và khó quá sức mình, Ghê-đê-ôn giao phó cho Chúa và hết lòng nhờ cậy Ngài, cuối cùng Ngài đã làm thành việc lớn đó. Khi gặp khó khăn trong gia đình, của bản thân, hoặc đối diện với sự sợ hãi, các em giao phó hết mọi việc cho Chúa là cách giải quyết đúng đắn và khôn ngoan nhất.

Tuần trước chúng ta đã nói đến một vài vấn đề khó khăn phát sinh từ sự lo sợ, hoặc việc chúng ta không thích làm. Hôm nay, trong phần bài tập kết hợp với thủ công, các em sẽ làm một chuỗi dây câu gốc, để nhắc nhở các em rằng dù bất cứ việc gì xảy ra, Chúa vẫn yêu thương, quan tâm, và giúp đỡ. (Mở tập học viên, câu gốc của tuần nầy được in một mặt, còn mặt bên kia, các em có thể chọn lựa trong Kinh Thánh những câu gốc để điền vào vị trí thích hợp, tốt nhất là những câu gốc trong chương nầy. Có thể ghi ý chính của câu gốc. Dùng giấy bìa cứng để làm, có thể treo trong phòng ngủ hoặc trên đầu giường. Khi tâm trạng bất an, lo sợ một điều gì, cần đến sự khích lệ của Chúa, các em có thể nhìn lên chuỗi dây câu gốc để đức tin được vững vàng).

Không nên ngại ngùng, lưỡng lự hoặc có vẻ xa cách khi cầu nguyện với Chúa. Các em xem Ghê-đê-ôn đã cầu nguyện với Chúa với thái độ nào? Bất cứ lúc nào Chúa đều sẵn sàng để nghe và giúp đỡ các em, giống như Ngài đã nghe và giúp đỡ Ghê-đê-ôn.

BÀI 12. GƯƠM CỦA GHÊ-ĐÊ-ÔN (GV)

I. KINH THÁNH: Các Quan Xét 6:33 – 7:23.

II. CÂU GỐC: “Hãy phó thác đường lối mình cho Đức Giê-hô-va, và nhờ cậy nơi Ngài, thì Ngài sẽ làm thành việc ấy” (Thi Thiên 37:5).

III. BÀI TẬP.

1. Em chọn lựa rồi vẽ vào đường chấm những hình dưới đây, để đoạn văn có ý nghĩa.

…………….……… muốn biết chắc Chúa kêu gọi mình đi giải cứu dân
Y-sơ-ra-ên, nên xin Chúa vài dấu hiệu. Chàng để ……………..…………… ngoài sân đạp lúa. Kết quả …………..………………… ướt rồi khô y như lời cầu xin.

Khi đã biết chắc chắn ý muốn của Chúa, …………….…… lãnh đạo ba trăm ……………… tiến đánh Ma-đi-an. Họ thổi ……………, đập vỡ …………, giơ cao ……..…… Dân Ma-đi-an hoảng loạn tự chém giết nhau. Dân Y-sơ-ra-ên đã chiến thắng.

 

  1. Giao phó cho Chúa.

Chắc hẳn bản thân em hoặc gia đình cũng gặp vài khó khăn. Vậy khó khăn của em là gì? Em ghi ra đây. Qua bài học nầy, em sẽ giao phó cho Chúa như thế nào?

3. Làm chuỗi câu gốc.

– Cách làm: Dùng giấy bìa màu cứng để làm.

+ Cắt giấy bìa theo hình tròn (đường kính 7 cm) hoặc hình thoi (cạnh 7 cm).

+ Số lượng câu gốc bao nhiêu thì cắt số bìa bấy nhiêu.

+ Mặt này của tờ bìa ghi đề tài (Lo sợ – Can đảm – Tham lam – Yêu thương…) còn mặt kia ghi ý chính của câu gốc.

+ Bấm lỗ tròn ở phần đầu và cuối mỗi tờ bìa.

+ Dùng chỉ len hoặc dây nylon màu cột 2 tờ bìa với nhau (lỗ tròn trên của tờ này vào lỗ tròn dưới của tờ kia).

+ Cứ cột liên tục như vậy, chúng ta sẽ có một chuỗi câu gốc.

Dùng chuỗi câu gốc này treo trong phòng ngủ hoặc chỗ góc học tập của em. Khi tâm trạng bất an, lo sợ một điều gì, cần đến sự khích lệ, các em có thể nhìn vào chuỗi câu gốc nầy và đức tin em sẽ vững vàng bởi Lời Chúa

BÀI 11. GHÊ-ĐÊ-ÔN, CHÀNG DŨNG SĨ (GV-HV)

BÀI 11. GHÊ-ĐÊ-ÔN, CHÀNG DŨNG SĨ (GV-HV)

in QUÍ III. 2016, THIẾU NHI on 19 Tháng Bảy, 2018

BÀI 11. GHÊ-ĐÊ-ÔN, CHÀNG DŨNG SĨ (GV)

I. KINH THÁNH: Các Quan xét 6:1-32.

II. CÂU GỐC: “Hỡi người dũng sĩ, Đức Giê-hô-va ở cùng ngươi” (Các Quan Xét 6:12).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Ghê-đê-ôn không phải là dũng sĩ, nhưng Đức Chúa Trời chọn lựa và kêu gọi Ghê-đê-ôn đi giải cứu dân Y-sơ-ra-ên khỏi tay dân Ma-đi-an.

– Cảm nhận: Khi Đức Chúa Trời ở cùng thì người yếu đuối cũng trở thành dũng sĩ.

– Hành động: Nhờ Chúa gíup đỡ để trở nên một dũng sĩ cho Ngài.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ

Các em thân mến! Trước khi trở thành dõng sĩ, Ghê-đê-ôn làm nghề gì? À đúng rồi, Ghê-đê-ôn là một nông dân giỏi. Hôm nay các em sẽ chơi trò “Làm rẫy” giống như Ghê-đê-ôn nhé!

* Trò chơi: Làm rẫy.

            – Cách chơi: NHD nói, làm, các em lặp lại và làm theo. Sau khi làm vài lần, các em chỉ làm theo lời nói của NHD vì NHD sẽ thay đổi động tác.

