Chuyên mục: QUÍ III. 2016

BÀI 13.  BÀI ÔN (GV-HV)

BÀI 13.  BÀI ÔN (GV-HV)

in QUÍ III. 2016, THIẾU NHI on 20 Tháng Bảy, 2018

BÀI 13.  BÀI ÔN (GV-HV)

Tuần lễ cuối quý nầy, giáo viên giúp các em ôn lại những nhân vật đã học trong quí như: Môi-se, Ba-la-am, Giô-suê, hai thám tử, Ra-háp, A-can, Đê-bô-ra, Ba-rác, Ghê-đê-ôn… rút ra những việc làm đặc biệt của họ, để lấy đó làm sự dạy dỗ, nhắc nhở các em.

Cho các em ôn lại những câu gốc đã học trong quí nầy, để lời của Chúa vun đắp thêm cho đức tin của các em được trưởng thành.

Sau đó cho các em làm bài khảo sát trong tập học viên. Nếu có thể được, các bạn chuẩn bị vài gói quà nhỏ để khích lệ những em đã làm bài tốt.

SINH HOẠT.

Chúc mừng các em đã học xong 12 bài trong quý này. Các em đã học biết về gương tốt cũng như những gương xấu của các nhân vật. Trong giờ sinh hoạt hôm nay, các em sẽ chơi trò “Tâm đầu ý hiệp” để ôn lại điều nào em nên học và điều nào em nên từ bỏ.

– Chia lớp ra làm nhiều nhóm (mỗi nhóm 5-6 người), xếp thành hàng dọc. NHD phát cho mỗi nhóm một tờ giấy dài và một cây viết.         – Sau khi nghe lệnh của NHD, người đầu nhóm chọn tên một nhân vật đã học như Môi-se, A-háp, Giô-suê, Ba-la-am, A-can, Ba-rác, Đê-bô-ra, Ghê-đê-ôn… xong gấp lại rồi chuyền cho người thứ hai.

– Người thứ hai xem xong rồi viết tiếp một câu diễn tả ưu khuyết điểm của nhân vật đó, gấp lại rồi chuyền cho người thứ ba và cứ tiếp tục cho đến người cuối cùng.

– Người cuối cùng xem phần viết của người vừa đưa cho mình rồi đoán xem nhân vật đó là ai và ghi vào giấy nộp cho NHD.

Luật chơi: Chỉ được phép xem phần viết của người kế mình.

– Ví dụ: (1) Ba-la-am, (2) tham của cải vật chất, (3) lấy cái áo choàng, (4) Giấu trong trại, (5) Bị ném đá chết, (6) Ba-la-am.

BÀI 12.  GƯƠM CỦA ĐỨC GIÊ-HÔ-VA VÀ CỦA GHÊ-ĐÊ-ÔN (GV-HV)

BÀI 12.  GƯƠM CỦA ĐỨC GIÊ-HÔ-VA VÀ CỦA GHÊ-ĐÊ-ÔN (GV-HV)

in QUÍ III. 2016, THIẾU NHI on 20 Tháng Bảy, 2018

BÀI 12.  GƯƠM CỦA ĐỨC GIÊ-HÔ-VA VÀ CỦA GHÊ-ĐÊ-ÔN (GV)

I. KINH THÁNH: Các Quan Xét 6:33; 7:22

II. CÂU GỐC: “Hãy phó thác đường lối mình cho Đức Giê-hô-va, và nhờ cậy nơi Ngài, thì Ngài sẽ làm thành việc ấy” (Thi Thiên 37:5).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Đức Chúa Trời nhiều lần bày tỏ cho Ghê-đê-ôn biết chắc sự kêu gọi của Ngài để ông vững vàng nhận lấy và hoàn thành nhiệm vụ.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời luôn giúp đỡ chúng ta khi chúng ta nhờ cậy Ngài.

– Hành động: Phó thác đời sống của mình cho Chúa và nhờ cậy Ngài.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY

* Chuẩn bị.

1. Vật liệu để thực hiện phần thủ công.

2. Thị cụ: Kèn, bình, nến.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

1. Vào đề.

Các em thân mến! Có phải Đức Chúa Trời luôn chăm sóc các em không? Nếu Ngài bảo các em làm một việc gì đó mà các em cảm thấy lo sợ thì các em có cầu xin Chúa giúp đỡ không? Và nếu như các em cầu xin Chúa giúp đỡ quá nhiều lần, Đức Chúa Trời có cho là phiền phức không? Ngài có thể vì thế mà nổi giận với các em không? (Mời các em phát biểu ý kiến).

Đức Chúa Trời muốn Ghê-đê-ôn thực hiện một việc khó. Các em còn nhớ việc đó không? (Phá đổ bàn thờ tà thần Ba-anh. Ghê-đê-ôn đã làm xong. Còn việc cứu dân Y-sơ-ra-ên khỏi tay dân Ma-đi-an thì Ghê-đê-ôn chưa hoàn thành).

2. Bài học.

a. Dấu hiệu cho Ghê-đê-ôn.

Một hôm, dân Ma-đi-an cùng với dân Amaléc lại kéo đến. Chúng vượt qua chỗ cạn của sông Giô-đanh và đóng trại tại một thung lũng gần nơi dân Y-sơ-ra-ên ở. Đây là lúc Ghê-đê-ôn phải hành động. Chàng thổi kèn tập hợp chiến sĩ của các chi phái, và sai người đến những chi phái ở xa không nghe tiếng kèn, dặn các chiến sĩ chuẩn bị sẵn sàng ra trận.

Quân số của Ma-đi-an đông hơn nhiều so với quân số của Y-sơ-ra-ên. Tuy đã chuẩn bị sẵn sàng, nhưng Ghê-đê-ôn vẫn lo lắng. Muốn biết chắc chắn có phải Đức Chúa Trời sai mình đi đánh dân Ma-đi-an không, nên trước khi hành động, Ghê-đê-ôn cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời: “Nếu thật sự Chúa muốn dùng tay con giải cứu dân Y-sơ-ra-ên, thì xin cho con một dấu hiệu. Con sẽ để miếng da chiên trên sân đạp lúa, nếu đêm nay sương chỉ làm ướt miếng da chiên, còn mặt sân khô ráo, thì con sẽ nhận biết Chúa dùng tay con giải cứu Y-sơ-ra-ên”.

Ghê-đê-ôn cẩn thận trải miếng da chiên ra sân đạp lúa, vì biết chắc đêm nay sương sẽ xuống nhiều. Sáng sớm hôm sau, Ghê-đê-ôn ra xem thì thấy miếng da chiên ướt đẫm đến nỗi vắt được cả chén nước, còn mặt sân lại khô ráo. Đức Chúa Trời đã trả lời y như điều Ghê-đê-ôn cầu xin.

Nhưng Ghê-đê-ôn vẫn chưa tin chắc, vì chàng nghĩ rằng gió cũng có thể thổi khô lớp sương trên sân, nhưng không thể thổi khô miếng da chiên trong một thời gian ngắn. Vì thế, một lần nữa, Ghê-đê-ôn cầu xin Đức Chúa Trời thực hiện phép lạ khác: “Xin Chúa cho lần nầy miếng da chiên khô ráo, còn khắp sân bị sương thấm ướt”. Sáng hôm sau, Ghê-đê-ôn nôn nóng chạy ra xem kết quả thế nào, thì quả nhiên thấy miếng da chiên hoàn toàn khô ráo, còn khắp sân lại ướt đẫm sương đêm. Không còn nghi ngờ gì nữa, Ghê-đê-ôn biết chắc Đức Chúa Trời kêu gọi chàng đi giải cứu dân Y-sơ-ra-ên khỏi tay Ma-đi-an và Ngài sẽ ở cùng chàng

b. Ghê-đê-ôn tuyển chọn chiến sĩ.

(1) Tuyển chọn lần thứ nhất.

Sau tiếng kèn kêu gọi của Ghê-đê-ôn, những thanh niên Y-sơ-ra-ên từ các chi phái đều tập hợp lại, tổng số được ba mươi hai ngàn người. Tuy nhiên, quân số ba mươi hai ngàn người không thấm vào đâu so với quân Ma-đi-an đông như cào cào, như cát bãi biển. Vậy mà Đức Chúa Trời bảo Ghê-đê-ôn, ba mươi hai ngàn người là quá đông, e dân Y-sơ-ra-ên kiêu ngạo cho rằng mình chiến thắng là do quân đội hùng hậu, chứ không phải do Đức Chúa Trời. “Vậy bây giờ, ngươi hãy thông báo cho các chiến sĩ: Ai lo lắng, sợ hãi, hãy trở về nhà!”

Mệnh lệnh được ban ra, có 22.000 chiến sĩ trở về.

(2) Tuyển chọn lần thứ hai.

Bây giờ chỉ còn có mười ngàn người, số quân quá nhỏ bé so với đội quân hùng hậu của dân Ma-đi-an, nhưng Chúa lại phán với Ghê-đê-ôn: “Hãy còn đông  quá!” Thế là Ghê-đê-ôn tiếp tục tuyển chọn theo cách của Chúa. Chàng quan sát mười ngàn chiến sĩ uống nước dưới suối. Đa số họ đều quì gối cúi mặt xuống uống nước. Các em nghĩ xem nếu như quân địch tấn công bất ngờ, nhưng người nầy có trông thấy không? Có lập tức cầm vũ khí phản công không? Tại sao? (Cho các em phát biểu).

Chỉ có một số ít người khom lưng xuống, dùng tay bụm nước uống. Các em nghĩ những người nầy sẽ như thế nào khi có quân địch bất ngờ tấn công? (Cho các em nhận xét). Đức Chúa Trời bảo Ghê-đê-ôn chọn những người nầy làm chiến sĩ trong quân đội mình. Các em thử đoán xem được bao nhiêu người? Chỉ có ba trăm người. Đức Chúa Trời phán rằng: “Ta sẽ dùng ba trăm người nầy để giải cứu các ngươi khỏi tay Ma-đi-an”.

Ghê-đê-ôn biết với quân số ba trăm người như vầy sẽ không làm được gì trước quân Ma-đi-an, nhưng chàng cứ phó thác và nhờ cậy Đức Chúa Trời.

c. Sự khích lệ cho Ghê-đê-ôn.

Tuy Ghê-đê-ôn sẵn sàng vâng lời, nhưng Chúa thấy trong lòng của chàng vẫn còn lo sợ, nên Ngài phán: “Nếu ngươi còn lo sợ, thì hãy đi với Phura, đầy tớ ngươi, xuống trại quân Ma-đi-an nghe ngóng những điều họ bàn tán, rồi ngươi sẽ vững tâm mà đem quân xuống đánh”.

Ghê-đê-ôn và Phu-ra đi trong bóng tối đến trại quân Ma-đi-an. Tại đây, Ghê-đê-ôn nhìn thấy trại của quân địch đông không kể xiết, còn lạc đà thì rất nhiều. Ghê-đê-ôn đến gần một trại quân, thì nghe có tiếng nói chuyện bên trong. Một người nói: “Tôi thấy một giấc mơ thật lạ. Có một cái bánh nhỏ làm bằng bột lúa mạch lăn vào trại quân Ma-đi-an, đụng phải một cái trại làm cho nó đổ sập xuống”.

Người kia đáp: “Đó chắc là gươm của Ghê-đê-ôn, người Y-sơ-ra-ên. Đức Chúa Trời đã phó Ma-đi-an và cả trại quân nầy vào tay ông ta”.

Ghê-đê-ôn lắng nghe toàn bộ câu chuyện, nỗi lo sợ tan biến. Ghê-đê-ôn quì lạy Đức Chúa Trời rồi trở về trại mình. Chúa cho chàng nghe câu chuyện nầy để biết rằng những lời Chúa nói đều sẽ thành hiện thực. Bây giờ, Ghê-đê-ôn tràn đầy niềm tin và sẵn sàng vào trận.

b. Ghê-đê-ôn tấn công lúc nửa đêm.

Sau khi trở về, Ghê-đê-ôn lập tức dẫn quân đột kích vào doanh trại của quân địch. Ghê-đê-ôn chia quân làm ba đội, mỗi đội một trăm người. Họ không mang gươm, cung tên mà chỉ mang kèn và đuốc để trong bình. Đây là thứ vũ khí đặc biệt, bình không chỉ để bảo vệ ngọn đuốc không bị gió thổi tắt, mà còn có thể giấu kín ngọn lửa cho đến khi cần thiết mới phát sáng. Khi nghe hiệu lệnh của Ghê-đê-ôn, đột nhiên trong đêm tĩnh lặng, ba trăm chiếc kèn đồng loạt thổi lên tứ phía, ba trăm cái bình bị đập vỡ nghe sổn soảng, âm thanh nghe điếc cả tai, ba trăm ngọn đuốc chiếu sáng, rồi mỗi người tay trái cầm đuốc, tay phải cầm kèn thổi vang trời. Họ la hét: “Gươm của Đức Giê-hô-va và của Ghê-đê-ôn”. Quân Ma-đi-an thức giấc trong kinh hoàng. Họ tưởng đã bị bao vây khắp nơi, nên tìm đường chạy trốn. Trong cơn hỗn loạn, Đức Chúa Trời khiến quân Ma-đi-an quay trở lại chém giết lẫn nhau, chết vô số kể. Kết quả là gươm của Đức Giê-hô-va và của Ghê-đê-ôn làm cho quân Ma-đi-an hoàn toàn bại trận. Đức Chúa Trời đã chiến đấu cho dân sự của Ngài.

3. Ứng dụng.

Các em thân mến! Nếu các em bị ai đó cứ hỏi đi hỏi lại một vấn đề, các em có cảm thấy bực mình không? Rất có thể chúng ta sẽ bực mình, và cho là người đó quấy rầy chúng ta, nhưng  Đức Chúa Trời thì không hề như vậy. Bài học hôm nay cho thấy Ghê-đê-ôn đã hỏi Chúa nhiều lần chỉ một vấn đề, dù Chúa đã trả lời rất rõ, nhưng Đức Chúa Trời không hề cho là phiền phức, cũng không quở trách. Đức Chúa Trời yêu thương các em, dùng lời nhỏ nhẹ của Ngài khích lệ các em, ban cho các em khả năng cần thiết, giống như Ngài đã từng giúp đỡ Ghê-đê-ôn vậy.

Câu gốc hôm nay dạy các em: “Hãy phó thác đường lối mình cho Đức Giê-hô-va, và nhờ cậy nơi Ngài, thì Ngài sẽ làm thành việc ấy” (Thi Thiên 37:5).

Các em hiểu “phó thác” nghĩa là gì? “Phó thác” là giao cho. Nói cách khác, “phó thác” là giao hết cho Chúa và không còn bận tâm, không còn lo lắng đến việc đó nữa. Hãy để ý đến phần cuối của câu gốc, không phải Ngài chỉ giúp đỡ mà chính Ngài sẽ làm thành việc ấy. Đây là sự khích lệ rất lớn cho mỗi chúng ta. Các em thấy không, trước việc lớn và khó quá sức mình, Ghê-đê-ôn giao phó cho Chúa và hết lòng nhờ cậy Ngài, cuối cùng Ngài đã làm thành việc lớn đó. Khi gặp khó khăn trong gia đình, của bản thân, hoặc đối diện với sự sợ hãi, các em giao phó hết mọi việc cho Chúa là cách giải quyết đúng đắn và khôn ngoan nhất.