– NHD: “Vác cuốc” (2 tay đặt lên vai phải).

– NHD: “Làm cỏ” (2 tay làm động tác dẫy cỏ).

– NHD: “Nhặt cỏ” (cúi xuống, tay phải nhặt cỏ bỏ vào lòng tay    trái).

– NHD: “Giải lao” (mọi người ngồi xuống đất).

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

1. Vào đề.

Các em thân mến! Các em còn nhớ tuần vừa rồi học bài gì không? (Cho các em ôn lại). Sau khi Đức Chúa Trời giúp dân Y-sơ-ra-ên đánh bại tướng Si-sê-ra, xứ được hòa bình trong 40 năm. Nhưng sau đó, họ dần dần quên Đức Chúa Trời, quay lại thờ thần Ba-anh. Các em biết Ba-anh là thần tượng của dân nào không? (Ca-na-an). Vì thế, dân Y-sơ-ra-ên lại một lần nữa bị Đức Chúa Trời sửa phạt.

Lần nầy, Đức Chúa Trời dùng tay của dân Ma-đi-an. Dân nầy thường hay đánh cướp lương thực và gia súc của dân Y-sơ-ra-ên như ngũ cốc, rau quả, dê, bò, lừa…

Dân Y-sơ-ra-ên vì sợ hãi nên phải sống trốn chui trốn nhủi trong những hang núi. Trải qua bảy năm khốn khổ như vậy họ mới nhận biết tội lỗi của mình, quay trở lại kêu cầu cùng Ngài.

Đức Chúa Trời tha thứ và kêu gọi một người đứng lên giải cứu dân Y-sơ-ra-ên.

2. Bài học

a. Đức Chúa Trời kêu gọi chàng dũng sĩ.

(1) Lời kêu gọi cặp theo lời hứa.

Vào ngày kia, có một chàng thanh niên Y-sơ-ra-ên tên Ghê-đê-ôn đang đập lúa trong hầm ép rượu ở sau vườn nhà mình. Chàng đang cần bột lúa mạch để làm bánh, nhưng phải đập lúa trong hầm ép rượu vì sợ dân Ma-đi-an trông thấy sẽ lấy tất cả.

Đang làm, bỗng nhiên Ghê-đê-ôn dừng tay, vì chàng chợt nhìn thấy một người ngồi dưới gốc cây sồi. Các em tưởng tượng xem, Ghê-đê-ôn cho rằng nơi đây là an toàn nhất, không thể có người lạ mặt tới được. Thế mà có một người ngồi dưới gốc cây sồi nhìn chàng. Người lạ mặt nói: “Hỡi người dũng sĩ! Đức Giê-hô-va ở cùng ngươi”. Chàng Ghê-đê-ôn đang phải trốn tránh dân Ma-đi-an mà là người dũng sĩ sao?

Ghê-đê-ôn trả lời: “Ôi Chúa! Nếu Đức Giê-hô-va ở cùng chúng tôi, sao các điều nầy lại xảy ra? Đức Giê-hô-va đã bỏ chúng tôi, để cho người Ma-đi-an hành hạ chúng tôi”.

Người lạ mặt tiếp tục nói: “Ghê-đê-ôn, hãy dùng sức mạnh ngươi đang có đi giải cứu dân Y-sơ-ra-ên. Chính ta sai bảo ngươi”.

Lúc nầy thì Ghê-đê-ôn hiểu ra đây không phải là người bình thường, mà là thiên sứ của Đức Giê-hô-va. Tại sao Chúa lại bảo Ghê-đê-ôn đi đánh quân Ma-đi-an, trong khi chính bản thân chàng cũng phải ẩn náu nơi hang núi? Ghê-đê-ôn từ chối: “Lạy Chúa, tôi làm sao giải cứu dân Y-sơ-ra-ên được? Trong chi phái của tôi, gia đình tôi hèn mọn nhất, còn trong gia đình, tôi là người nhỏ nhất”. Nhưng Đức Chúa Trời vẫn giữ nguyên mệnh lệnh: “Ta ở cùng ngươi, nên ngươi sẽ đánh bại dân Ma-đi-an như đánh một người vậy”.

(2) Biết chắc lời kêu gọi.

Ghê-đê-ôn dường như không tin ở tai mình, chàng mà được Đức Chúa Trời giao cho công việc quan trọng đến thế ư? Để cho chắc chắn, Ghê-đê-ôn thưa rằng: “Nếu tôi được ơn trước mặt Chúa, xin ban cho tôi một dấu hiệu để tôi biết chính Chúa phán cùng tôi”.

Ghê-đê-ôn lập tức quay về nhà, làm thịt một con dê con và một ít bánh không men, rồi dọn thịt và bánh không men trên một hòn đá bên gốc cây sồi, đổ nước thịt lên trên y như lời Đức Chúa Trời phán dặn. Thiên sứ Đức Giê-hô-va cầm cây gậy trên tay đụng đến thịt và bánh, thì lửa từ hòn đá bốc lên thiêu cháy thịt và bánh không men, rồi thiên sứ biến mất.

Ngay lúc đó, Ghê-đê-ôn mới biết chắc người nói chuyện với mình là thiên sứ của Đức Giê-hô-va và mình nhận được sự kêu gọi của Chúa. Ghê-đê-ôn liền lập tại gốc cây sồi một bàn thờ cho Đức Chúa Trời để ghi nhớ cuộc gặp gỡ nầy.

b. Hành động của chàng dũng sĩ.

Ngay đêm đó, Đức Chúa Trời bảo Ghê-đê-ôn làm một việc mà cần phải có rất nhiều can đảm mới thực hiện được. Đó là phá đổ bàn thờ thần Ba-anh của nhà cha chàng và hạ tượng thần A-sê-ra xuống, thay vào đó là bàn thờ Đức Chúa Trời. (Ba-anh là tượng nam tà thần và A-sê-ra là tượng nữ tà thần mà người Y-sơ-ra-ên đang thờ).

Ghê-đê-ôn lập tức dẫn theo mười người để thực hiện lời phán của Chúa, nhưng chàng hành động vào ban đêm vì sợ cha chàng và những người trong thành trông thấy. Họ phá đổ bàn thờ thần Ba-anh, hạ tượng thần A-sê-ra xuống rồi chặt thành nhiều khúc, làm củi thiêu của tế lễ dâng cho Đức Chúa Trời.

Sáng hôm sau, dân trong thành thấy bàn thờ Ba-anh đâu mất, thay vào đó là một bàn thờ mới và của lễ thiêu ở trên, thì kinh ngạc hỏi nhau: “Ai đã làm điều nầy vậy?” Họ lập tức điều tra, không bao lâu, mọi người cũng đã phát hiện Ghê-đê-ôn làm điều đó.

Dân trong thành kéo nhau đến nhà Ghê-đê-ôn và nói với cha chàng: “Đem con ông ra đây. Nó phải chết vì tội phá đổ bàn thờ thần Ba-anh và triệt hạ tượng nữ thần A-sê-ra”.

Cha của Ghê-đê-ôn tuy cũng thờ thần Ba-anh, nhưng trước việc làm của con mình, ông ăn năn và nói cùng đám người đang nhốn nháo kia: “Các ông muốn bênh vực Ba-anh phải không? Nếu hắn là thần, thì hắn sẽ tự bênh vực lấy vì có người phá đổ bàn thờ của hắn”.

Mọi người đều im lặng. Nếu Ba-anh thật sự là thần, tại sao lại không bảo vệ được mình? Bản thân mình không bảo vệ được, thì làm sao có thể bảo vệ, giúp đỡ người khác. Mọi người hiểu ra thần Ba-anh và tượng A-sê-ra chỉ là tượng gỗ, có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe, có miệng mà không nói.

  1. Ứng dụng.

Các em thân mến! Các em suy nghĩ xem, bản thân Ghê-đê-ôn có phải là một dũng sĩ không? Vì sao các em biết điều đó? (Cho các em trả lời). Không, Ghê-đê-ôn chỉ là một nông dân giỏi, chứ không phải là một dũng sĩ, vì chàng cũng phải trốn tránh dân Ma-đi-an. Nhưng khi có Đức Chúa Trời ở cùng, Ghê-đê-ôn trở thành dũng sĩ. Chàng dám làm một việc mà không phải ai cũng dám làm: Phá đổ bàn thờ Ba-anh, tà thần mà dân Y-sơ-ra-ên đang thờ, rồi lập bàn thờ cho Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã ban cho Ghê-đê-ôn sức mạnh và lòng can đảm để thực hiện việc đó, cùng với hai lời hứa. Các em có thể kể ra được không? “Ta sẽ ở cùng ngươi và ngươi sẽ đánh bại dân Ma-đi-an như đánh một người vậy” (Các Quan Xét 6:16).

Đức Chúa Trời ban cho các em rất nhiều lời hứa trong Kinh Thánh. Các em nên nhớ một điều: Khi Đức Chúa Trời ở cùng, các em sẽ không còn yếu đuối, sợ hãi nữa, mà sẽ là những dũng sĩ. Ngài ban cho các em sức mạnh và lòng can đảm như Ngài đã ban cho Ghê-đê-ôn, để các em chiến thắng mọi sự sợ hãi và hầu việc Chúa.

Đừng nghĩ rằng em yếu đuối, không có khả năng nên không thể làm công việc Chúa được. Đức Chúa Trời kêu gọi, chọn lựa các em bởi ơn thương xót của Ngài, và Ngài sẽ ở cùng để giúp các em hoàn thành công việc được giao. Các em nên cảm tạ ơn thương xót của Chúa, đắc thắng sự sợ hãi và hầu việc Chúa luôn luôn.

BÀI 11. GHÊ-ĐÊ-ÔN, CHÀNG DŨNG SĨ (HV)

I. KINH THÁNH: Các Quan Xét 6:1-32.

II. CÂU GỐC: “Hỡi người dõng sĩ! Đức Giê-hô-va ở cùng ngươi” (Các Quan Xét 6:12).

III. BÀI TẬP.

1. Chàng dõng sĩ.

Trong câu chuyện Kinh Thánh của tuần nầy, có một người dũng sĩ. Người đó tên gì?

…………………………………………………………………………………………………………………………

2. Công việc Chúa giao cho chàng dũng sĩ.

Đức Chúa Trời kêu gọi và giao cho chàng dũng sĩ một việc rất khó khăn, phải cần nhiều sự can đảm mới thực hiện được. Hãy xem các câu dưới đây và ghi chữ “Đ” vào câu đúng, chữ “S” vào câu sai.

__ a. Đức Chúa Trời bảo Ghê-đê-ôn không ẩn náu nữa, mà phải tiến đánh dân Ma-đi-an.

__ b. Đức Chúa Trời bảo Ghê-đê-ôn phải học tập quân sự một thời gian, sau đó mới làm người lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên.

__ c. Đức Chúa Trời bảo Ghê-đê-ôn đánh đổ bàn thờ thần Ba-anh.

__ d. Đức Chúa Trời bảo Ghê-đê-ôn lập một bàn thờ cho Ngài.

__ e. Đức Chúa Trời bảo Ghê-đê-ôn phản bội cha mình.

3. Lời hứa cho chàng dũng sĩ.

Để giúp Ghê-đê-ôn không sợ hãi, Đức Chúa Trời đã ban cho chàng hai lời hứa. Em hãy ghi nội dung hai lời hứa đó.

1……………………………………………………………………………………………………………

2……………………………………………………………………………………………………………

4. Đức Chúa Trời sẽ giúp đỡ em.

Ghê-đê-ôn sợ hãi không dám nhận công việc Chúa giao, nhưng chàng biết nương dựa vào lời hứa của Đức Chúa Trời.

Hiện tại em có gặp sự khó khăn nào không? (Những việc em không thích, không đủ can đảm làm hoặc những việc làm em sợ hãi). Hãy ghi ra dưới đây.

 

………………………………………………………………………………………….

………………………………………………………………………………………….

………………………………………………………………………………………….