Tuần trước chúng ta đã nói đến một vài vấn đề khó khăn phát sinh từ sự lo sợ, hoặc việc chúng ta không thích làm. Hôm nay, trong phần bài tập kết hợp với thủ công, các em sẽ làm một chuỗi dây câu gốc, để nhắc nhở các em rằng dù bất cứ việc gì xảy ra, Chúa vẫn yêu thương, quan tâm, và giúp đỡ. (Mở tập học viên, câu gốc của tuần nầy được in một mặt, còn mặt bên kia, các em có thể chọn lựa trong Kinh Thánh những câu gốc để điền vào vị trí thích hợp, tốt nhất là những câu gốc trong chương nầy. Có thể ghi ý chính của câu gốc. Dùng giấy bìa cứng để làm, có thể treo trong phòng ngủ hoặc trên đầu giường. Khi tâm trạng bất an, lo sợ một điều gì, cần đến sự khích lệ của Chúa, các em có thể nhìn lên chuỗi dây câu gốc để đức tin được vững vàng).

Không nên ngại ngùng, lưỡng lự hoặc có vẻ xa cách khi cầu nguyện với Chúa. Các em xem Ghê-đê-ôn đã cầu nguyện với Chúa với thái độ nào? Bất cứ lúc nào Chúa đều sẵn sàng để nghe và giúp đỡ các em, giống như Ngài đã nghe và giúp đỡ Ghê-đê-ôn.

BÀI 12. GƯƠM CỦA GHÊ-ĐÊ-ÔN (GV)

I. KINH THÁNH: Các Quan Xét 6:33 – 7:23.

II. CÂU GỐC: “Hãy phó thác đường lối mình cho Đức Giê-hô-va, và nhờ cậy nơi Ngài, thì Ngài sẽ làm thành việc ấy” (Thi Thiên 37:5).

III. BÀI TẬP.

1. Em chọn lựa rồi vẽ vào đường chấm những hình dưới đây, để đoạn văn có ý nghĩa.

…………….……… muốn biết chắc Chúa kêu gọi mình đi giải cứu dân
Y-sơ-ra-ên, nên xin Chúa vài dấu hiệu. Chàng để ……………..…………… ngoài sân đạp lúa. Kết quả …………..………………… ướt rồi khô y như lời cầu xin.

Khi đã biết chắc chắn ý muốn của Chúa, …………….…… lãnh đạo ba trăm ……………… tiến đánh Ma-đi-an. Họ thổi ……………, đập vỡ …………, giơ cao ……..…… Dân Ma-đi-an hoảng loạn tự chém giết nhau. Dân Y-sơ-ra-ên đã chiến thắng.

 

  1. Giao phó cho Chúa.

Chắc hẳn bản thân em hoặc gia đình cũng gặp vài khó khăn. Vậy khó khăn của em là gì? Em ghi ra đây. Qua bài học nầy, em sẽ giao phó cho Chúa như thế nào?

3. Làm chuỗi câu gốc.

– Cách làm: Dùng giấy bìa màu cứng để làm.

+ Cắt giấy bìa theo hình tròn (đường kính 7 cm) hoặc hình thoi (cạnh 7 cm).

+ Số lượng câu gốc bao nhiêu thì cắt số bìa bấy nhiêu.

+ Mặt này của tờ bìa ghi đề tài (Lo sợ – Can đảm – Tham lam – Yêu thương…) còn mặt kia ghi ý chính của câu gốc.

+ Bấm lỗ tròn ở phần đầu và cuối mỗi tờ bìa.

+ Dùng chỉ len hoặc dây nylon màu cột 2 tờ bìa với nhau (lỗ tròn trên của tờ này vào lỗ tròn dưới của tờ kia).

+ Cứ cột liên tục như vậy, chúng ta sẽ có một chuỗi câu gốc.

Dùng chuỗi câu gốc này treo trong phòng ngủ hoặc chỗ góc học tập của em. Khi tâm trạng bất an, lo sợ một điều gì, cần đến sự khích lệ, các em có thể nhìn vào chuỗi câu gốc nầy và đức tin em sẽ vững vàng bởi Lời Chúa

BÀI 11. GHÊ-ĐÊ-ÔN, CHÀNG DŨNG SĨ (GV-HV)

BÀI 11. GHÊ-ĐÊ-ÔN, CHÀNG DŨNG SĨ (GV-HV)

in QUÍ III. 2016, THIẾU NHI on 19 Tháng Bảy, 2018

BÀI 11. GHÊ-ĐÊ-ÔN, CHÀNG DŨNG SĨ (GV)

I. KINH THÁNH: Các Quan xét 6:1-32.

II. CÂU GỐC: “Hỡi người dũng sĩ, Đức Giê-hô-va ở cùng ngươi” (Các Quan Xét 6:12).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Ghê-đê-ôn không phải là dũng sĩ, nhưng Đức Chúa Trời chọn lựa và kêu gọi Ghê-đê-ôn đi giải cứu dân Y-sơ-ra-ên khỏi tay dân Ma-đi-an.

– Cảm nhận: Khi Đức Chúa Trời ở cùng thì người yếu đuối cũng trở thành dũng sĩ.

– Hành động: Nhờ Chúa gíup đỡ để trở nên một dũng sĩ cho Ngài.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ

Các em thân mến! Trước khi trở thành dõng sĩ, Ghê-đê-ôn làm nghề gì? À đúng rồi, Ghê-đê-ôn là một nông dân giỏi. Hôm nay các em sẽ chơi trò “Làm rẫy” giống như Ghê-đê-ôn nhé!

* Trò chơi: Làm rẫy.

            – Cách chơi: NHD nói, làm, các em lặp lại và làm theo. Sau khi làm vài lần, các em chỉ làm theo lời nói của NHD vì NHD sẽ thay đổi động tác.

– NHD: “Vác cuốc” (2 tay đặt lên vai phải).

– NHD: “Làm cỏ” (2 tay làm động tác dẫy cỏ).

– NHD: “Nhặt cỏ” (cúi xuống, tay phải nhặt cỏ bỏ vào lòng tay    trái).

– NHD: “Giải lao” (mọi người ngồi xuống đất).

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

1. Vào đề.

Các em thân mến! Các em còn nhớ tuần vừa rồi học bài gì không? (Cho các em ôn lại). Sau khi Đức Chúa Trời giúp dân Y-sơ-ra-ên đánh bại tướng Si-sê-ra, xứ được hòa bình trong 40 năm. Nhưng sau đó, họ dần dần quên Đức Chúa Trời, quay lại thờ thần Ba-anh. Các em biết Ba-anh là thần tượng của dân nào không? (Ca-na-an). Vì thế, dân Y-sơ-ra-ên lại một lần nữa bị Đức Chúa Trời sửa phạt.

Lần nầy, Đức Chúa Trời dùng tay của dân Ma-đi-an. Dân nầy thường hay đánh cướp lương thực và gia súc của dân Y-sơ-ra-ên như ngũ cốc, rau quả, dê, bò, lừa…

Dân Y-sơ-ra-ên vì sợ hãi nên phải sống trốn chui trốn nhủi trong những hang núi. Trải qua bảy năm khốn khổ như vậy họ mới nhận biết tội lỗi của mình, quay trở lại kêu cầu cùng Ngài.

Đức Chúa Trời tha thứ và kêu gọi một người đứng lên giải cứu dân Y-sơ-ra-ên.

2. Bài học

a. Đức Chúa Trời kêu gọi chàng dũng sĩ.

(1) Lời kêu gọi cặp theo lời hứa.

Vào ngày kia, có một chàng thanh niên Y-sơ-ra-ên tên Ghê-đê-ôn đang đập lúa trong hầm ép rượu ở sau vườn nhà mình. Chàng đang cần bột lúa mạch để làm bánh, nhưng phải đập lúa trong hầm ép rượu vì sợ dân Ma-đi-an trông thấy sẽ lấy tất cả.

Đang làm, bỗng nhiên Ghê-đê-ôn dừng tay, vì chàng chợt nhìn thấy một người ngồi dưới gốc cây sồi. Các em tưởng tượng xem, Ghê-đê-ôn cho rằng nơi đây là an toàn nhất, không thể có người lạ mặt tới được. Thế mà có một người ngồi dưới gốc cây sồi nhìn chàng. Người lạ mặt nói: “Hỡi người dũng sĩ! Đức Giê-hô-va ở cùng ngươi”. Chàng Ghê-đê-ôn đang phải trốn tránh dân Ma-đi-an mà là người dũng sĩ sao?

Ghê-đê-ôn trả lời: “Ôi Chúa! Nếu Đức Giê-hô-va ở cùng chúng tôi, sao các điều nầy lại xảy ra? Đức Giê-hô-va đã bỏ chúng tôi, để cho người Ma-đi-an hành hạ chúng tôi”.

Người lạ mặt tiếp tục nói: “Ghê-đê-ôn, hãy dùng sức mạnh ngươi đang có đi giải cứu dân Y-sơ-ra-ên. Chính ta sai bảo ngươi”.

Lúc nầy thì Ghê-đê-ôn hiểu ra đây không phải là người bình thường, mà là thiên sứ của Đức Giê-hô-va. Tại sao Chúa lại bảo Ghê-đê-ôn đi đánh quân Ma-đi-an, trong khi chính bản thân chàng cũng phải ẩn náu nơi hang núi? Ghê-đê-ôn từ chối: “Lạy Chúa, tôi làm sao giải cứu dân Y-sơ-ra-ên được? Trong chi phái của tôi, gia đình tôi hèn mọn nhất, còn trong gia đình, tôi là người nhỏ nhất”. Nhưng Đức Chúa Trời vẫn giữ nguyên mệnh lệnh: “Ta ở cùng ngươi, nên ngươi sẽ đánh bại dân Ma-đi-an như đánh một người vậy”.

(2) Biết chắc lời kêu gọi.

Ghê-đê-ôn dường như không tin ở tai mình, chàng mà được Đức Chúa Trời giao cho công việc quan trọng đến thế ư? Để cho chắc chắn, Ghê-đê-ôn thưa rằng: “Nếu tôi được ơn trước mặt Chúa, xin ban cho tôi một dấu hiệu để tôi biết chính Chúa phán cùng tôi”.

Ghê-đê-ôn lập tức quay về nhà, làm thịt một con dê con và một ít bánh không men, rồi dọn thịt và bánh không men trên một hòn đá bên gốc cây sồi, đổ nước thịt lên trên y như lời Đức Chúa Trời phán dặn. Thiên sứ Đức Giê-hô-va cầm cây gậy trên tay đụng đến thịt và bánh, thì lửa từ hòn đá bốc lên thiêu cháy thịt và bánh không men, rồi thiên sứ biến mất.

Ngay lúc đó, Ghê-đê-ôn mới biết chắc người nói chuyện với mình là thiên sứ của Đức Giê-hô-va và mình nhận được sự kêu gọi của Chúa. Ghê-đê-ôn liền lập tại gốc cây sồi một bàn thờ cho Đức Chúa Trời để ghi nhớ cuộc gặp gỡ nầy.

b. Hành động của chàng dũng sĩ.

Ngay đêm đó, Đức Chúa Trời bảo Ghê-đê-ôn làm một việc mà cần phải có rất nhiều can đảm mới thực hiện được. Đó là phá đổ bàn thờ thần Ba-anh của nhà cha chàng và hạ tượng thần A-sê-ra xuống, thay vào đó là bàn thờ Đức Chúa Trời. (Ba-anh là tượng nam tà thần và A-sê-ra là tượng nữ tà thần mà người Y-sơ-ra-ên đang thờ).

Ghê-đê-ôn lập tức dẫn theo mười người để thực hiện lời phán của Chúa, nhưng chàng hành động vào ban đêm vì sợ cha chàng và những người trong thành trông thấy. Họ phá đổ bàn thờ thần Ba-anh, hạ tượng thần A-sê-ra xuống rồi chặt thành nhiều khúc, làm củi thiêu của tế lễ dâng cho Đức Chúa Trời.

Sáng hôm sau, dân trong thành thấy bàn thờ Ba-anh đâu mất, thay vào đó là một bàn thờ mới và của lễ thiêu ở trên, thì kinh ngạc hỏi nhau: “Ai đã làm điều nầy vậy?” Họ lập tức điều tra, không bao lâu, mọi người cũng đã phát hiện Ghê-đê-ôn làm điều đó.

Dân trong thành kéo nhau đến nhà Ghê-đê-ôn và nói với cha chàng: “Đem con ông ra đây. Nó phải chết vì tội phá đổ bàn thờ thần Ba-anh và triệt hạ tượng nữ thần A-sê-ra”.

Cha của Ghê-đê-ôn tuy cũng thờ thần Ba-anh, nhưng trước việc làm của con mình, ông ăn năn và nói cùng đám người đang nhốn nháo kia: “Các ông muốn bênh vực Ba-anh phải không? Nếu hắn là thần, thì hắn sẽ tự bênh vực lấy vì có người phá đổ bàn thờ của hắn”.

Mọi người đều im lặng. Nếu Ba-anh thật sự là thần, tại sao lại không bảo vệ được mình? Bản thân mình không bảo vệ được, thì làm sao có thể bảo vệ, giúp đỡ người khác. Mọi người hiểu ra thần Ba-anh và tượng A-sê-ra chỉ là tượng gỗ, có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe, có miệng mà không nói.

  1. Ứng dụng.

Các em thân mến! Các em suy nghĩ xem, bản thân Ghê-đê-ôn có phải là một dũng sĩ không? Vì sao các em biết điều đó? (Cho các em trả lời). Không, Ghê-đê-ôn chỉ là một nông dân giỏi, chứ không phải là một dũng sĩ, vì chàng cũng phải trốn tránh dân Ma-đi-an. Nhưng khi có Đức Chúa Trời ở cùng, Ghê-đê-ôn trở thành dũng sĩ. Chàng dám làm một việc mà không phải ai cũng dám làm: Phá đổ bàn thờ Ba-anh, tà thần mà dân Y-sơ-ra-ên đang thờ, rồi lập bàn thờ cho Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã ban cho Ghê-đê-ôn sức mạnh và lòng can đảm để thực hiện việc đó, cùng với hai lời hứa. Các em có thể kể ra được không? “Ta sẽ ở cùng ngươi và ngươi sẽ đánh bại dân Ma-đi-an như đánh một người vậy” (Các Quan Xét 6:16).

Đức Chúa Trời ban cho các em rất nhiều lời hứa trong Kinh Thánh. Các em nên nhớ một điều: Khi Đức Chúa Trời ở cùng, các em sẽ không còn yếu đuối, sợ hãi nữa, mà sẽ là những dũng sĩ. Ngài ban cho các em sức mạnh và lòng can đảm như Ngài đã ban cho Ghê-đê-ôn, để các em chiến thắng mọi sự sợ hãi và hầu việc Chúa.

Đừng nghĩ rằng em yếu đuối, không có khả năng nên không thể làm công việc Chúa được. Đức Chúa Trời kêu gọi, chọn lựa các em bởi ơn thương xót của Ngài, và Ngài sẽ ở cùng để giúp các em hoàn thành công việc được giao. Các em nên cảm tạ ơn thương xót của Chúa, đắc thắng sự sợ hãi và hầu việc Chúa luôn luôn.

BÀI 11. GHÊ-ĐÊ-ÔN, CHÀNG DŨNG SĨ (HV)

I. KINH THÁNH: Các Quan Xét 6:1-32.

II. CÂU GỐC: “Hỡi người dõng sĩ! Đức Giê-hô-va ở cùng ngươi” (Các Quan Xét 6:12).

III. BÀI TẬP.

1. Chàng dõng sĩ.

Trong câu chuyện Kinh Thánh của tuần nầy, có một người dũng sĩ. Người đó tên gì?

…………………………………………………………………………………………………………………………

2. Công việc Chúa giao cho chàng dũng sĩ.

Đức Chúa Trời kêu gọi và giao cho chàng dũng sĩ một việc rất khó khăn, phải cần nhiều sự can đảm mới thực hiện được. Hãy xem các câu dưới đây và ghi chữ “Đ” vào câu đúng, chữ “S” vào câu sai.