5. Suy gẫm câu gốc tuần nầy.

Câu gốc tuần nầy sẽ chỉ cho em bí quyết để có sức mạnh và lòng can đảm. Đó là có Đức Chúa Trời ở cùng. Nếu có Chúa ở cùng, em sẽ trở nên mạnh mẽ. Hãy cầu nguyện cảm tạ Chúa về điều đó.

Lời cầu nguyện của em.

…………………………………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………………………………

Bài 10. ĐÁNH BẠI SI-SÊ-RA (GV-HV)

Bài 10. ĐÁNH BẠI SI-SÊ-RA (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ III. 2016, QUÍ III. 2016, THIẾU NHI on 19 Tháng Bảy, 2018

BÀI 10.  ĐÁNH BẠI SI-SÊ-RA (GV)

 I. KINH THÁNH: Các Quan Xét 4.

II. CÂU GỐC: “Trong ngày sợ hãi, tôi sẽ để lòng nhờ cậy nơi Chúa. Tôi nhờ Đức Chúa Trời, và ngợi khen lời của Ngài; tôi để lòng tin cậy nơi Đức Chúa Trời, ắt sẽ chẳng sợ gì” (Thi Thiên 56:3-4).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Ba-rác tin tưởng Đê-bô-ra hơn là nhờ cậy Đức Chúa Trời, nên ông đã sợ hãi khi nhận nhiệm vụ.

– Cảm nhận: Em nhờ cậy Đức Chúa Trời thì không sợ hãi.

– Hành động: Học thuộc lòng những câu Kinh Thánh có thể giúp em chế ngự sự sợ hãi.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

1. Cầu nguyện cho bạn và các em học tập nhờ cậy Chúa để thoát khỏi sự sợ hãi.

2. Chuẩn bị cho phần thủ công, sinh hoạt.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH

  1. Vào đề.

Khi ba mẹ hay thầy cô giáo ở trường giao cho các em một công việc hơi khó một chút, thì các em sẽ phản ứng như thế nào? (Cho các em phát biểu ý kiến). Có lẽ các em cần phải có nhiều sự khích lệ, thậm chí cần có sự giúp đỡ của mọi người thì mới hoàn thành công việc được giao.

Trong bài học Kinh Thánh hôm nay, chúng ta sẽ được biết về một người, người đó phải nhận một công việc rất quan trọng, nhưng trong lòng lại đầy sợ hãi. Vậy chúng ta cùng xem người đó có thái độ và hành động như thế nào trước nhiệm vụ được giao nhé!

  1. Bài học.

Các em còn nhớ trong bài học trước, dân Y-sơ-ra-ên đã hứa nguyện điều gì không? (Cho các em trả lời). Sau khi Giô-suê qua đời, dân Y-sơ-ra-ên vẫn giữ lời hứa của mình trung tín thờ phượng Đức Chúa Trời. Năm tháng trôi qua, họ từ từ quên Đức Chúa Trời, và bị dân Ca-na-an dụ dỗ thờ lạy thần tượng. Đó cũng là hậu quả của việc dân Y-sơ-ra-ên không vâng lời Chúa dặn là tiêu diệt hết dân Ca-na-an khi chiếm xư. Đức Chúa Trời nhiều lần cảnh cáo và nhắc nhở dân Y-sơ-ra-ên, nhưng họ vẫn không thay đổi, nên Ngài dùng tay của dân Ca-na-an sửa phạt họ.

Nhiều năm về trước, Giô-suê từng đánh bại Hát-so. (Ghi tên thành nầy trên bảng). Bây giờ, vì dân Y-sơ-ra-ên bội nghịch Đức Chúa Trời, nên Ngài đã khiến thành Hát-so trở nên hùng mạnh và đàn áp dân Y-sơ-ra-ên. Dân Y-sơ-ra-ên bị lâm vào cảnh khốn cùng, cực khổ trong suốt 20 năm. Họ không còn chịu đựng nổi nữa nên quay lại kêu cầu Đức Chúa Trời giải cứu.

Dân Y-sơ-ra-ên khiếp sợ Si-sê-ra, vị tướng lãnh đạo quân của vua Gia-bin, thành Hát-so. Ai nghe đến tên nầy đều phải kinh hoàng, bạt vía. Người ta sợ vì hắn tàn ác, nhưng cũng vì những khí giới bằng sắt của hắn. Si-sê-ra có đến 900 chiếc xe chiến đấu, và trên mỗi chiếc đều có những chiến sĩ dũng cảm và tài giỏi điều khiển.

(1) Ba-rác được giao nhiệm vụ đánh bại Si-sê-ra.

Tuy dân Y-sơ-ra-ên quên Đức Chúa Trời, nhưng Ngài không bao giờ quên họ. Đức Chúa Trời đã dùng một người để nhắc nhở và khuyên dạy họ làm theo lời Đức Chúa Trời, đồng thời đoán xét dân sự. Người đó là nữ tiên tri Đê-bô-ra. Bản thân Đê-bô-ra cũng phải chịu sự ức hiếp của quân Si-sê-ra, nhưng bà hiểu đó là sự cho phép của Đức Chúa Trời nhằm sửa phạt dân Y-sơ-ra-ên.

Một ngày kia, Đức Chúa Trời bày tỏ cho Đê-bô-ra biết kế hoạch đánh bại quân Si-sê-ra. Bà liền chọn một người tên là Ba-rác để lãnh đạo cuộc chiến nầy. Khi Ba-rác đến, Đê-bô-ra nói cho ông biết kế hoạch của Đức Chúa Trời. Ba-rác được giao nhiệm vụ với lời hứa của Đức Chúa Trời là sẽ chiến thắng Si-sê-ra. Nhưng Ba-rác vẫn sợ hãi.

Quân Si-sê-ra có 900 xe chiến đấu, và vô số binh lính tài giỏi, còn binh lính Y-sơ-ra-ên chỉ là những người dân thường, không hề được huấn luyện để chiến đấu. Càng nghĩ Ba-rác càng lo sợ, ông không đủ can đảm để nhận nhiệm vụ to lớn nầy. Ba-rác nói với Đê-bô-ra: “Nếu bà ra trận với tôi, tôi sẽ đi. Nếu không, tôi không đi đâu!”