__ a. Đức Chúa Trời bảo Ghê-đê-ôn không ẩn náu nữa, mà phải tiến đánh dân Ma-đi-an.

__ b. Đức Chúa Trời bảo Ghê-đê-ôn phải học tập quân sự một thời gian, sau đó mới làm người lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên.

__ c. Đức Chúa Trời bảo Ghê-đê-ôn đánh đổ bàn thờ thần Ba-anh.

__ d. Đức Chúa Trời bảo Ghê-đê-ôn lập một bàn thờ cho Ngài.

__ e. Đức Chúa Trời bảo Ghê-đê-ôn phản bội cha mình.

3. Lời hứa cho chàng dũng sĩ.

Để giúp Ghê-đê-ôn không sợ hãi, Đức Chúa Trời đã ban cho chàng hai lời hứa. Em hãy ghi nội dung hai lời hứa đó.

1……………………………………………………………………………………………………………

2……………………………………………………………………………………………………………

4. Đức Chúa Trời sẽ giúp đỡ em.

Ghê-đê-ôn sợ hãi không dám nhận công việc Chúa giao, nhưng chàng biết nương dựa vào lời hứa của Đức Chúa Trời.

Hiện tại em có gặp sự khó khăn nào không? (Những việc em không thích, không đủ can đảm làm hoặc những việc làm em sợ hãi). Hãy ghi ra dưới đây.

 

………………………………………………………………………………………….

………………………………………………………………………………………….

………………………………………………………………………………………….

5. Suy gẫm câu gốc tuần nầy.

Câu gốc tuần nầy sẽ chỉ cho em bí quyết để có sức mạnh và lòng can đảm. Đó là có Đức Chúa Trời ở cùng. Nếu có Chúa ở cùng, em sẽ trở nên mạnh mẽ. Hãy cầu nguyện cảm tạ Chúa về điều đó.

Lời cầu nguyện của em.

…………………………………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………………………………

Bài 10. ĐÁNH BẠI SI-SÊ-RA (GV-HV)

Bài 10. ĐÁNH BẠI SI-SÊ-RA (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ III. 2016, QUÍ III. 2016, THIẾU NHI on 19 Tháng Bảy, 2018

BÀI 10.  ĐÁNH BẠI SI-SÊ-RA (GV)

 I. KINH THÁNH: Các Quan Xét 4.

II. CÂU GỐC: “Trong ngày sợ hãi, tôi sẽ để lòng nhờ cậy nơi Chúa. Tôi nhờ Đức Chúa Trời, và ngợi khen lời của Ngài; tôi để lòng tin cậy nơi Đức Chúa Trời, ắt sẽ chẳng sợ gì” (Thi Thiên 56:3-4).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Ba-rác tin tưởng Đê-bô-ra hơn là nhờ cậy Đức Chúa Trời, nên ông đã sợ hãi khi nhận nhiệm vụ.

– Cảm nhận: Em nhờ cậy Đức Chúa Trời thì không sợ hãi.

– Hành động: Học thuộc lòng những câu Kinh Thánh có thể giúp em chế ngự sự sợ hãi.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

1. Cầu nguyện cho bạn và các em học tập nhờ cậy Chúa để thoát khỏi sự sợ hãi.

2. Chuẩn bị cho phần thủ công, sinh hoạt.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH

  1. Vào đề.

Khi ba mẹ hay thầy cô giáo ở trường giao cho các em một công việc hơi khó một chút, thì các em sẽ phản ứng như thế nào? (Cho các em phát biểu ý kiến). Có lẽ các em cần phải có nhiều sự khích lệ, thậm chí cần có sự giúp đỡ của mọi người thì mới hoàn thành công việc được giao.

Trong bài học Kinh Thánh hôm nay, chúng ta sẽ được biết về một người, người đó phải nhận một công việc rất quan trọng, nhưng trong lòng lại đầy sợ hãi. Vậy chúng ta cùng xem người đó có thái độ và hành động như thế nào trước nhiệm vụ được giao nhé!

  1. Bài học.

Các em còn nhớ trong bài học trước, dân Y-sơ-ra-ên đã hứa nguyện điều gì không? (Cho các em trả lời). Sau khi Giô-suê qua đời, dân Y-sơ-ra-ên vẫn giữ lời hứa của mình trung tín thờ phượng Đức Chúa Trời. Năm tháng trôi qua, họ từ từ quên Đức Chúa Trời, và bị dân Ca-na-an dụ dỗ thờ lạy thần tượng. Đó cũng là hậu quả của việc dân Y-sơ-ra-ên không vâng lời Chúa dặn là tiêu diệt hết dân Ca-na-an khi chiếm xư. Đức Chúa Trời nhiều lần cảnh cáo và nhắc nhở dân Y-sơ-ra-ên, nhưng họ vẫn không thay đổi, nên Ngài dùng tay của dân Ca-na-an sửa phạt họ.

Nhiều năm về trước, Giô-suê từng đánh bại Hát-so. (Ghi tên thành nầy trên bảng). Bây giờ, vì dân Y-sơ-ra-ên bội nghịch Đức Chúa Trời, nên Ngài đã khiến thành Hát-so trở nên hùng mạnh và đàn áp dân Y-sơ-ra-ên. Dân Y-sơ-ra-ên bị lâm vào cảnh khốn cùng, cực khổ trong suốt 20 năm. Họ không còn chịu đựng nổi nữa nên quay lại kêu cầu Đức Chúa Trời giải cứu.

Dân Y-sơ-ra-ên khiếp sợ Si-sê-ra, vị tướng lãnh đạo quân của vua Gia-bin, thành Hát-so. Ai nghe đến tên nầy đều phải kinh hoàng, bạt vía. Người ta sợ vì hắn tàn ác, nhưng cũng vì những khí giới bằng sắt của hắn. Si-sê-ra có đến 900 chiếc xe chiến đấu, và trên mỗi chiếc đều có những chiến sĩ dũng cảm và tài giỏi điều khiển.

(1) Ba-rác được giao nhiệm vụ đánh bại Si-sê-ra.

Tuy dân Y-sơ-ra-ên quên Đức Chúa Trời, nhưng Ngài không bao giờ quên họ. Đức Chúa Trời đã dùng một người để nhắc nhở và khuyên dạy họ làm theo lời Đức Chúa Trời, đồng thời đoán xét dân sự. Người đó là nữ tiên tri Đê-bô-ra. Bản thân Đê-bô-ra cũng phải chịu sự ức hiếp của quân Si-sê-ra, nhưng bà hiểu đó là sự cho phép của Đức Chúa Trời nhằm sửa phạt dân Y-sơ-ra-ên.

Một ngày kia, Đức Chúa Trời bày tỏ cho Đê-bô-ra biết kế hoạch đánh bại quân Si-sê-ra. Bà liền chọn một người tên là Ba-rác để lãnh đạo cuộc chiến nầy. Khi Ba-rác đến, Đê-bô-ra nói cho ông biết kế hoạch của Đức Chúa Trời. Ba-rác được giao nhiệm vụ với lời hứa của Đức Chúa Trời là sẽ chiến thắng Si-sê-ra. Nhưng Ba-rác vẫn sợ hãi.

Quân Si-sê-ra có 900 xe chiến đấu, và vô số binh lính tài giỏi, còn binh lính Y-sơ-ra-ên chỉ là những người dân thường, không hề được huấn luyện để chiến đấu. Càng nghĩ Ba-rác càng lo sợ, ông không đủ can đảm để nhận nhiệm vụ to lớn nầy. Ba-rác nói với Đê-bô-ra: “Nếu bà ra trận với tôi, tôi sẽ đi. Nếu không, tôi không đi đâu!”

Ba-rác không hoàn toàn tin cậy Đức Chúa Trời, nên mới sợ hãi, muốn Đê-bô-ra cùng đi với mình. Đê-bô-ra đáp: “Được rồi, tôi sẽ đi với ông, nhưng sự vinh hiển của việc nầy không thuộc về ông, vì Chúa sẽ phó Si-sê-ra vào tay một người nữ”. Có Đê-bô-ra cùng ra trận, Ba-rác mới đủ can đảm nhận công việc Chúa giao.

(2) Đức Chúa Trời giúp Ba-rác đánh bại Si-sê-ra.

Theo kế hoạch của Đức Chúa Trời, Ba-rác cùng Đê-bô-ra dẫn theo mười ngàn chiến sĩ đi tới núi Tha-bô. Tin nầy tới tai Si-sê-ra. Si-sê-ra lập tức tập trung toàn bộ quân đội và 900 xe sắt của mình chuẩn bị chiến đấu.

Tuy có sự hiện diện của Đê-bô-ra, nhưng Ba-rác cũng không ngăn được nỗi lo sợ khi phải đối đầu với Si-sê-ra. Đê-bô-ra nói với Ba-rác: “Hãy đứng dậy, vì hôm nay là ngày Đức Giê-hô-va phó Si-sê-ra vào tay ông. Có Chúa đi trước ông đó”.

Được sự khích lệ của Đê-bô-ra, Ba-rác dẫn quân xuống núi nghênh chiến đội quân của Si-sê-ra. Đức Giê-hô-va chiến đấu cho dân sự của Ngài, khiến quân của Si-sê-ra thua chạy tán loạn. Dân Y-sơ-ra-ên thừa thắng xông lên tiêu diệt quân địch, còn Si-sê-ra nhảy xuống xe chạy bộ tẩu thoát. Chín trăm xe bằng sắt là chỗ dựa sức mạnh của Si-sê-ra đều tan tành, còn sức mạnh của quân đội Y-sơ-ra-ên là Đức Giê-hô-va.

Si-sê-ra chạy trốn đến trại của một người tên là Gia-ên. Quân lính của ông đã bị giết sạch, nên bây giờ điều quan trọng nhất của ông là bảo toàn tính mạng của mình. Nhà Gia-ên vốn có quan hệ thân thiết với vua Hát-so, nên khi Si-sê-ra chạy được tới đây thì cảm thấy an toàn. Gia-ên chăm sóc Si-sê-ra rất chu đáo, và vì quá mệt mỏi nên ngủ thiếp đi, không hề cảnh giác. Gia-ên đợi lúc Si-sê-ra ngủ say thì giết ông ta. Vừa lúc đó, Ba-rác và quân Y-sơ-ra-ên đi ngang qua đó. Gia-ên mời họ vào trại chỉ cho thấy xác Si-sê-ra nằm sóng soài dưới đất.

Đức Chúa Trời đã cho dân Y-sơ-ra-ên toàn thắng Si-sê-ra, y như lời Ngài đã phán với Đê-bô-ra. Nhưng rất tiếc là Ba-rác không có được sự vinh hiển trong chiến thắng nầy, mà vinh hiển đó lại thuộc về Đê-bô-ra, vì ông không hết lòng tin cậy Đức Chúa Trời.

Vui mừng vì chiến thắng, Đê-bô-ra cùng với Ba-rác hát một bài ca ngợi Chúa. Các em có thể đọc bài ca nầy trong Các quan xét đoạn 5, hoặc đọc một phần trong tập học viên. Sau đó, xứ được hòa bình trong 40 năm.

  1. Ứng dụng.

Các em thân mến! Trong bài học nầy, các em học được điều gì qua Ba-rác và Đê-bô-ra? (Cho các em phát biểu).

– Ba-rác: Đáng lẽ Ba-rác là người rất vinh hạnh, vì được chọn làm người lãnh đạo cuộc chiến và biết chắc phần thắng thuộc về mình, nhưng Ba-rác lại sợ hãi. Nếu Ba-rác hết lòng tin cậy Chúa thì ông sẽ không sợ hãi.

– Đê-bô-ra: Khi Ba-rác sợ hãi, trở nên yếu đuối, thì Đê-bô-ra là người khích lệ Ba-rác tin cậy Chúa. Không những khích lệ, Đê-bô-ra còn cùng đi với Ba-rác để giúp ông hoàn thành nhiệm vụ.

Ai cũng có lúc sợ hãi phải không các em? Vậy, khi sợ hãi, các em thường làm gì? Các em có thể có những ý kiến:

  1. Kể cho cha mẹ hay thầy cô giáo nghe về sự lo sợ của em. Họ sẽ giúp đỡ em.
  2. Chạy trốn.
  3. Đắp mền trùm đầu.
  4. Khóc.
  5. Cầu nguyện v.v…

Câu Kinh Thánh sau đây sẽ giúp các em rất nhiều: “Trong ngày sợ hãi, tôi sẽ để lòng nhờ cậy nơi Chúa. Tôi nhờ Đức Chúa Trời, và ngợi khen lời của Ngài; tôi để lòng tin cậy nơi Đức Chúa Trời, ắt sẽ chẳng sợ gì” (Thi 56:3-4).

Các em nên nhớ Đức Chúa Trời luôn ở cùng các em. Khi nào trong lòng các em sợ hãi, thì kêu cầu và nhờ cậy Chúa, chắc chắn sẽ không còn sợ hãi nữa.

Còn một vấn đề khác chúng ta cũng cần đề cập tới: “Em làm gì để giúp đỡ bạn đang sợ hãi?” Các em có cách nào giống như cách của Đê-bô-ra không? Em út của các em còn nhỏ, rất sợ bóng tối, các em nên mở đèn để mọi nơi được sáng, hoặc đi cùng với em út ở những chỗ có bóng tối, và không được hù dọa cho em giật mình. Khi một bạn hay sợ, các em phải khích lệ, giúp đỡ, cùng cầu nguyện với bạn ấy. (Cho các em nêu ra nhiều trường hợp khác và cùng cầu nguyện).

BÀI 10. ĐÁNH BẠI SI-SÊ-RA

I. KINH THÁNH: Các Quan Xét 4.

II. CÂU GỐC: “Trong ngày sợ hãi, tôi sẽ để lòng nhờ cậy nơi Chúa. Tôi nhờ Đức Chúa Trời, và ngợi khen lời của Ngài; tôi để lòng tin cậy nơi Đức Chúa Trời, ắt sẽ chẳng sợ gì” (Thi Thiên 56:3-4).

III. BÀI HỌC.

Sau khi Giô-suê qua đời, dân Y-sơ-ra-ên từ bỏ Đức Chúa Trời mà thờ lạy thần tượng của dân Ca-na-an. Đức Chúa Trời sửa phạt bằng cách phó họ vào tay Gia-bin, là vua Ca-na-an trị vì tại Hát-so. Quá khốn khổ, dân Y-sơ-ra-ên kêu cầu Đức Chúa Trời giải cứu.

Lúc đó, nữ tiên tri Đê-bô-ra đang làm quan xét Y-sơ-ra-ên. Bà vâng lời Đức Chúa Trời chọn Ba-rác đi đánh Si-sê-ra, một vị tướng lãnh đạo đội quân của vua Gia-bin. Ba-rác thấy mình không đủ can đảm để gánh vác công việc nầy, nên ông đề nghị Đê-bô-ra cùng đi.

Tuy Ba-rác chỉ có mười ngàn quân, còn Si-sê-ra có cả 900 xe bằng sắt và vô vàn binh lính, nhưng Đức Chúa Trời đã hứa Ba-rác sẽ thắng.

Đức Chúa Trời làm cho hết thảy xe cộ và quân của Si-sê-ra bỏ chạy tán loạn chạy trước mặt Ba-rác. Quân của Si-sê-ra bị giết không sót một người. Si-sê-ra cũng bị giết chết. Dân Y-sơ-ra-ên đã hoàn toàn chiến thắng. Đê-bô-ra cùng với Ba-rác sáng tác một bài hát ca ngợi Chúa.

BÀI 9. TÌNH THƯƠNG XÓA BỎ KHOẢNG CÁCH (GV-GV)

BÀI 9. TÌNH THƯƠNG XÓA BỎ KHOẢNG CÁCH (GV-GV)

in QUÍ III. 2016, THIẾU NHI on 18 Tháng Bảy, 2018

BÀI 9. TÌNH THƯƠNG XÓA BỎ KHOẢNG CÁCH (GV)

 I. KINH THÁNH: Giô-suê 22; 24:1-28.

II. CÂU GỐC: “Chúng ta hãy yêu mến lẫn nhau; vì sự yêu thương đến từ Đức Chúa Trời, kẻ nào yêu, thì sanh từ Đức Chúa Trời và nhìn biết Đức Chúa Trời” (1Giăng 4:7).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Giô-suê và mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên sống yêu thương và quan tâm lẫn nhau.

– Cảm nhận: Tình yêu thương xuất phát từ Đức Chúa Trời.

– Hành động: Phải bày tỏ tình yêu thương đối với những người chung quanh.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ

1. Cho các em cùng nhau nói ra mối quan hệ của các em với bạn bè, anh chị em…

2. Chuẩn bị giấy bút cho các em vẽ chân dung người mà các em yêu thương nhất, rồi ghi tên của người đó vào bên dưới bức vẽ.

3. Dùng bút lông ghi chữ lớn tên mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên trên miếng bìa cứng (có thể dùng phấn ghi lên bảng).

4. Nghiên cứu bản đồ số 4 “Xứ Ca-na-an phân chia cho 12 chi phái”, ở phía sau Kinh Thánh.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH

1. Vào đề.

Các em có nhiều anh chị em không? Trong gia đình mà anh chị em yêu thương nhau thì thật hạnh phúc. Tục ngữ Việt nam có câu: “Anh em như thể tay chân”. Điều đó nói lên mối quan hệ khắng khít của tình anh em. Dầu sau nầy các em lớn lên, tự lập, thì tình anh em vẫn khắng khít và cần thiết như vậy.

Biết yêu thương anh chị em và bạn bè là điều đẹp lòng Chúa. Chúa Giêxu đã nói: “Ta đã yêu các ngươi thể nào, thì các ngươi cũng hãy yêu nhau thể ấy” (Giăng 13:34). Có lẽ chúng ta sẽ để một phút, mỗi người tự so sánh tình yêu thương của Chúa đối với mình, và tình yêu thương của mình đối với người khác. (Cho các em suy nghĩ). Bài học Kinh Thánh hôm nay, các em được học về tình yêu thương và sự quan tâm giữa mọi người với nhau.

2. Bài học.

Sau khi chinh phục xứ Ca-na-an, dân Y-sơ-ra-ên được sống trong hòa bình. Đức Chúa Trời liền phán dặn Giô-suê phân chia đất đai cho các chi phái để làm sản nghiệp.

Mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên đều có tên và người lãnh đạo riêng của họ. Hai chi phái Ru-bên, Gát và phân nửa chi phái Ma-na-se sống ở phía Đông bờ sông Giô-đanh, còn lại chín chi phái rưỡi sống ở phía Tây bờ sông Giô-đanh. (Cho các em xem bản đồ số 4. Nếu không có, thì có thể trình bày cách đơn giản trên bảng cho các em dễ hiểu. Vẽ dòng sông ở giữa, chín chi phái rưỡi ở bên trái, hai chi phái rưỡi ở bên phải). Giô-suê làm theo lời Chúa dặn rất cẩn thận để mỗi chi phái đều có đất đai.

a. Tình yêu thương giữa các chi phái với nhau.

(1) Hai chi phái rưỡi ở bờ Đông.

Trước khi Môi-se qua đời, đất đai ở phía đông bờ sông Giô-đanh đã được chia cho chi phái Ru-bên, chi phái Gát và phân nửa chi phái Ma-na-se. Trong những năm qua, các chiến sĩ của hai chi phái rưỡi nầy đã hết lòng giúp đỡ Giô-suê trong sự nghiệp chinh phục Đất Hứa.

Sau khi chiến tranh kết thúc, Giô-suê gọi hai chi phái rưỡi đến nói rằng: “Những năm tháng qua, anh em đã vâng giữ mọi điều mà Môi-se và tôi dặn biểu. Ngày nay, Chúa cho các chi phái kia được nghỉ ngơi như Ngài đã hứa, nên bây giờ anh em được trở về chỗ ở của mình bên kia sông Giô-đanh”.

Những chiến sĩ của hai chi phái rưỡi đó rất khâm phục và kính trọng Giô-suê, vì ông là người lãnh đạo hết lòng yêu thương dân sự. Khi họ chuẩn bị ra đi, Giô-suê còn căn dặn: “Anh em phải hết lòng yêu mến Đức Chúa Trời, vâng giữ các điều răn, và hết lòng phục vụ Ngài”. Rồi Giô-suê chúc phước lành cho họ và tiễn họ ra về.

Hai chi phái rưỡi nầy đi đến bờ sông Giô-đanh, họ nhận thấy dòng sông Giô-đanh như một biên giới chia hai bờ Đông Tây, chẳng khác gì đã chia cắt họ với chín chi phái rưỡi còn lại. Những người của hai chi phái rưỡi nầy mong muốn dòng sông Giô-đanh không chia cắt tình cảm giữa họ và chín chi phái rưỡi ở bên nầy sông, nhưng họ mãi mãi là một dân tộc, cùng thờ phượng một Đức Giê-hô-va. Nghĩ thế, nên trước khi qua sông, hai chi phái rưỡi dùng đá xây một bàn thờ ở gần sông Giô-đanh. Bàn thờ nầy rất lớn, để cho ai cũng nhìn thấy và làm chứng giữa họ với chín chi phái rưỡi bên nầy là một gia đình. Tuy dòng sông ngăn cách họ, nhưng tấm lòng họ vẫn yêu thương và nhớ nhau.

(2) Chín chi phái rưỡi ở bờ Tây.

Một bàn thờ mới đã được dựng lên ở bờ Tây sông Giô-đanh. Không bao lâu sau, tin nầy lan truyền khắp nơi. Toàn bộ dân Y-sơ-ra-ên ở phía tây sông Giô-đanh đều rất tức giận. Họ cho rằng chỉ có thể thờ phượng Đức Giê-hô-va trong đền thờ của Ngài, còn bây giờ dân Y-sơ-ra-ên ở phía đông sông Giô-đanh lập một bàn thờ khác, phải chăng là để thờ cúng thần tượng, phản nghịch Đức Giê-hô-va?

Dân Y-sơ-ra-ên ở bờ Tây cảm thấy lo lắng cho anh em mình ở bờ Đông từ bỏ Đức Chúa Trời, nên họ phái các trưởng tộc (người đứng đầu chi phái) qua sông, đến gặp người Ru-bên, người Gát và phân nửa chi phái Ma-na-se mà hỏi rằng: “Chúng tôi muốn biết tại sao anh em dám từ bỏ Chúa, xây một bàn thờ khác để tỏ lòng phản nghịch Ngài? Nếu đất đang ở không tốt, thì anh em dọn qua đất của Chúa, nơi có đền thờ Ngài, ở với chúng tôi. Chúng tôi sẽ chia đất cho anh em, chỉ xin anh em đừng phản nghịch Chúa!”

Người Ru-bên, người Gát và người của nửa chi phái Ma-na-se sau khi nghe những lời kết tội như vậy, liền la lên: “Không phải, Đức Giê-hô-va biết rằng chúng tôi lập bàn thờ không phải để phản nghịch Ngài, cũng không phải để dâng của lễ thiêu hay cúng gì cả!” Họ gấp rút giải thích cùng các trưởng tộc của hàng ngàn người Y-sơ-ra-ên ở phía bờ Tây sông Giô-đanh: “Chúng tôi lập bàn thờ nầy, vì sợ sau nầy con cháu của anh em nói với con cháu chúng tôi: Các ngươi đâu có liên hệ gì với Đức Giê-hô-va của Y-sơ-ra-ên? Vì Chúa đã đặt sông Giô-đanh làm biên giới ngăn cách chúng ta. Như thế, con cháu anh em sẽ làm cho con cháu chúng tôi thôi kính sợ Đức Giê-hô-va”.

Họ nhấn mạnh rằng, lập bàn thờ là để làm chứng giữa họ và dân ở phía Tây. Sau nầy con cháu họ đều biết tất cả dân Y-sơ-ra-ên đông tây đều thờ phượng chung một Chúa, cùng chung một gia đình.

Những trưởng tộc phía bờ Tây nghe xong rất vui lòng. Nếu lập bàn thờ chỉ vì mong muốn con cháu sau nầy không quên Đức Chúa Trời, thì đúng là một việc làm tốt đẹp. Sau đó, họ từ giã anh em mình để quay về bờ tây, thuật lại cùng dân Y-sơ-ra-ên.

Người Ru-bên, người Gát và phân nửa chi phái Ma-na-se đặt tên bàn thờ là Ết (nghĩa là bàn thờ chứng) vì nói rằng nó làm chứng giữa chúng ta: Giê-hô-va là Đức Chúa Trời.

b. Tình yêu thương của Giô-suê đối với dân sự.

Thời gian cứ thế trôi qua, Giô-suê đã cao tuổi (khoảng 110 tuổi). Ông biết không bao lâu nữa sẽ từ giã thế giới nầy, và mối quan tâm lớn nhất của ông là dân sự có tiếp tục vâng giữ điều răn và hết lòng thờ phượng Đức Chúa Trời hay không? Giô-suê đã nhiều lần nhắc nhở họ và lần cuối cùng, Giô-suê tập trung đầy đủ mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên từ hai bờ Đông Tây sông Giô-đanh tại Si-chem. (Tìm vị trí nầy trên bản đồ). Khi Giô-suê cất tiếng nói, toàn bộ dân sự đều im phăng phắc lắng nghe.

Ông nói rằng: “Đức Chúa Trời ban cho các ngươi có sự bình an nơi đây. Các ngươi không cần xây cũng có nhà để ở, không ra công trồng trọt cũng có vườn nho và ôliu, vì Đức Chúa Trời đã chuẩn bị mọi thứ cho các ngươi. Vậy bây giờ, các ngươi hãy kính sợ Đức Giê-hô-va và phụng sự Ngài cách thành tâm và trung tín. Dẹp bỏ hết các thần tượng mà tổ phụ các ngươi đã thờ”.

Dân sự đang đứng trước sự lựa chọn, còn Giô-suê vẫn tiếp tục nói: “Nếu các ngươi không thích thờ phượng Đức Giê-hô-va, thì ngày hôm nay phải quyết định thờ thần nào mà các ngươi ưa thích. Nhưng ta và nhà ta sẽ phục sự Đức Giê-hô-va”. Dân sự cùng nhau đáp rằng: “Chúng tôi quyết hầu việc Đức Giê-hô-va, vì Ngài là Đức Chúa Trời chúng tôi”.

Giây phút đó rất quan trọng đối với Giô-suê và toàn dân Y-sơ-ra-ên, vì họ đã quyết tâm hứa trước mặt Chúa sẽ mãi mãi thờ phượng Ngài. Giô-suê dựng một tảng đá lớn dưới cây dẻ, gần đền thờ Đức Chúa Trời để làm chứng cho sự hứa nguyện nầy. Ông còn viết chuyện nầy vào trong sách luật pháp để cho dân sự nhớ mãi lời hứa của mình.

3. Ứng dụng.

Các em thân mến! Các em thấy tình yêu thương trong câu chuyện nầy được thể hiện như thế nào? (Cho các em trả lời). Dân Y-sơ-ra-ên ở bờ Đông luôn mong muốn họ và dân ở bờ Tây mãi mãi là anh em, dù dòng sông Giô-đanh chia cắt giữa họ. Còn dân Y-sơ-ra-ên ở bờ Tây lại lo lắng, sợ anh em mình ở bờ Đông từ bỏ Đức Giê-hô-va. Giô-suê thì quan tâm đến đời sống thuộc linh của dân Y-sơ-ra-ên, hết lòng dạy dỗ họ yêu mến Chúa, chúc phước và cầu nguyện cho họ.

Các em thấy tình yêu thương của dân Y-sơ-ra-ên ở hai bờ Đông, Tây không hề giảm sút bởi sự chia cách. Dòng sông Giô-đanh không cản trở họ quan tâm, lo lắng cho nhau. Như vậy, tình yêu thương thật sự không phân biệt giàu nghèo, xấu đẹp, học giỏi học kém, ở gần hay ở xa… Chúa muốn các em xóa bỏ mọi khoảng cách, đến gần với nhau hơn, bày tỏ lòng thân thiện, sự quan tâm, chia sẻ những gì mình có cho những bạn kém may mắn, giúp đỡ những bạn yếu kém trong học tập…

Nhiều lúc, các em cảm thấy khó yêu thương người khác. Những lúc như vậy, các em cần cầu nguyện để Chúa ban cho các em tình yêu thương. Nếu Chúa ngự trong lòng các em, thì các em sẽ dễ dàng yêu thương và quan tâm đến người khác. Nên nhớ, Chúa Giêxu đã yêu thương các em đến nỗi hy sinh chính mạng vàng của Ngài, thì Ngài cũng muốn các em biết yêu thương anh em mình.

Hướng dẫn các em viết một đoạn văn ngắn về tình yêu thương. “Tình yêu thương là …” (xem tập học viên, hướng dẫn nội dung cho các em dễ viết: Tình yêu thương là chia nhau miếng bánh, nhường nhịn các em nhỏ, làm một việc gì đó để ba mẹ vui lòng, quan tâm bạn bè… Nhắc các em về những việc cần làm trong tuần lễ nầy).

Các em có nghĩ rằng quan tâm lẫn nhau là điều đẹp lòng Chúa không? Nếu các em yêu mến nhau thì các em là con cái Đức Chúa Trời (Cho các em đọc câu gốc).

 

BÀI 9.    TÌNH THƯƠNG XÓA BỎ KHOẢNG CÁCH (HV)

 I. KINH THÁNH: Giô-suê 22; 24:29.

II. CÂU GỐC: “Chúng ta hãy yêu mến lẫn nhau; vì sự yêu thương đến từ Đức Chúa Trời, kẻ nào yêu, thì sanh từ Đức Chúa Trời và nhìn biết Đức Chúa Trời” (1Giăng 4:7).

III. BÀi TẬP.

1. Bàn thờ ở mé sông.

Chi phái Ru-bên, chi phái Gát và phân nửa chi phái Ma-na-se lập bàn thờ ở mé sông Giô-đanh. Việc làm nầy có ý nghĩa gì? Em ghi câu trả lời xuống phía dưới.

………………………………………………………………………………………….

………………………………………………………………………………………….

………………………………………………………………………………………….

2. Tình yêu thương là gì?

Theo em, tình yêu thương là gì? Em làm gì để biểu hiện tình yêu thương của mình? Hãy viết ra.

3. Suy gẫm câu gốc.

Câu gốc nầy nói: “Chúng ta hãy yêu mến lẫn nhau”. Đây là một mệnh lệnh bắt buộc mỗi con dân Chúa phải thi hành, đúng không? Vì sao? Vì “sự yêu thương đến từ Đức Chúa Trời, kẻ nào yêu, thì sanh từ Đức Chúa Trời và nhìn biết Đức Chúa Trời”.

Quan tâm đến người khác cũng bày tỏ tình yêu thương. Hãy nghĩ xem, ai là người quan tâm đến em nhiều nhất? Điền vào hai phần dưới đây.

a. Tên của người quan tâm đến em.

……………………………………………………………………………………

b. Việc họ quan tâm đến em.