Ba-rác không hoàn toàn tin cậy Đức Chúa Trời, nên mới sợ hãi, muốn Đê-bô-ra cùng đi với mình. Đê-bô-ra đáp: “Được rồi, tôi sẽ đi với ông, nhưng sự vinh hiển của việc nầy không thuộc về ông, vì Chúa sẽ phó Si-sê-ra vào tay một người nữ”. Có Đê-bô-ra cùng ra trận, Ba-rác mới đủ can đảm nhận công việc Chúa giao.

(2) Đức Chúa Trời giúp Ba-rác đánh bại Si-sê-ra.

Theo kế hoạch của Đức Chúa Trời, Ba-rác cùng Đê-bô-ra dẫn theo mười ngàn chiến sĩ đi tới núi Tha-bô. Tin nầy tới tai Si-sê-ra. Si-sê-ra lập tức tập trung toàn bộ quân đội và 900 xe sắt của mình chuẩn bị chiến đấu.

Tuy có sự hiện diện của Đê-bô-ra, nhưng Ba-rác cũng không ngăn được nỗi lo sợ khi phải đối đầu với Si-sê-ra. Đê-bô-ra nói với Ba-rác: “Hãy đứng dậy, vì hôm nay là ngày Đức Giê-hô-va phó Si-sê-ra vào tay ông. Có Chúa đi trước ông đó”.

Được sự khích lệ của Đê-bô-ra, Ba-rác dẫn quân xuống núi nghênh chiến đội quân của Si-sê-ra. Đức Giê-hô-va chiến đấu cho dân sự của Ngài, khiến quân của Si-sê-ra thua chạy tán loạn. Dân Y-sơ-ra-ên thừa thắng xông lên tiêu diệt quân địch, còn Si-sê-ra nhảy xuống xe chạy bộ tẩu thoát. Chín trăm xe bằng sắt là chỗ dựa sức mạnh của Si-sê-ra đều tan tành, còn sức mạnh của quân đội Y-sơ-ra-ên là Đức Giê-hô-va.

Si-sê-ra chạy trốn đến trại của một người tên là Gia-ên. Quân lính của ông đã bị giết sạch, nên bây giờ điều quan trọng nhất của ông là bảo toàn tính mạng của mình. Nhà Gia-ên vốn có quan hệ thân thiết với vua Hát-so, nên khi Si-sê-ra chạy được tới đây thì cảm thấy an toàn. Gia-ên chăm sóc Si-sê-ra rất chu đáo, và vì quá mệt mỏi nên ngủ thiếp đi, không hề cảnh giác. Gia-ên đợi lúc Si-sê-ra ngủ say thì giết ông ta. Vừa lúc đó, Ba-rác và quân Y-sơ-ra-ên đi ngang qua đó. Gia-ên mời họ vào trại chỉ cho thấy xác Si-sê-ra nằm sóng soài dưới đất.

Đức Chúa Trời đã cho dân Y-sơ-ra-ên toàn thắng Si-sê-ra, y như lời Ngài đã phán với Đê-bô-ra. Nhưng rất tiếc là Ba-rác không có được sự vinh hiển trong chiến thắng nầy, mà vinh hiển đó lại thuộc về Đê-bô-ra, vì ông không hết lòng tin cậy Đức Chúa Trời.

Vui mừng vì chiến thắng, Đê-bô-ra cùng với Ba-rác hát một bài ca ngợi Chúa. Các em có thể đọc bài ca nầy trong Các quan xét đoạn 5, hoặc đọc một phần trong tập học viên. Sau đó, xứ được hòa bình trong 40 năm.

  1. Ứng dụng.

Các em thân mến! Trong bài học nầy, các em học được điều gì qua Ba-rác và Đê-bô-ra? (Cho các em phát biểu).

– Ba-rác: Đáng lẽ Ba-rác là người rất vinh hạnh, vì được chọn làm người lãnh đạo cuộc chiến và biết chắc phần thắng thuộc về mình, nhưng Ba-rác lại sợ hãi. Nếu Ba-rác hết lòng tin cậy Chúa thì ông sẽ không sợ hãi.

– Đê-bô-ra: Khi Ba-rác sợ hãi, trở nên yếu đuối, thì Đê-bô-ra là người khích lệ Ba-rác tin cậy Chúa. Không những khích lệ, Đê-bô-ra còn cùng đi với Ba-rác để giúp ông hoàn thành nhiệm vụ.

Ai cũng có lúc sợ hãi phải không các em? Vậy, khi sợ hãi, các em thường làm gì? Các em có thể có những ý kiến:

  1. Kể cho cha mẹ hay thầy cô giáo nghe về sự lo sợ của em. Họ sẽ giúp đỡ em.
  2. Chạy trốn.
  3. Đắp mền trùm đầu.
  4. Khóc.
  5. Cầu nguyện v.v…

Câu Kinh Thánh sau đây sẽ giúp các em rất nhiều: “Trong ngày sợ hãi, tôi sẽ để lòng nhờ cậy nơi Chúa. Tôi nhờ Đức Chúa Trời, và ngợi khen lời của Ngài; tôi để lòng tin cậy nơi Đức Chúa Trời, ắt sẽ chẳng sợ gì” (Thi 56:3-4).

Các em nên nhớ Đức Chúa Trời luôn ở cùng các em. Khi nào trong lòng các em sợ hãi, thì kêu cầu và nhờ cậy Chúa, chắc chắn sẽ không còn sợ hãi nữa.

Còn một vấn đề khác chúng ta cũng cần đề cập tới: “Em làm gì để giúp đỡ bạn đang sợ hãi?” Các em có cách nào giống như cách của Đê-bô-ra không? Em út của các em còn nhỏ, rất sợ bóng tối, các em nên mở đèn để mọi nơi được sáng, hoặc đi cùng với em út ở những chỗ có bóng tối, và không được hù dọa cho em giật mình. Khi một bạn hay sợ, các em phải khích lệ, giúp đỡ, cùng cầu nguyện với bạn ấy. (Cho các em nêu ra nhiều trường hợp khác và cùng cầu nguyện).