……………………………………………………………………………………

Hãy cảm tạ Đức Chúa Trời vì những gì họ đã làm cho em. Cầu xin Chúa giúp em cũng bày tỏ lòng yêu thương đến với họ.

BAI 8. LỖI LẦM CỦA GIÔ-SUÊ (GV-HV)

BAI 8. LỖI LẦM CỦA GIÔ-SUÊ (GV-HV)

in QUÍ III. 2016, THIẾU NHI on 18 Tháng Bảy, 2018

BAI 8. LỖI LẦM CỦA GIÔ-SUÊ (GV)

I. KINH THÁNH: Giô-suê 9; 10:1-15.

II. CÂU GỐC: “Người nào để trí mình nương dựa nơi Ngài, thì Ngài sẽ gìn giữ người trong sự bình an trọn vẹn, vì người nhờ cậy Ngài” (Ê-sai 26:3).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Lỗi lầm của Giô-suê là không cầu hỏi Chúa trước khi quyết định ký hòa ước với dân Ga-ba-ôn.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời sẵn lòng tha thứ và giúp đỡ Giô-suê khi ông nhờ cậy Chúa.

– Hành động: Trước khi quyết định một việc gì dù nhỏ, em cũng phải cầu nguyện với Chúa.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

1. Để các em tự thảo luận về những câu hỏi trong tập học viên và tìm ra cách giải quyết.

2. Phát giấy và bút cho các em, bảo các em viết vào giấy những khó khăn của em (những khó khăn đã qua, đang hoặc sẽ xảy đến) và viết cách giải quyết.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

1. Vào đề.

Có ai thích khó khăn không? Nhưng trong cuộc sống, ai cũng phải gặp những khó khăn. Người lớn có những khó khăn khác các em như phải lo cơm, áo, gạo, tiền, gia đình…, còn ở lứa tuổi các em, thì cũng có những khó khăn của riêng các em, như bài tập khó, bạn bè không tốt, sức khoẻ kém… Khi gặp khó khăn, các em có muốn đến với một người nào đó để tâm sự không? Nếu tìm được một người bạn tốt, sẵn lòng góp ý và giúp đỡ các em vượt qua khó khăn, thì rất qúy. Nhưng con người không đủ khả năng để giải quyết mọi việc, ngoại trừ Chúa Giêxu. Khi cần quyết định một việc gì, hoặc gặp khó khăn, các em có thể đến với Ngài.

Sau chiến thắng thành A-hi, có một việc xảy ra với dân Y-sơ-ra-ên. Vì việc nầy mà Giô-suê phạm lỗi với Đức Chúa Trời. Chúng ta cùng xem việc gì xảy ra nhé!

2. Bài học.

a. Giô-suê trúng kế dân Ga-ba-ôn.

(1) . kế của dân Ga-ba-ôn.

Sau hai chiến thắng vang dội tại Giê-ri-cô và A-hi, các dân chung quanh đều khiếp sợ dân Y-sơ-ra-ên. Có phải dân Y-sơ-ra-ên chiến thắng là nhờ họ có vũ khí tối tân và Giô-suê lãnh đạo giỏi không? (Cho các em trả lời).

Trước tình hình đó, các vua của những nước chung quanh liền liên kết lại với nhau để đối phó với dân Y-sơ-ra-ên. Nhưng vua của Ga-ba-ôn thì không liên kết với họ. Dân Ga-ba-ôn sinh sống gần dân Y-sơ-ra-ên. Họ đã từng nghe những việc quyền năng của Đức Chúa Trời, nên vua Ga-ba-ôn vô cùng khiếp sợ. Vua biết rằng không thể nào chống cự với một Đấng đã làm cho nước sông Giô-đanh ngừng chảy, và đáy sông phút chốc khô cạn, tường thành Giê-ri-cô sập xuống… Dân Y-sơ-ra-ên nhất định sẽ tràn sang đây, và đất nước của vua cũng sẽ cùng số phận với Giê-ri-cô và A-hi mà thôi. Vì thế, vua Ga-ba-ôn không chuẩn bị chiến đấu mà chuẩn bị một mưu kế.

Dân Ga-ba-ôn quyết định dùng mưu kế để cầu hòa với dân Y-sơ-ra-ên. Họ chuẩn bị rất cẩn thận và hết sức bí mật để dân Y-sơ-ra-ên không phát hiện ra mưu kế của họ.

Một ngày kia, có một đoàn người tiến đến gần trại của dân Y-sơ-ra-ên tại Ghinh-ganh. Cả đoàn người đều mệt mỏi, nhìn qua là biết họ vừa trải qua một chặng đường rất dài. Giày của họ bị mòn đế, quần áo thì đầy bụi bặm, dơ bẩn, và rách rưới, các bình da đựng rượu thì bị thủng phải vá víu lại, còn lương thực là những mẩu bánh vụn, khô đét. Họ nói cùng Giô-suê và dân Y-sơ-ra-ên rằng: “Chúng tôi đến từ một xứ xa xôi để xin kết hòa ước cùng các ông”.

Giô-suê và dân sự hỏi họ: “Các ông là người ở đây chứ gì? Làm sao kết hòa ước được?” Họ không trả lời câu hỏi của Giô-suê mà nói tránh: “Chúng tôi là tôi tớ của ông”. Nhưng Giô-suê vẫn cứ hỏi lại: “Các ông là ai? Từ đâu đến?”

Họ trả lời: “Chúng tôi đến từ một nơi rất xa, vì nghe danh và những việc Đức Giê-hô-va đã làm, nên các trưởng lão và dân sự sai chúng tôi đến gặp các ông để xin được làm tôi tớ. Vậy, xin các ông lập giao ước cùng chúng tôi”.

Dân Ga-ba-ôn rất cẩn thận trong lời nói để không bị phát hiện. Họ dùng mọi cách để Giô-suê và dân Y-sơ-ra-ên tin vào lời họ nói: “Các ông xem, bánh của chúng tôi đem theo lúc mới ra đi còn nóng hổi, mà bây giờ đã khô và bể vụn. Còn những bình đựng rượu nầy lúc mới ra đi còn mới tinh, mà bây giờ đã cũ và rách, quần áo, giày dép chúng tôi cũng đã cũ mòn, vì đi đường xa”.

(2) Sai lầm của Giô-suê.

Mưu kế đã thành công, Giô-suê tin lời dân Ga-ba-ôn và đồng ý kết hòa ước với họ. (Mời một em đọc Giô-suê 9:14). Sai lầm của Giô-suê là do đâu? (Giô-suê không cầu hỏi Đức Chúa Trời trước khi quyết định kết hòa ước với dân Ga-ba-ôn). Khi kết ước, Giô-suê chỉ danh Đức Chúa Trời mà thề sẽ không đánh chiếm xứ họ, nhưng lại không biết rằng, những người lạ đó chính là dân Ga-ba-ôn, ở trong xứ Ca-na-an, nơi mà Đức Chúa Trời dặn dân Y-sơ-ra-ên phải tiêu diệt hết.

Ba ngày sau khi lập giao ước, mưu kế của dân Ga-ba-ôn bị bại lộ. Dân Y-sơ-ra-ên lúc nầy mới biết những kẻ lạ mặt kia không phải đến từ xứ xa xôi, mà ở gần bên họ. Họ còn phát hiện ngoài Ga-ba-ôn, còn có ba thành khác cùng liên kết lại để thực hiện mưu đồ lừa gạt dân Y-sơ-ra-ên.

Dù đã phát hiện sự thật, nhưng Giô-suê và dân Y-sơ-ra-ên vẫn phải tuân giữ hòa ước, vì đã chỉ Đức Chúa Trời mà thề với họ. Nhưng dân Y-sơ-ra-ên trừng phạt dân Ga-ba-ôn bằng cách bắt họ suốt đời làm tôi tớ, đốn củi, xách nước…

b. Đức Chúa Trời tha thứ lỗi lầm của Giô-suê.

Khi vua Giê-ru-sa-lem nghe tin dân Y-sơ-ra-ên kết hòa ước với dân Ga-ba-ôn, thì vô cùng lo lắng, vì Ga-ba-ôn là một thành lớn, liên kết với dân Y-sơ-ra-ên sẽ là mối đe dọa cho Giê-ru-sa-lem.

Vì thế, vua Giê-ru-sa-lem liên kết với bốn nước khác vây đánh Ga-ba-ôn, dưới sự lãnh đạo vua Giê-ru-sa-lem.

Ga-ba-ôn hay tin năm nước đó vây đánh mình, thì vội cầu cứu Giô-suê. Giờ đây, Giô-suê không chỉ lo lắng cho dân Y-sơ-ra-ên, mà còn phải có trách nhiệm với dân Ga-ba-ôn nữa. Đó là gánh nặng ông phải mang do lỗi lầm của mình. Dầu vậy, khi Giô-suê chạy đến nương dựa nơi Chúa, Đức Chúa Trời đã tha thứ và giúp đỡ ông. Ngài bảo Giô-suê: “Chớ run sợ vì Ta đã phó chúng nó vào tay con”.

Được sự tha thứ và giúp đỡ của Đức Chúa Trời, Giô-suê dẫn quân rời khỏi Ghinh-ganh và đi suốt đêm. Khi đến nơi, quân Y-sơ-ra-ên bất ngờ tấn công quân địch. Liên minh năm nước bị đại bại bỏ chạy, quân Y-sơ-ra-ên rượt theo tiêu diệt. Đức Chúa Trời khiến một trận mưa đá rất lớn từ trời rơi xuống đè quân địch chết vô số. Để có đủ thời gian tiêu diệt hết quân địch, Giô-suê cầu xin Đức Chúa Trời một việc mà nghe qua tưởng như không thể có được: Mặt trời và mặt trăng ngừng lại.

Mặt trời và mặt trăng phải ngừng lại ư? Đây là điều không thể có được. Vậy mà Đấng Toàn năng nghe lời cầu nguyện của Giô-suê và khiến cho mặt trời, mặt trăng thực sự ngừng lại. Ngày hôm đó kéo ra rất dài cho đến khi quân địch bị giết sạch. Mặt trời, mặt trăng ngừng lại đã chứng tỏ sự tha thứ của Đức Chúa Trời đối với Giô-suê. Theo các em, dân Ga-ba-ôn suy nghĩ như thế nào về Đức Chúa Trời?

  1. Ứng dụng.

Các em thân mến! Bài học hôm nay dạy các em điều gì? Điều quan trọng nhất mà các em cần ghi nhớ là mỗi ngày phải để trí mình nương dựa nơi Chúa, không được tự ý làm việc gì dù nhỏ hay lớn mà không cầu hỏi Chúa, kẻo lại phạm sai lầm như Giô-suê. Khi gặp khó khăn, hay đứng trước một việc cần phải quyết định, nếu các em xin ý của Chúa hoặc cầu xin Ngài giúp đỡ, chắc chắn Chúa sẽ vui lòng giúp đỡ các em. Trong trường hợp lỡ phạm sai lầm, các em cứ tin vào sự nhân từ tha thứ của Chúa. Trong tuần lễ nầy, các em học tập cách nương dựa vào Chúa nhé!

BÀI 8. LỖI LẦM CỦA GIÔ-SUÊ (HV)

I. KINH THÁNH: Giô-suê 9; 10:1-15.

II. CÂU GỐC: “Người nào để trí mình nương dựa nơi Ngài, thì Ngài sẽ gìn giữ người trong sự bình yên trọn vẹn, vì người nhờ cậy Ngài” (Êsai 26:3).

III. BÀI TẬP.

1. Nương dựa là gì?

Ai cũng có lúc gặp khó khăn, khi đó tốt nhất là có người để nương dựa. Vậy ý nghĩa của “nương dựa” là gì?

Em xem những câu sau đây, rồi đánh dấu X vào câu nào nói lên ý nghĩa của sự “nương dựa”.

Nương dựa là:

­­__ a. Tin tưởng vào lời nói của người đó.

__ b.           Nghi ngờ lời nói của người đó.

__ c.           Ỷ lại vào người đó.

__ d.           Tin rằng người đó sẽ giúp em thành công.

__ e.           Khiếp sợ người đó.

__ g.           Biết người đó sẽ trung thành với bạn.

__ h.          Lưu ý người đó, vì sợ người đó lừa dối.

__ i.            Biết người đó là bạn của mình.

__ k. Tuy rằng em yếu đuối, nhưng người đó vẫn thương yêu, giúp đỡ em.

2. Khó khăn, khó khăn, khó khăn!

Sau đây là một vài khó khăn thường gặp ở lứa tuổi của em. Nếu như em nương dựa vào Chúa, thì em sẽ có cách giải quyết khác hẳn. Em ghi cách giải quyết vào ô trống bên cạnh. Giáo viên phụ trách lớp sẽ giúp em khi cần thiết.

a. Chỉ còn một tuần lễ là em phải thi học kỳ, nhưng hiện tại em vẫn chưa chuẩn bị bài vở xong.

…………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………….

………………………………………………………………………………………….

b. Trong trường, có người nói là em lấy cắp thước kẻ của bạn, mà thật sự em không làm thế, cây thước mà em có là của mẹ mua cho. Nhưng bạn kia cứ khẳng định như vậy.

…………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………….

………………………………………………………………………………………….

c. Em phải phụ giúp ba mẹ một buổi, còn một buổi đi học. Về nhà, em thích xem tivi nên không còn thời gian lo cho việc học.

…………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………….

………………………………………………………………………………………….

d. Trong khi thầy giáo đang giảng bài, em cảm thấy đói bụng và muốn ăn vụng.

…………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………….

………………………………………………………………………………………….  

3. Lời cầu nguyện của em.

Viết vài lời cầu nguyện ngắn. Cho dù em gặp khó khăn nhiều hay ít, cũng phải nói ra với Chúa. Cầu xin Chúa cho em luôn nương dựa nơi Ngài. Em có thể nương dựa nơi Ngài bất cứ lúc nào.

Chúa Giê-xu yêu dấu!

………………………………………………………………………………………….

………………………………………………………………………………………….

………………………………………………………………………………………….

………………………………………………………………………………………….

………………………………………………………………………………………….

 

BÀI 7. SỰ CÁM DỖ (GV-HV)

BÀI 7. SỰ CÁM DỖ (GV-HV)

in QUÍ III. 2016, THIẾU NHI on 17 Tháng Bảy, 2018

BÀI 7. SỰ CÁM DỖ (GV)

I. KINH THÁNH: Giô-suê đoạn 7.

II. CÂU GỐC: “Như vậy, miễn là đủ ăn đủ mặc thì phải thỏa lòng; còn như kẻ muốn nên giàu có, ắt sa vào sự cám dỗ” (1Ti-mô-thê 6:8-9a).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: A-can đã sa vào sự cám dỗ vật chất, phạm tội ăn cắp.

– Cảm nhận: Trộm cắp không phải là dũng cảm.

– Hành động: Ghi ra những tình huống nào dễ nảy sinh ý trộm cắp. Nhờ cậy Chúa để chế ngự những cám dỗ đó.

IV. BÀI HỌC KINH THÁNH

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

1. Hướng dẫn các em đưa ra ý kiến: Sự cám dỗ nào các em dễ bị vướng nhất?

2. Nhằm giúp các em có ấn tượng hơn câu chuyện Kinh Thánh nầy, hướng dẫn các em đóng kịch về A-can.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH

1. Vào đề

Hai bạn gái vào cửa hàng kẹp tóc. Cô bán hàng lúc đó đang bận rộn với việc thối tiền cho khách nên không để ý đến vài chiếc kẹp tóc nhỏ nhắn, xinh xắn trên mặt quầy hàng. Hai bạn gái đều trông thấy và rất thích mấy chiếc kẹp tóc, nhưng lại không đủ tiền để mua. Một bạn nói: “Bạn dám lấy chiếc kẹp nơ màu hồng đó không? Cô bán hàng không để ý đâu!”

Nếu bạn kia thực hiện đề nghị đó, bạn ấy có phải là người dũng cảm không? Có nhiều người cho rằng khi trộm cắp giữa ban ngày mà không bị phát hiện, thì kẻ trộm đó rất bản lĩnh và can đảm! Các em có đồng ý với ý kiến đó không? Tại sao?

Sự tham muốn nếu không được ngăn chặn kịp thời sẽ dẫn chúng ta đến những hành động sai trái. Bài học Kinh Thánh hôm nay sẽ cho các em thấy rõ điều đó.

2. Bài học.

a. Tiến trình của sự cám dỗ.

(1) Thấy.

Các em biết không, thông thường khi chiếm được một thành nào đó, những kẻ chiến thắng sẽ được quyền lấy tất cả những gì quí giá, gọi là chiến lợi phẩm, còn những kẻ chiến bại sẽ bị bắt làm nô lệ. Nhưng khi dân Y-sơ-ra-ên chiếm thành Giê-ri-cô, Đức Chúa Trời đã phán dặn rõ ràng rằng: Vàng, bạc, và những đồ vật bằng đồng, sắt đều phải nhập vào kho trong đền Đức Chúa Trời, còn những vật khác phải thiêu hủy và dân Y-sơ-ra-ên không được đụng đến những vật đó.

Khi tường thành Giê-ri-cô sụp đổ, dân Y-sơ-ra-ên tràn vào. Họ tịch thu tất cả vàng, bạc, những đồ vật bằng đồng, sắt, y như lời Ngài phán dặn. Ngoài những vật đó ra, còn có rất nhiều vật dụng đẹp đẽ khác mà không ai dám đụng đến vì Đức Chúa Trời không cho phép. Nhưng có một người tên là A-can, trong lúc thi hành nhiệm vụ đã nhìn thấy một cái áo choàng lộng lẫy, chỉ có những người giàu mới khoác loại áo đó. Chưa bao giờ ông nhìn thấy cái áo choàng nào đẹp như thế, và chao ôi! Vàng, bạc… nhiều không xiết kể.

(2) Tham muốn.

A-can cầm cái áo choàng lộng lẫy đó lên xem xét, vàng bạc nữa. Những thứ nầy thật đẹp và qúy giá làm sao! Sự tham muốn bắt đầu nảy sinh. “Ước gì cái áo choàng nầy là của mình!” “Nếu mình có được số vàng bạc nầy, mình sẽ trở nên giàu có”. A-can muốn lấy những thứ nầy. Ông không nghe mệnh lệnh của Chúa sao? (Cho các em trả lời). Lòng tham muốn cám dỗ ông mạnh mẽ, đến nỗi ông bỏ qua mệnh lệnh của Chúa.

(3) Trộm cắp.

A-can cẩn thận quan sát chung quanh, thấy không ai để ý, liền nhanh chóng lấy ngay cái áo choàng và vàng bạc giấu vào bên trong áo.

Hoàn cảnh lúc đó thật là thuận lợi cho A-can, vì không ai nhìn thấy việc làm của ông. A-can quay trở về trại của mình, bí mật đào một cái hố bên trong trại và chôn giấu những thứ đó.

Lòng tham khiến A-can trở nên mù quáng. Tuy cái áo choàng đó rất đẹp, nhưng chất liệu vải và kiểu dáng đều không thích hợp với người Y-sơ-ra-ên. Nếu như một ngày nào đó, A-can khoác cái áo nầy, có thể những người khác sẽ suy đoán ra xuất xứ của nó. Dù không ai nhìn thấy, nhưng Đức Chúa Trời thấy. Cây kim trong bọc lâu ngày cũng phải lòi ra. Cuối cùng, mọi việc cũng bị phanh phui và tai họa xảy đến không chỉ riêng mình A-can gánh chịu.

b. Tai họa xảy ra sau khi bị cám dỗ.

(1) Dân Y-sơ-ra-ên thua trận.

Sau chiến thắng Giê-ri-cô, thành thứ hai mà dân Y-sơ-ra-ên cần phải tấn công là thành A-hi. So với Giê-ri-cô, thành A-hi nhỏ bé hơn nhiều. Dầu vậy, trước khi tấn công, Giô-suê cũng phái mấy thám tử đi do thám trước.

Các thám tử sau khi do thám thành A-hi trở về báo cáo với Giô-suê: “Đó là một thành phố nhỏ, ít dân, không cần phải huy động toàn bộ quân đi đánh, chỉ cần vài ba ngàn quân là đủ tiêu diệt thành đó rồi”.

Thế là Giô-suê phái khoảng ba ngàn người đi đánh thành A-hi. Ba ngàn chiến sĩ hăng hái xung trận, còn những người ở nhà chuẩn bị chào đón chiến thắng, vì tin chắc các chiến sĩ Y-sơ-ra-ên sẽ chiến thắng. Nhưng thật bất ngờ, quân Y-sơ-ra-ên bị thất bại thảm hại trước quân A-hi. Vừa mới vào trận, quân Y-sơ-ra-ên đã phải bỏ chạy, vì không ngờ dân thành A-hi đánh trả quyết liệt, và giết khoảng chừng ba mươi sáu người.

Khi nghe tin nầy, lòng dân sự tan ra như nước.  Giô-suê và các trưởng lão xé áo mình, khóc lóc, qùi mọp trước Hòm Giao ước cầu nguyện với Đức Chúa Trời. Giô-suê không hiểu nguyên nhân tại sao có sự thua trận nầy? Chẳng phải Đức Chúa Trời đã từng hứa với Giô-suê: “Trọn đời ngươi sống, thì sẽ chẳng ai được chống cự trước mặt ngươi. Ta sẽ ở cùng ngươi như Ta đã ở cùng Môi-se; Ta sẽ không lìa ngươi, không bỏ ngươi đâu”.

Đức Chúa Trời đã thất hứa rồi chăng? Giô-suê và các vị trưởng lão cứ cầu nguyện cho đến chiều tối. Cuối cùng, Đức Chúa Trời phán cùng Giô-suê rằng: “Dân Y-sơ-ra-ên đã không tuân lệnh Ta, lấy trộm vật đáng bị hủy diệt, đem giấu trong trại mình. Vì lý do đó, Y-sơ-ra-ên bị bại trận”.

Đức Chúa Trời cảnh cáo: “Nếu các vật ấy không bị đem ra thiêu hủy, Ta sẽ không ở cùng Y-sơ-ra-ên nữa”. Sau đó, Đức Chúa Trời chỉ cho Giô-suê cách phát hiện ra người phạm tội.

(2) A-can bị tử hình.

Theo sự chỉ dẫn của Đức Chúa Trời, sáng sớm hôm đó, Giô-suê cho mười hai chi phái lần lượt ra trước mặt Chúa. Chi phái Giu-đa bị chỉ ra. Giô-suê kêu chi phái Giu-đa đến gần thì họ hàng Xê-rách bị chỉ ra. Trong họ hàng Xê-rách thì gia đình Xáp-đi bị chỉ ra. Giô-suê biểu từng người trong gia đình Xáp-đi lại gần, thì A-can bị chỉ ra. Việc làm của A-can lúc trước không ai biết, bây giờ cả dân Y-sơ-ra-ên đều biết.

Giô-suê nói với A-can: “Hãy thú tội trước mặt Đức Chúa Trời. Đừng giấu điều gì cả, cứ khai ra mọi điều con đã làm”.

A-can khai: “Con đã sinh lòng tham khi thấy chiếc áo choàng lộng lẫy, hai trăm lạng bạc và một thỏi vàng nặng 50 lạng. Con lấy các vật ấy đem giấu dưới đất trong trại, để bạc dưới cùng”.

Giô-suê liền sai người đến trại của A-can. Họ tìm thấy đúng như lời A-can nói và đem hết về để trước mặt Giô-suê và dân sự. Mọi người bắt A-can cùng các vật thuộc về ông như bò, chiên, lừa… và những vật ông đã lấy cắp, đến một thung lũng. Mọi người ném đá A-can và thiêu hủy hết tất cả.

Khi tội lỗi bị trừ đi, Đức Chúa Trời nguôi cơn giận và tiếp tục ở cùng dân Y-sơ-ra-ên. Đức Chúa Trời hướng dẫn Giô-suê cách tấn công thành A-hi và dân Y-sơ-ra-ên đã toàn thắng.

3. Ứng dụng.

Các em thân mến! A-can đã không đắc thắng sự cám dỗ, nên vượt qua mạng lệnh của Đức Chúa Trời. Hành động đó khiến A-can trả giá rất đắt, không phải chỉ mình ông chịu mà còn liên lụy đến nhiều người. Nếu xem tin tức trên báo, tivi… các em sẽ thấy người trộm cắp cũng phải vào nhà tù.

Hậu quả mà A-can nhận lấy cho hành động sai trái của mình là bài học nghiêm khắc cho mỗi chúng ta ngày nay. Trong cuộc sống mỗi ngày, các em cũng gặp nhiều sự cám dỗ phải không? (Cho các em nêu ra từng trường hợp cụ thể như: Muốn lấy cắp của bạn cây viết, cuốn truyện, đồ chơi, tiền, đồ ăn…). Có những việc sai trái nho nhỏ, các em cho là không quan trọng, nhưng khi các em làm điều đó cũng phạm tội và Đức Chúa Trời nhìn thấy. Vậy, các em phải làm gì khi bị cám dỗ? Khi A-can nhìn thấy và ham thích cái áo choàng đẹp đẽ, vàng, bạc, nếu như ngay lúc đó ông cầu nguyện xin Chúa giúp ông vượt qua sự cám dỗ để vâng lời Ngài, thì Chúa có giúp đỡ ông không? Ma qủi cám dỗ các em phạm tội với Chúa, nên các em phải ở trong Chúa luôn luôn, cầu xin Chúa giúp đỡ mình. Nếu các em không thỏa lòng với những điều mình có, thì dễ sa vào sự cám dỗ (Mời một em đọc câu gốc).

Ăn cắp không phải là hành động dũng cảm, mà là tội lỗi. Sự dũng cảm đúng nghĩa là vâng lời Chúa. Nếu các em vâng lời Ngài, Ngài sẽ giúp các em vượt qua sự cám dỗ. Khi các em đắc thắng sự cám dỗ, đó là bằng chứng rõ ràng nhất để khẳng định các em là người dũng cảm.

BÀI 7.  SỰ CÁM DỖ (HV)

 I. KINH THÁNH: Giô-suê 7; 8:1-28.

II. CÂU GỐC: “Như vậy, miễn là đủ ăn đủ mặc thì phải thỏa lòng; còn như kẻ muốn nên giàu có, ắt sa vào sự cám dỗ” (1Ti-mô-thê 6:8-9a).

III. BÀI TẬP.

1. Em đánh dấu X trước những hậu quả mà tội trộm cắp gây ra.

__ a. Có được những gì mong muốn.

__ b. Dẫn đến tội dối trá.

__ c. Nghĩ đến lúc bị bắt giữ mà lo lắng.

__ d. Cảm thấy dũng cảm và vui vẻ.

__ e. Mọi người sẽ nể phục lòng can đảm của anh ta.

__ g. Không được phước của Chúa.

2. Sự cám dỗ đối với mỗi người mỗi khác nhau, có em bị cám dỗ bởi điều nầy, nhưng cũng có em lại bị cám dỗ bởi điều khác. Em đánh dấu X vào những trường hợp em đã hoặc đang bị cám dỗ.

  1. Muốn có cái áo đẹp của bạn.
  2. Ăn cắp tiền của mẹ, bạn… để mua đồ theo ý thích.
  3. Trốn học để đi chơi.
  4. Nói dối với ba mẹ.
  5. Tham của rơi.
  6. Quay cóp bài lúc kiểm tra.
  7. Mê xem tivi đến nỗi không học bài.
  8. Ăn vụng.
  9. Trường hợp khác _______________________

* Theo em, trường hợp nào khiến em dễ bị cám dỗ nhất.

……………………………………………………………………………………..

……………………………………………………………………………………..

……………………………………………………………………………………..

……………………………………………………………………………………..

3. Em “Vượt qua cám dỗ”.

Hãy đi theo mũi tên và lấy bút chì màu khoanh lại những quyết định đúng để tìm ra hướng giải quyết đẹp lòng Chúa.

Xin chào, tôi là Cường. Sau khi học xong câu chuyện của A-can, tôi càng hiểu rõ hơn về tai hại của sự trộm cắp. Buổi sáng thứ hai đầu tuần, tôi gặp phải nhiều cám dỗ.

BÀI 6.  CUỘC DIỄN HÀNH KỲ LẠ NHẤT THẾ GIỚI (GV-HV)

BÀI 6.  CUỘC DIỄN HÀNH KỲ LẠ NHẤT THẾ GIỚI (GV-HV)

in QUÍ III. 2016, THIẾU NHI on 17 Tháng Bảy, 2018

BÀI 6.  CUỘC DIỄN HÀNH KỲ LẠ NHẤT THẾ GIỚI (GV)

 I. KINH THÁNH: Giô-suê 6:1-25.

II. CÂU GỐC: “Bởi đức tin, các tường thành Giê-ri-cô đổ xuống, sau khi người ta đi vòng quanh bảy ngày” (Hê-bơ-rơ 11:30).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Cuộc diễn hành kỳ lạ nhất thế giới đã đưa dân Y-sơ-ra-ên vào chiếm thành Giê-ri-cô một cách dễ dàng.

– Cảm nhận: Đức tin và sự vâng lời là bí quyết để chiến thắng.

– Hành động: Em luôn sống bằng đức tin.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ

1. Thực hiện vài âm thanh, tiếng động để phụ họa, dùng máy ghi âm để ghi lại. Nếu không ghi âm được, có thể chia các em thành từng tốp nhỏ, mỗi tốp phụ trách một âm thanh hay tiếng động. Khi đến âm thanh của tốp nào, thì tốp đó sẽ phụ họa.

2. Tiếng chân của những chiến sĩ hành quân: Các em giậm chân tại chỗ, hoặc dùng hai tay vỗ lên mặt bàn.

3. Tiếng tù và: Chu miệng và u…u…u…u…u…u…4. Tiếng reo hò: “Đức Giê-hô-va đã giao thành Giê-ri-cô cho chúng ta rồi!”

6. Tường thành đổ sập xuống: Đổ vài cuốn sách to xuống bàn, hoặc đập tay xuống bàn.7. Bản đồ.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH

1. Vào đề.

Các em ơi! Các em có muốn mình trở thành người dũng cảm không? Theo các em, người như thế nào gọi là người dũng cảm? (Cho các em trả lời).

Ví dụ: Ở trường học của các em, có một bạn rất to con nói rằng sẽ vật ngã tất cả những bạn khác. Vậy, bạn ấy có phải là người dũng cảm không?

Có những người chuyên hiếp đáp những người yếu đuối và nhỏ bé hơn họ, làm như vậy, họ tưởng rằng mình là người dũng cảm, nhưng ngược lại, họ là những người hèn nhát nhất. Những người yếu đuối thì đương nhiên không dám chống cự, và trong lòng luôn sợ hãi.

Vậy mà dân tộc Y-sơ-ra-ên nhỏ bé, sống trong các lều trại ở sa mạc, lại dám tấn công dân thành Giê-ri-cô, một dân to lớn và có tường thành vững chắc. Chúng ta cùng tìm hiểu xem bằng cách nào họ có được sự dũng cảm đó?

2. Bài học.

a. Đấng lãnh đạo cuộc diễn hành kỳ lạ.