BÀI 10. ĐÁNH BẠI SI-SÊ-RA

I. KINH THÁNH: Các Quan Xét 4.

II. CÂU GỐC: “Trong ngày sợ hãi, tôi sẽ để lòng nhờ cậy nơi Chúa. Tôi nhờ Đức Chúa Trời, và ngợi khen lời của Ngài; tôi để lòng tin cậy nơi Đức Chúa Trời, ắt sẽ chẳng sợ gì” (Thi Thiên 56:3-4).

III. BÀI HỌC.

Sau khi Giô-suê qua đời, dân Y-sơ-ra-ên từ bỏ Đức Chúa Trời mà thờ lạy thần tượng của dân Ca-na-an. Đức Chúa Trời sửa phạt bằng cách phó họ vào tay Gia-bin, là vua Ca-na-an trị vì tại Hát-so. Quá khốn khổ, dân Y-sơ-ra-ên kêu cầu Đức Chúa Trời giải cứu.

Lúc đó, nữ tiên tri Đê-bô-ra đang làm quan xét Y-sơ-ra-ên. Bà vâng lời Đức Chúa Trời chọn Ba-rác đi đánh Si-sê-ra, một vị tướng lãnh đạo đội quân của vua Gia-bin. Ba-rác thấy mình không đủ can đảm để gánh vác công việc nầy, nên ông đề nghị Đê-bô-ra cùng đi.

Tuy Ba-rác chỉ có mười ngàn quân, còn Si-sê-ra có cả 900 xe bằng sắt và vô vàn binh lính, nhưng Đức Chúa Trời đã hứa Ba-rác sẽ thắng.

Đức Chúa Trời làm cho hết thảy xe cộ và quân của Si-sê-ra bỏ chạy tán loạn chạy trước mặt Ba-rác. Quân của Si-sê-ra bị giết không sót một người. Si-sê-ra cũng bị giết chết. Dân Y-sơ-ra-ên đã hoàn toàn chiến thắng. Đê-bô-ra cùng với Ba-rác sáng tác một bài hát ca ngợi Chúa.

BÀI 9. TÌNH THƯƠNG XÓA BỎ KHOẢNG CÁCH (GV-GV)

BÀI 9. TÌNH THƯƠNG XÓA BỎ KHOẢNG CÁCH (GV-GV)

in QUÍ III. 2016, THIẾU NHI on 18 Tháng Bảy, 2018

BÀI 9. TÌNH THƯƠNG XÓA BỎ KHOẢNG CÁCH (GV)

 I. KINH THÁNH: Giô-suê 22; 24:1-28.

II. CÂU GỐC: “Chúng ta hãy yêu mến lẫn nhau; vì sự yêu thương đến từ Đức Chúa Trời, kẻ nào yêu, thì sanh từ Đức Chúa Trời và nhìn biết Đức Chúa Trời” (1Giăng 4:7).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Giô-suê và mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên sống yêu thương và quan tâm lẫn nhau.

– Cảm nhận: Tình yêu thương xuất phát từ Đức Chúa Trời.

– Hành động: Phải bày tỏ tình yêu thương đối với những người chung quanh.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ

1. Cho các em cùng nhau nói ra mối quan hệ của các em với bạn bè, anh chị em…

2. Chuẩn bị giấy bút cho các em vẽ chân dung người mà các em yêu thương nhất, rồi ghi tên của người đó vào bên dưới bức vẽ.

3. Dùng bút lông ghi chữ lớn tên mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên trên miếng bìa cứng (có thể dùng phấn ghi lên bảng).

4. Nghiên cứu bản đồ số 4 “Xứ Ca-na-an phân chia cho 12 chi phái”, ở phía sau Kinh Thánh.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH

1. Vào đề.

Các em có nhiều anh chị em không? Trong gia đình mà anh chị em yêu thương nhau thì thật hạnh phúc. Tục ngữ Việt nam có câu: “Anh em như thể tay chân”. Điều đó nói lên mối quan hệ khắng khít của tình anh em. Dầu sau nầy các em lớn lên, tự lập, thì tình anh em vẫn khắng khít và cần thiết như vậy.

Biết yêu thương anh chị em và bạn bè là điều đẹp lòng Chúa. Chúa Giêxu đã nói: “Ta đã yêu các ngươi thể nào, thì các ngươi cũng hãy yêu nhau thể ấy” (Giăng 13:34). Có lẽ chúng ta sẽ để một phút, mỗi người tự so sánh tình yêu thương của Chúa đối với mình, và tình yêu thương của mình đối với người khác. (Cho các em suy nghĩ). Bài học Kinh Thánh hôm nay, các em được học về tình yêu thương và sự quan tâm giữa mọi người với nhau.

2. Bài học.

Sau khi chinh phục xứ Ca-na-an, dân Y-sơ-ra-ên được sống trong hòa bình. Đức Chúa Trời liền phán dặn Giô-suê phân chia đất đai cho các chi phái để làm sản nghiệp.

Mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên đều có tên và người lãnh đạo riêng của họ. Hai chi phái Ru-bên, Gát và phân nửa chi phái Ma-na-se sống ở phía Đông bờ sông Giô-đanh, còn lại chín chi phái rưỡi sống ở phía Tây bờ sông Giô-đanh. (Cho các em xem bản đồ số 4. Nếu không có, thì có thể trình bày cách đơn giản trên bảng cho các em dễ hiểu. Vẽ dòng sông ở giữa, chín chi phái rưỡi ở bên trái, hai chi phái rưỡi ở bên phải). Giô-suê làm theo lời Chúa dặn rất cẩn thận để mỗi chi phái đều có đất đai.

a. Tình yêu thương giữa các chi phái với nhau.

(1) Hai chi phái rưỡi ở bờ Đông.

Trước khi Môi-se qua đời, đất đai ở phía đông bờ sông Giô-đanh đã được chia cho chi phái Ru-bên, chi phái Gát và phân nửa chi phái Ma-na-se. Trong những năm qua, các chiến sĩ của hai chi phái rưỡi nầy đã hết lòng giúp đỡ Giô-suê trong sự nghiệp chinh phục Đất Hứa.