Thành Giê-ri-cô là chìa khóa của xứ Ca-na-an, vì nếu thành Giê-ri-cô bị chiếm, thì cả xứ Ca-na-an có nguy cơ bị chiếm. Vào thời đại của Giô-suê, thành đã có sự phòng vệ rất nghiêm ngặt, bốn bên đều có tường cao, dày bao bọc, trên đó là những vọng gác luôn có những chiến sĩ trang bị đầy đủ vũ khí canh gác suốt hai mươi bốn giờ trong ngày. Khi có quân địch xuất hiện, lập tức những chiến sĩ canh gác sẽ nổi còi báo động. Trong thành có dự bị lương thực, phòng khi bị tấn công, không thể ra ngoài mua được. Khi hay tin dân Y-sơ-ra-ên đến gần, Giê-ri-cô đã đóng chặt cửa thành phòng thủ, và cấm ngặt không một ai được phép ra vào.

Trong khi đó dân Y-sơ-ra-ên là những người sống rày đây mai đó, không có vũ khí, không có tường cao bao bọc. Giô-suê không biết làm cách nào để chiếm thành. Bỗng nhiên, ông nhìn thấy một người tay cầm gươm, xuất hiện trước mặt. Giô-suê lập tức hỏi: “Ông là bạn hay thù?” Người đó trả lời: “Ta là tướng đạo binh của Đức Giê-hô-va”. Giô-suê biết ngay Đức Chúa Trời sẽ là vị tướng lãnh đạo cuộc chiến nầy, nên ông sấp mặt xuống đất thờ lạy và thưa: “Chúa muốn dạy con điều gì?” Trước khi Đức Chúa Trời phán dạy, Ngài bảo Giô-suê hãy cởi giày ra, vì nơi ông đang đứng là đất thánh. Giô-suê lập tức làm theo.

Đức Chúa Trời, tướng chỉ huy của quân Y-sơ-ra-ên, đã dự tính mọi việc. Giô-suê không cần phải suy nghĩ cách tấn công hay lo lắng sự thắng bại, những việc ông cần làm là tuân theo mệnh lệnh của Đức Chúa Trời.

Đức Chúa Trời căn dặn rõ ràng những việc cần làm. Đó là một chiến lược kỳ lạ mà con người không thể thực hiện được, nhưng Giô-suê hiểu rõ một điều, ông và dân sự phải thực hiện cho đúng mệnh lệnh của Đức Chúa Trời.

b. Thực hiện cuộc diễn hành kỳ lạ.

Sau khi nhận mệnh lệnh của Chúa, Giô-suê tập hợp các thầy tế lễ và toàn dân Y-sơ-ra-ên lại và phân công cho họ. Điều đặc biệt trong cuộc chiến nầy là toàn dân đều là chiến sĩ, các em thiếu nhi cũng là chiến sĩ. Các chiến sĩ nầy không cần phải chiến đấu bằng gươm giáo, gậy gộc. Họ chỉ cần xếp hàng theo thứ tự và đi diễn hành vòng quanh thành Giê-ri-cô sáu ngày, mỗi ngày một vòng. Đến ngày thứ bảy, phải đi bảy vòng, thì sẽ chiếm được thành. Thật đơn giản phải không các em, nhưng đòi hỏi đức tin và sự vâng lời tuyệt đối của dân sự.

Các thầy tế lễ và dân sự chuẩn bị sẵn sàng. Họ rời khỏi trại theo thứ tự như sau: Dẫn đầu cuộc diễn hành là những người cầm binh khí, kế đến là bảy thầy tế lễ thổi kèn, tiếp theo là bốn thầy tế lễ khiêng Hòm Giao ước, dân sự đi cuối cùng. Thành Giê-ri-cô cách Ghinh-ganh không xa nên một lát sau, đoàn diễn hành đã tới. Họ nhìn thấy thành trì vĩ đại, kiên cố, và những vọng gác của binh lính bảo vệ thành.

Đoàn diễn hành cứ đi vòng quanh thành Giê-ri-cô một vòng như lời Đức Chúa Trời đã dặn. Khi đi khoảng nửa thành, có hai chiến sĩ nhìn thấy một khung cửa sổ quen thuộc, ở đó cột sợi dây màu đỏ. Các em có biết cửa sổ nhà ai không? Đúng rồi, đó chính là cửa sổ nhà Ra-háp. Đi vòng quanh đủ một vòng, những binh lính trở về doanh trại.

Đây là cuộc diễn hành kỳ lạ nhất thế giới. Toàn quân đi trong im lặng, không ai được nói chuyện, chỉ nghe tiếng chân đi rầm rập và tiếng kèn. Dân thành Giê-ri-cô vô cùng bối rối, sợ hãi. Họ không biết kế hoạch của dân Y-sơ-ra-ên như thế nào, nên không biết xoay sở hay đối phó làm sao. Dầu vậy, quân lính trên các vọng gác và quân bảo vệ trong thành luôn ở trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Họ càng thêm hoang mang khi thấy dân Y-sơ-ra-ên đi một vòng rồi rút lui. Thông thường, quân địch luôn bao vây và không cho ai rời khỏi thành, cắt đứt nguồn nước vì giếng và sông đều ở bên ngoài thành. Ai rời thành cũng chết mà ở lại trong thành cũng chết vì khát. Nhưng trận chiến nầy lại hoàn toàn khác…

Sáu ngày liền, mỗi sáng sớm dân Y-sơ-ra-ên đều đi diễn hành giống như vậy. Đi một vòng rồi trở về. Dân Giê-ri-cô hết lo sợ, hoang mang, rồi lại chuyển sang ngạc nhiên. Họ thắc mắc không biết dân Y-sơ-ra-ên làm gì kỳ cục vậy? Có nhiều người còn cười chế nhạo nữa.

Đến ngày thứ bảy, kế hoạch diễn hành có khác đi. Họ phải dậy thật sớm và đi quanh thành, nhưng đi bảy vòng. Lần thứ bảy, những thầy tế lễ thổi một hồi kèn thật dài, thật lớn, Giô-suê nói cùng dân sự: “Hãy la lớn lên, vì Đức Giê-hô-va đã phó thành cho chúng ta”.

Dân sự vâng lời la lớn lên. Bỗng nhiên, họ thấy vách thành vĩ đại ngã sập xuống, và dân Y-sơ-ra-ên tràn vào thành khắp mọi hướng. Chỉ có nhà của Ra-háp ở trên vách thành là không bị sập, và đúng như lời hứa, hai thám tử đã đến giải cứu cả gia đình nàng ra khỏi thành. Dân thành Giê-ri-cô bị tiêu diệt và thành bị phóng hỏa. Dân Y-sơ-ra-ên hoàn toàn chiếm được thành không bởi sức mạnh, cũng không bởi sự khôn ngoan, nhưng bởi đức tin và sự vâng lời, Đức Chúa Trời đã ban cho họ sự chiến thắng.

3. Ứng dụng.

Các em thân mến! Giê-ri-cô là một thành lớn, quân đội của họ trang bị vũ khí tốt hơn nhiều so với dân Y-sơ-ra-ên. Vậy, bí quyết nào khiến cho dân Y-sơ-ra-ên chiến thắng? (Cho các em trả lời).

Đức Chúa Trời đã từng hứa với Giô-suê, nếu như họ cứ vâng theo lời Chúa, thì chiến thắng sẽ thuộc về họ. Rút kinh nghiệm từ bao việc xảy ra trước kia, Giô-suê đã học tập tin cậy Chúa.

Theo các em, khi đứng trước khó khăn của gia đình, của bản thân không thể giải quyết được, các em có bối rối, sợ hãi không? (Chờ câu trả lời). Đức Chúa Trời cũng ban cho các em một lời hứa. Nếu các em tin vào lời hứa của Ngài, thì Ngài sẽ giúp đỡ các em giống như đã giúp đỡ dân Y-sơ-ra-ên vậy: “Hãy vững lòng bền chí, chớ run sợ, chớ kinh khủng; vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi vẫn ở cùng ngươi trong mọi nơi ngươi đi” (Giô-suê 1:9).

Nếu các em tin vào lời hứa của Chúa, Chúa sẽ ban cho các em sức mạnh và lòng dũng cảm để vượt qua mọi khó khăn. Chúa vẫn luôn ở cùng các em trong mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh. Lúc các em chơi đùa, đi học, lao động, ốm, buồn, xa nhà, mất mát… Chúa vẫn ở cùng các em. Các em không nên hoang mang, sợ hãi, không nên nghi ngờ Ngài. Rồi các em sẽ thấy Đức Chúa Trời làm nhiều điều kỳ diệu khi các em tin cậy và vâng lời Ngài, giống như Ngài đã từng làm cho dân Y-sơ-ra-ên.

BÀI 6.  CUỘC DIỄN HÀNH KỲ LẠ NHẤT THẾ GIỚI (HV)

I. KINH THÁNH: Giô-suê 6:1-25.

II. CÂU GỐC: “Bởi đức tin, các tường thành Giê-ri-cô đổ xuống, sau khi người ta đi vòng quanh bảy ngày” (Hê-bơ-rơ 11:30).

III. BÀI TẬP.

1. Tường thành sụp đổ.

Điền vào chỗ trống dưới đây sẽ giúp em nhớ lâu hơn về câu chuyện kỳ diệu nầy. Hãy tham khảo các từ sau.

Thầy tế lễ, Ghinh-ganh, Giê-ri-cô, Đức Chúa Trời, vòng quanh, bảy ngày, Ra-háp, tường thành, tà thần, tiến chiếm, đức tin. 

  1. Dân Y-sơ-ra-ên ……………………… thành Giê-ri-cô.
  2. Họ đóng trại ở ………………………
  3. Dân ………………… rất sợ hãi dân Y-sơ-ra-ên.
  4. Dân Giê-ri-cô thờ lạy …………………………
  5. ………………………… là vị tướng lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên.
  6. ………………………… của Giê-ri-cô rất cao và vững chắc.
  7. Bốn ……………………… khiêng Hòm Giao ước.
  8. Dân Y-sơ-ra-ên đi diễn hành …………………………… thành Giê-ri-cô trong

…………………………………………………………………………………….

  1. Bởi ……………… của dân Y-sơ-ra-ên,

Đức Chúa Trời khiến

thành Giê-ri-cô sụp đổ.

10……………………… và người thân được cứu

2. Em tin cậy Chúa.

Giô-suê đã dũng cảm tin cậy Đức Chúa Trời. Em có tình nguyện tin cậy Chúa như Giô-suê đã từng tin không? Cho dù đến nơi đâu, Đức Chúa Trời vẫn ở cùng em.

Em suy nghĩ rồi điền vào bảng bên dưới.

Em đã, đang, hoặc sẽ tin Đức Chúa Trời

làm cho em những gì?………………………

………………………………………………………….

…………………………………………………………….

…………………………………………………………..

…………………………………………………………………….

……………………………………………………………………….

* Viết ra những việc Chúa đã giúp em trong những

ngày qua…………………………………………………………

…………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………….

…………………………………………………………………………

……………………………………………………………..

 

BÀI 5. HÃY TRÔNG ĐỢI CHÚA! (GV-HV)

BÀI 5. HÃY TRÔNG ĐỢI CHÚA! (GV-HV)

in QUÍ III. 2016, THIẾU NHI on 16 Tháng Bảy, 2018

BÀI 5. HÃY TRÔNG ĐỢI CHÚA! (GV)

 I. KINH THÁNH: Giô-suê 3-4.

II. CÂU GỐC: “Hãy trông đợi Đức Giê-hô-va; hãy vững lòng bền chí! Phải, hãy trông đợi Đức Giê-hô-va” (Thi Thiên 27:14).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Ở trong hoàn cảnh khó khăn dường như không vượt qua được, Giô-suê và cả dân sự vẫn trông đợi và vâng lời Chúa. Ngài đã thực hiện phép lạ để giúp đỡ họ.

– Cảm nhận: Trông đợi Chúa không bao giờ phải thất vọng.

– Hành động: Em ghi ra những hoàn cảnh phải trông cậy và vâng lời Chúa.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

1. Cùng chia sẻ với nhau về những việc Đức Chúa Trời đã giúp đỡ các em, và cả những việc Ngài chưa giúp. Sau đó, cầu nguyện cảm tạ Chúa về những việc Ngài đã giúp đỡ và tiếp tục trông đợi Chúa những việc Ngài chưa giúp đỡ.

2. Dựa theo Xuất Ê-díp-tô Ký 37:1-5, vẽ lên bảng hình của Hòm Giao ước.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH

1. Vào đề.

Trong lớp của chúng ta, có bạn rất dạn dĩ, can đảm, nhưng cũng có bạn hay sợ hãi, nhút nhát. Bài học trước, chúng ta học về Ra-háp. Cô là người như thế nào? (Cho các em trả lời).

Hôm nay, chúng ta nói về một khía cạnh khác của sự can đảm, đó là tuyệt đối tin tưởng Đức Chúa Trời luôn ở cùng chúng ta, dù đang có việc gì xảy ra. Ví dụ: Các em dọn đến nơi ở mới, vào một lớp học mới… Các em cảm thấy khó khăn, lo lắng cho những sự đổi mới nầy.

Trong những trường hợp như vậy, các em có nghĩ rằng Đức Chúa Trời sẽ giúp đỡ không? Có những việc Đức Chúa Trời giúp đỡ tức khắc, nhưng cũng có những việc các em phải trông đợi Chúa. Các em hiểu thế nào là trông đợi không? (Cho các em trả lời). Phải nhẫn nại chờ đợi sự trả lời của Chúa.

Ngày xưa, khi Giô-suê và dân sự đứng trước sự khó khăn, họ đã trông đợi Chúa như thế nào? Bài học nầy sẽ giúp các em rõ nhé!

2. Bài học.

a. Giô-suê và dân sự trông đợi Chúa.

Dân Y-sơ-ra-ên gặp phải một vấn đề khó giải quyết, đó là trước khi tiến vào Đất Hứa, họ phải vượt qua sông Giô-đanh. Thật là khó khăn, vì không có một cây cầu nào bắc qua sông Giô-đanh, cũng không có thuyền, và mọi việc càng tệ hại hơn khi nước sông lại chảy siết. Dân Y-sơ-ra-ên sẽ giải quyết việc nầy như thế nào?

Các em còn nhớ Giô-suê đã sai hai thám tử đến thành Giê-ri-cô để do thám không? Họ phát hiện được gì? (Dân Giê-ri-cô vô cùng hoảng sợ dân Y-sơ-ra-ên).

Dân Y-sơ-ra-ên vẫn còn đóng trại ở phía đông sông Giô-đanh thuộc xứ Mô-áp (xem bản đồ số 3). Khi hai thám tử trở về báo cáo tình hình, Giô-suê tin chắc chắn Đức Chúa Trời đã ban cho dân Y-sơ-ra-ên thành Giê-ri-cô. Dù tin như vậy, nhưng khó khăn vẫn ở trước mặt. Làm sao đưa được đoàn dân đông đúc nầy vượt qua sông? Giô-suê vẫn đang trông đợi mệnh lệnh của Đức Chúa Trời.

Kinh Thánh chép: Dân Y-sơ-ra-ên đóng trại bên bờ sông ba ngày thì nhận được chỉ thị của Đức Chúa Trời. Các quan trưởng đi khắp trại quân, truyền lệnh: “Khi các ngươi thấy những thầy tế lễ khiêng Hòm Giao ước của Đức Chúa Trời đi, thì phải bỏ chỗ đóng trại mình mà đi theo sau, Hòm Giao ước đó sẽ dẫn dắt các ngươi” (Cho các em xem hình Hòm Giao ước mà bạn đã vẽ, giải thích đơn giản về Hòm Giao ước).