Sau khi chiến tranh kết thúc, Giô-suê gọi hai chi phái rưỡi đến nói rằng: “Những năm tháng qua, anh em đã vâng giữ mọi điều mà Môi-se và tôi dặn biểu. Ngày nay, Chúa cho các chi phái kia được nghỉ ngơi như Ngài đã hứa, nên bây giờ anh em được trở về chỗ ở của mình bên kia sông Giô-đanh”.

Những chiến sĩ của hai chi phái rưỡi đó rất khâm phục và kính trọng Giô-suê, vì ông là người lãnh đạo hết lòng yêu thương dân sự. Khi họ chuẩn bị ra đi, Giô-suê còn căn dặn: “Anh em phải hết lòng yêu mến Đức Chúa Trời, vâng giữ các điều răn, và hết lòng phục vụ Ngài”. Rồi Giô-suê chúc phước lành cho họ và tiễn họ ra về.

Hai chi phái rưỡi nầy đi đến bờ sông Giô-đanh, họ nhận thấy dòng sông Giô-đanh như một biên giới chia hai bờ Đông Tây, chẳng khác gì đã chia cắt họ với chín chi phái rưỡi còn lại. Những người của hai chi phái rưỡi nầy mong muốn dòng sông Giô-đanh không chia cắt tình cảm giữa họ và chín chi phái rưỡi ở bên nầy sông, nhưng họ mãi mãi là một dân tộc, cùng thờ phượng một Đức Giê-hô-va. Nghĩ thế, nên trước khi qua sông, hai chi phái rưỡi dùng đá xây một bàn thờ ở gần sông Giô-đanh. Bàn thờ nầy rất lớn, để cho ai cũng nhìn thấy và làm chứng giữa họ với chín chi phái rưỡi bên nầy là một gia đình. Tuy dòng sông ngăn cách họ, nhưng tấm lòng họ vẫn yêu thương và nhớ nhau.

(2) Chín chi phái rưỡi ở bờ Tây.

Một bàn thờ mới đã được dựng lên ở bờ Tây sông Giô-đanh. Không bao lâu sau, tin nầy lan truyền khắp nơi. Toàn bộ dân Y-sơ-ra-ên ở phía tây sông Giô-đanh đều rất tức giận. Họ cho rằng chỉ có thể thờ phượng Đức Giê-hô-va trong đền thờ của Ngài, còn bây giờ dân Y-sơ-ra-ên ở phía đông sông Giô-đanh lập một bàn thờ khác, phải chăng là để thờ cúng thần tượng, phản nghịch Đức Giê-hô-va?

Dân Y-sơ-ra-ên ở bờ Tây cảm thấy lo lắng cho anh em mình ở bờ Đông từ bỏ Đức Chúa Trời, nên họ phái các trưởng tộc (người đứng đầu chi phái) qua sông, đến gặp người Ru-bên, người Gát và phân nửa chi phái Ma-na-se mà hỏi rằng: “Chúng tôi muốn biết tại sao anh em dám từ bỏ Chúa, xây một bàn thờ khác để tỏ lòng phản nghịch Ngài? Nếu đất đang ở không tốt, thì anh em dọn qua đất của Chúa, nơi có đền thờ Ngài, ở với chúng tôi. Chúng tôi sẽ chia đất cho anh em, chỉ xin anh em đừng phản nghịch Chúa!”

Người Ru-bên, người Gát và người của nửa chi phái Ma-na-se sau khi nghe những lời kết tội như vậy, liền la lên: “Không phải, Đức Giê-hô-va biết rằng chúng tôi lập bàn thờ không phải để phản nghịch Ngài, cũng không phải để dâng của lễ thiêu hay cúng gì cả!” Họ gấp rút giải thích cùng các trưởng tộc của hàng ngàn người Y-sơ-ra-ên ở phía bờ Tây sông Giô-đanh: “Chúng tôi lập bàn thờ nầy, vì sợ sau nầy con cháu của anh em nói với con cháu chúng tôi: Các ngươi đâu có liên hệ gì với Đức Giê-hô-va của Y-sơ-ra-ên? Vì Chúa đã đặt sông Giô-đanh làm biên giới ngăn cách chúng ta. Như thế, con cháu anh em sẽ làm cho con cháu chúng tôi thôi kính sợ Đức Giê-hô-va”.

Họ nhấn mạnh rằng, lập bàn thờ là để làm chứng giữa họ và dân ở phía Tây. Sau nầy con cháu họ đều biết tất cả dân Y-sơ-ra-ên đông tây đều thờ phượng chung một Chúa, cùng chung một gia đình.

Những trưởng tộc phía bờ Tây nghe xong rất vui lòng. Nếu lập bàn thờ chỉ vì mong muốn con cháu sau nầy không quên Đức Chúa Trời, thì đúng là một việc làm tốt đẹp. Sau đó, họ từ giã anh em mình để quay về bờ tây, thuật lại cùng dân Y-sơ-ra-ên.

Người Ru-bên, người Gát và phân nửa chi phái Ma-na-se đặt tên bàn thờ là Ết (nghĩa là bàn thờ chứng) vì nói rằng nó làm chứng giữa chúng ta: Giê-hô-va là Đức Chúa Trời.

b. Tình yêu thương của Giô-suê đối với dân sự.

Thời gian cứ thế trôi qua, Giô-suê đã cao tuổi (khoảng 110 tuổi). Ông biết không bao lâu nữa sẽ từ giã thế giới nầy, và mối quan tâm lớn nhất của ông là dân sự có tiếp tục vâng giữ điều răn và hết lòng thờ phượng Đức Chúa Trời hay không? Giô-suê đã nhiều lần nhắc nhở họ và lần cuối cùng, Giô-suê tập trung đầy đủ mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên từ hai bờ Đông Tây sông Giô-đanh tại Si-chem. (Tìm vị trí nầy trên bản đồ). Khi Giô-suê cất tiếng nói, toàn bộ dân sự đều im phăng phắc lắng nghe.

Ông nói rằng: “Đức Chúa Trời ban cho các ngươi có sự bình an nơi đây. Các ngươi không cần xây cũng có nhà để ở, không ra công trồng trọt cũng có vườn nho và ôliu, vì Đức Chúa Trời đã chuẩn bị mọi thứ cho các ngươi. Vậy bây giờ, các ngươi hãy kính sợ Đức Giê-hô-va và phụng sự Ngài cách thành tâm và trung tín. Dẹp bỏ hết các thần tượng mà tổ phụ các ngươi đã thờ”.

Dân sự đang đứng trước sự lựa chọn, còn Giô-suê vẫn tiếp tục nói: “Nếu các ngươi không thích thờ phượng Đức Giê-hô-va, thì ngày hôm nay phải quyết định thờ thần nào mà các ngươi ưa thích. Nhưng ta và nhà ta sẽ phục sự Đức Giê-hô-va”. Dân sự cùng nhau đáp rằng: “Chúng tôi quyết hầu việc Đức Giê-hô-va, vì Ngài là Đức Chúa Trời chúng tôi”.

Giây phút đó rất quan trọng đối với Giô-suê và toàn dân Y-sơ-ra-ên, vì họ đã quyết tâm hứa trước mặt Chúa sẽ mãi mãi thờ phượng Ngài. Giô-suê dựng một tảng đá lớn dưới cây dẻ, gần đền thờ Đức Chúa Trời để làm chứng cho sự hứa nguyện nầy. Ông còn viết chuyện nầy vào trong sách luật pháp để cho dân sự nhớ mãi lời hứa của mình.

3. Ứng dụng.

Các em thân mến! Các em thấy tình yêu thương trong câu chuyện nầy được thể hiện như thế nào? (Cho các em trả lời). Dân Y-sơ-ra-ên ở bờ Đông luôn mong muốn họ và dân ở bờ Tây mãi mãi là anh em, dù dòng sông Giô-đanh chia cắt giữa họ. Còn dân Y-sơ-ra-ên ở bờ Tây lại lo lắng, sợ anh em mình ở bờ Đông từ bỏ Đức Giê-hô-va. Giô-suê thì quan tâm đến đời sống thuộc linh của dân Y-sơ-ra-ên, hết lòng dạy dỗ họ yêu mến Chúa, chúc phước và cầu nguyện cho họ.

Các em thấy tình yêu thương của dân Y-sơ-ra-ên ở hai bờ Đông, Tây không hề giảm sút bởi sự chia cách. Dòng sông Giô-đanh không cản trở họ quan tâm, lo lắng cho nhau. Như vậy, tình yêu thương thật sự không phân biệt giàu nghèo, xấu đẹp, học giỏi học kém, ở gần hay ở xa… Chúa muốn các em xóa bỏ mọi khoảng cách, đến gần với nhau hơn, bày tỏ lòng thân thiện, sự quan tâm, chia sẻ những gì mình có cho những bạn kém may mắn, giúp đỡ những bạn yếu kém trong học tập…

Nhiều lúc, các em cảm thấy khó yêu thương người khác. Những lúc như vậy, các em cần cầu nguyện để Chúa ban cho các em tình yêu thương. Nếu Chúa ngự trong lòng các em, thì các em sẽ dễ dàng yêu thương và quan tâm đến người khác. Nên nhớ, Chúa Giêxu đã yêu thương các em đến nỗi hy sinh chính mạng vàng của Ngài, thì Ngài cũng muốn các em biết yêu thương anh em mình.

Hướng dẫn các em viết một đoạn văn ngắn về tình yêu thương. “Tình yêu thương là …” (xem tập học viên, hướng dẫn nội dung cho các em dễ viết: Tình yêu thương là chia nhau miếng bánh, nhường nhịn các em nhỏ, làm một việc gì đó để ba mẹ vui lòng, quan tâm bạn bè… Nhắc các em về những việc cần làm trong tuần lễ nầy).

Các em có nghĩ rằng quan tâm lẫn nhau là điều đẹp lòng Chúa không? Nếu các em yêu mến nhau thì các em là con cái Đức Chúa Trời (Cho các em đọc câu gốc).

 

BÀI 9.    TÌNH THƯƠNG XÓA BỎ KHOẢNG CÁCH (HV)

 I. KINH THÁNH: Giô-suê 22; 24:29.

II. CÂU GỐC: “Chúng ta hãy yêu mến lẫn nhau; vì sự yêu thương đến từ Đức Chúa Trời, kẻ nào yêu, thì sanh từ Đức Chúa Trời và nhìn biết Đức Chúa Trời” (1Giăng 4:7).

III. BÀi TẬP.

1. Bàn thờ ở mé sông.

Chi phái Ru-bên, chi phái Gát và phân nửa chi phái Ma-na-se lập bàn thờ ở mé sông Giô-đanh. Việc làm nầy có ý nghĩa gì? Em ghi câu trả lời xuống phía dưới.

………………………………………………………………………………………….

………………………………………………………………………………………….

………………………………………………………………………………………….

2. Tình yêu thương là gì?

Theo em, tình yêu thương là gì? Em làm gì để biểu hiện tình yêu thương của mình? Hãy viết ra.

3. Suy gẫm câu gốc.

Câu gốc nầy nói: “Chúng ta hãy yêu mến lẫn nhau”. Đây là một mệnh lệnh bắt buộc mỗi con dân Chúa phải thi hành, đúng không? Vì sao? Vì “sự yêu thương đến từ Đức Chúa Trời, kẻ nào yêu, thì sanh từ Đức Chúa Trời và nhìn biết Đức Chúa Trời”.

Quan tâm đến người khác cũng bày tỏ tình yêu thương. Hãy nghĩ xem, ai là người quan tâm đến em nhiều nhất? Điền vào hai phần dưới đây.

a. Tên của người quan tâm đến em.

……………………………………………………………………………………

b. Việc họ quan tâm đến em.

……………………………………………………………………………………

Hãy cảm tạ Đức Chúa Trời vì những gì họ đã làm cho em. Cầu xin Chúa giúp em cũng bày tỏ lòng yêu thương đến với họ.