Các quan trưởng lại dặn tiếp: “Chớ đến gần hòm đó, phải giữ khoảng cách là 800 mét”. Hòm giao ước là thánh khiết, nên cách khiêng hòm rất đặc biệt và không phải ai cũng được đến gần.

Giô-suê và dân sự không biết Đức Chúa Trời sẽ làm gì sau đó, nhưng họ vẫn cẩn thận làm theo lời dặn của Đức Chúa Trời và tiếp tục trông đợi Ngài.

Giô-suê nói với dân sự rằng: “Ngày mai, Đức Giê-hô-va sẽ làm những việc lạ lùng giữa các ngươi”. Hôm ấy là một ngày đặc biệt, nên dân sự phải giữ mình cho thánh sạch.

Cuối cùng, Đức Chúa Trời chỉ cho Giô-suê cách để dẫn dân sự vượt qua dòng sông Giô-đanh đang chảy cuồn cuộn. Đó là khi chân của các thầy tế lễ khiêng Hòm Giao ước đặt xuống nước sông Giô-đanh, thì nước sẽ rẽ ra thành một con đường để dân sự đi qua. Đây là cách hết sức mạo hiểm, đòi hỏi người thực hiện phải tuyệt đối tin tưởng Đức Chúa Trời. Toàn dân dưới sự lãnh đạo của Giô-suê, quyết tâm trông đợi và vâng lời Chúa.

b. Kết quả của lòng trông đợi Chúa.

Khi các thầy tế lễ khiêng Hòm giao ước tiến lên phía trước, thì dân Y-sơ-ra-ên nhổ trại đi theo sau. Họ rất cẩn thận giữ khoảng cách 800 mét với các thầy tế lễ đang khiêng Hòm Giao ước trên vai, dũng cảm bước về phía sông Giô-đanh.

Các em nghĩ họ có hồi hộp không? Hãy thử đặt mình vào hoàn cảnh của họ xem. Ví dụ như em là một trong số các thầy tế lễ, đang đối diện với dòng sông chảy cuồn cuộn, còn Giô-suê và dân chúng đang cách em 800 mét. Nước sông có ngưng chảy và rẽ ra thật không? Nếu như nước sông vẫn chảy siết và cuốn trôi em, có ai trong số người kia cứu em kịp hay không? (Cho các em nói lên cảm nghĩ của mình).

Nếu các em đã từng được nghe về việc vượt qua biển Đỏ, thì các em có thể so sánh việc qua sông Giô-đanh. Qua biển Đỏ, Môi-se dẫn đầu dân Y-sơ-ra-ên, còn qua sông Giô-đanh, nhà lãnh đạo Giô-suê lại ở phía sau. Đức Chúa Trời nổi gió lớn trên biển Đỏ, làm ai cũng biết rằng Ngài đang hành động, còn sông Giô-đanh không có gió, thậm chí rất tĩnh lặng.

Các thầy tế lễ rất cần sự dũng cảm. Họ tin cậy và vâng lời Đức Chúa Trời nên cứ bước tới trước. Giờ đây, các thầy tế lễ đã tiến đến thật gần bờ sông. Nước vẫn cuồn cuộn chảy siết và chưa thấy việc gì xảy ra. Nhưng khi các thầy tế lễ vừa đặt chân xuống nước, ngay lúc đó, nước sông từ nguồn đổ xuống bỗng ngưng lại, dồn thành một đống giống như bức tường vĩ đại cản nước lại, còn nước dưới sông tiếp tục chảy ra biển cho đến khi lòng sông cạn nước, đáy sông lập tức khô ráo và dân sự đi qua như đi trên đất khô.

Các thầy tế lễ dũng cảm khiêng Hòm Giao ước đi đến giữa lòng sông thì dừng lại, chờ cho dân sự đi qua hết bờ bên kia.

Sau khi người và súc vật đã qua sông bình an, Giô-suê liền sai mười hai người đi đến nơi các thầy tế lễ đang đứng giữa lòng sông, mỗi người vác một hòn đá mang lên bờ, chất thành một đống. Đống đá nầy sẽ là kỷ niệm đời đời, nhắc nhở các thế hệ muôn đời sau nhớ đến việc làm kỳ diệu của Đức Chúa Trời.

Những thầy tế lễ vẫn đứng ở giữa lòng sông cho đến khi làm xong hết những gì Đức Chúa Trời đã dặn. Sau cùng, Đức Chúa Trời bảo Giô-suê truyền cho các thầy tế lễ lên bờ. Khi họ vừa bước lên bờ, lập tức nước sông tràn xuống và chảy cuồn cuộn như cũ.

Đó là một ngày tuyệt vời. Dân sự tận mắt chứng kiến quyền năng của Đức Chúa Trời, nên càng kính sợ Ngài. Đêm đó, dân Y-sơ-ra-ên hạ trại ở Ghinh-ganh, một địa điểm phía đông thành Giê-ri-cô, và đây cũng là nơi Giô-suê sai chất mười hai hòn đá làm kỷ niệm. Họ rất phấn khởi, nhưng cũng rất mệt mỏi nên cần phải nghỉ ngơi. Dân Y-sơ-ra-ên hoàn toàn được bình an khi để lòng trông cậy nơi Chúa.

  1. Ứng dụng.

Các em thân mến! Khi qua sông Giô-đanh, ai là người can đảm nhất? Theo các em, thì tại sao họ lại can đảm như vậy? (Đợi nghe ý kiến của các em. Cho các em biết họ trông cậy Đức Chúa Trời). Chúa cũng ban cho chúng ta rất nhiều lời hứa. Ngài muốn chúng ta trông cậy Ngài giống như các thầy tế lễ cùng dân Y-sơ-ra-ên cứ bước tới phía trước thì sẽ thấy những việc lạ lùng mà Đức Chúa Trời làm. Nếu họ không trông cậy Chúa, chắc chắn sẽ không dám bước tới, và dĩ nhiên cũng sẽ không kinh nghiệm quyền năng của Chúa.

Khi Đức Chúa Trời chưa giải quyết những gì chúng ta cầu xin, có phải Ngài không còn yêu thương và giúp đỡ chúng ta nữa không? Không. Đừng nản lòng, cứ tiếp tục trông đợi Chúa. “Hãy vững lòng bền chí! Phải, hãy trông đợi Đức Giê-hô-va” (Thi Thiên 27:14).

(Cùng các em thảo luận: Trong hoàn cảnh nào cần phải trông đợi Chúa? Cảm nghĩ của các em như thế nào khi phải trông đợi Chúa một thời gian khá dài?). Cho các em mở trong tập học viên, phần “Trông đợi Chúa”, xem kỹ những ý đã liệt kê, rồi giúp các em hiểu ý nghĩa của từ “Trông đợi Chúa”. (Khi các em làm một việc sai trái, hoặc xảy ra một việc không thể cứu vãn được, các em cũng không nên nản lòng. Dầu ở trong hoàn cảnh đầy khó khăn, các em vẫn cứ vâng lời và làm theo lời Chúa, tin chắc Chúa sẽ thực hiện lời hứa của Ngài và sẽ ban cho các em sự bình an chấp nhận mọi việc xảy ra).

Điều nào khó thực hiện nhất trong những ý kiến trên, các em đánh dấu vào. Sau đó, hoàn thành phần cầu nguyện trong tập. Khi các em gặp phải những khó khăn trong tuần lễ nầy, có thể dùng lời cầu nguyện nầy. Các em bền lòng trông đợi Chúa, chắc chắn sẽ không thất vọng đâu.

BÀI 5. HÃY TRÔNG ĐỢI CHÚA! (HV)

 I. KINH THÁNH: Giô-suê 3,4.

II. CÂU GỐC: “Hãy trông đợi Đức Giê-hô-va; hãy vững lòng bền chí! Phải, hãy trông đợi Đức Giê-hô-va” (Thi Thiên 27:14).

III. BÀI TẬP.

  1. Phác họa Hòm Giao ước.

Xem những lời mô tả dưới đây, em vẽ một cách đơn giản hình dáng Hòm Giao ước.

Hòm Giao ước là một khối hình chữ nhật, bên ngoài được dát bằng vàng ròng, kẽ đường viền chung quanh. Hai bên hông của Hòm Giao ước có gắn bốn cái khoen bằng vàng, mỗi đầu hai khoen để xỏ hai đòn khiêng vào. Bên trong Hòm có bảng đá ghi 10 điều răn của Đức Chúa Trời, bình mana và cây gậy của A-rôn.

  1. Phóng viên nhí!

Giả sử em là phóng viên có mặt tại sông Giô-đanh hôm ấy. Em sẽ đưa tin gì trên mặt báo?

DÂN Y-SƠ-RA-ÊN DŨNG CẢM VƯỢT SÔNG GIÔĐANH.

…………………………………………………………………………………………………………………..

…………………………………………………………………………………………………………………..

…………………………………………………………………………………………………………………..

…………………………………………………………………………………………………………………..

…………………………………………………………………………………………………………………..

…………………………………………………………………………………………………………………..

…………………………………………………………………………………………………………………..

…………………………………………………………………………………………………………………..

  1. Trông đợi Chúa.

Trông đợi Chúa bao gồm rất nhiều ý nghĩa. Sau đây là một vài phương pháp trông đợi Chúa. Trong những cách liệt kê dưới đây, em hãy đánh dấu X vào trước câu nào mà em cảm thấy khó thực hiện nhất.

__ Những việc không làm được hoặc đã làm sai, em không nên nản lòng.

__ Khi Đức Chúa Trời chưa trả lời em, em vẫn kiên trì chờ đợi.

__ Tin tưởng Đức Chúa Trời luôn yêu thương em.

__ Tin tưởng Đức Chúa Trời luôn giúp đỡ em.

__ Vui lòng chấp nhận hoàn cảnh trước mắt.

  1. Lời em dâng Chúa.

Em hoàn thành lời cầu nguyện dưới đây.

Chúa Cha yêu dấu, xin giúp con có thể kiên nhẫn trông đợi Ngài giải quyết việc nầy:

………………………………………………………………………………………….

………………………………………………………………………………………….

………………………………………………………………………………………….

………………………………………………………………………………………….

 

BÀI 4.  CÔ GÁI CÓ ĐỨC TIN VÀ LÒNG CAN ĐẢM (GV-HV)

BÀI 4.  CÔ GÁI CÓ ĐỨC TIN VÀ LÒNG CAN ĐẢM (GV-HV)

in QUÍ III. 2016 on 16 Tháng Bảy, 2018

 

BÀI 4.  CÔ GÁI CÓ ĐỨC TIN VÀ LÒNG CAN ĐẢM (GV)

I. KINH THÁNH: Giô-suê 1-2.

II. CÂU GỐC: “Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi” (Phi-líp 4:13).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Ra-háp là một cô gái yếu đuối, nhưng đã có hành động rất can đảm: Giấu hai thám tử đang bị truy bắt trong nhà của mình.

– Cảm nhận: Tin tưởng Đức Chúa Trời thì sẽ có được sự can đảm.

– Hành động: Tin cậy Chúa để có sự can đảm.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

1. Cho các em thảo luận: Can đảm là gì? Đưa ra dẫn chứng cụ thể.

2. Dựa theo nội dung hai câu chuyện trong tập học viên, hướng dẫn các em dựng thành vở kịch để diễn trước lớp.

3. Ghi câu “BẠN DÁM KHÔNG?” Thật lớn trên bảng.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

1. Vào đề.

“BẠN DÁM KHÔNG?” Các em đã từng thách thức với ai câu nầy chưa? Hoặc đã có ai thách thức các em bằng câu nói nầy chưa? Nó có nghĩa gì vậy? (Lắng nghe ý kiến của các em). Ý nghĩa của từ “can đảm” là gì? (Có thể viết định nghĩa lên bảng).

 

Có nhiều bạn đã biểu hiện lòng can đảm rất tốt, giúp đỡ nhiều người, nhưng cũng có nhiều bạn chỉ khoe khoang sự can đảm của mình một cách ích kỷ, khiến cho bạn bè khiếp sợ. (Cho các em diễn kịch trong phần chuẩn bị số 2. Nếu không đóng kịch được, thì mở tập học viên bài số 4, mời hai em đọc lớn cho cả lớp nghe hai câu chuyện trong sách). Sau đó, cho các em so sánh nội dung hai câu chuyện, thảo luận về hai sự can đảm đó.

Trong bài học nầy, các em sẽ được làm quen với một cô gái can đảm. Sau đó, các em rút ra kết luận: Sự can đảm đó có lợi hay có hại nhé!

2. Bài học.

Môi-se, người lãnh đạo của dân Y-sơ-ra-ên, đã qua đời. Bây giờ, Giô-suê là người lãnh đạo mới của họ.

Giô-suê truyền lệnh cho dân Y-sơ-ra-ên chuẩn bị tinh thần sẵn sàng và lương thực đầy đủ, để ba ngày nữa sẽ vượt sông Giô-đanh, tiến chiếm Đất Hứa mà Đức Chúa Trời đã hứa ban.

Lúc đó là mùa gặt, nước sông Giô-đanh dâng lên rất cao, nước chảy siết, nên việc vượt qua sông không phải là chuyện dễ. Nhưng Giô-suê đã vạch sẵn kế hoạch theo sự hướng dẫn của Chúa.

* Hai thám tử do thám thành Giê-ri-cô.

Trước khi đưa cả hội chúng qua sông, Giô-suê sai hai thám tử đến Giê-ri-cô để do thám. Hai thám tử đó bơi qua dòng nước chảy xiết của sông Giô-đanh để đến Giê-ri-cô. Họ hành động rất cẩn thận vì sợ quân địch phát hiện.

Khi trời vừa tối, có hai người lạ xuất hiện ở thành Giê-ri-cô. Họ đến một nhà trọ, nữ chủ nhân của ngôi nhà tên là Ra-háp. Dù hai người nầy vào nhà Ra-háp một cách bí mật, nhưng cuối cùng cũng có người phát hiện ra. Tin nầy lập tức truyền đến tai vua: “Đêm nay, có hai người lạ ở nhà Ra-háp, chắc là mấy người Y-sơ-ra-ên đến do thám!” Vua liền hạ lệnh cho quân lính đến nhà Ra-háp bắt hai kẻ lạ mặt đó. “Chúng nó nhất định là thám tử của dân Y-sơ-ra-ên đến do thám xứ ta”.

Chúng ta cùng quay trở lại nhà Ra-háp để xem việc gì xảy ra tại đó nhé! Khi hai người lạ vào nhà, Ra-háp đã nhận biết đây là những người Y-sơ-ra-ên, và chắc chắn họ sẽ gặp nguy hiểm. Dù Ra-háp ở Giê-ri-cô, nhưng nàng đã nghe nhiều về những việc quyền năng mà Đức Chúa Trời đã làm trên dân Y-sơ-ra-ên, và nàng cũng biết Đức Chúa Trời sẽ ban cho họ xứ sở của mình. Ra-háp tin và quyết định che giấu hai thám tử. Đây là quyết định thật can đảm, vì nếu quân Giê-ri-cô biết được, chắc chắn Ra-háp sẽ bị hình phạt.

Ra-háp vội dẫn hai thám tử lên mái nhà, giấu dưới đống cây gai mà nàng phơi trên ấy. Nàng vừa đi xuống, thì quân lính của nhà vua cũng vừa ập đến trước cửa. Họ bảo Ra-háp: “Hãy đem mấy người mới đến ra nạp cho ta, vì họ là thám tử của địch”.

Ra-háp đáp: “Có mấy người đến đây thật, nhưng tôi đâu có biết họ là thám tử. Lúc trời vừa tối, họ đã ra đi. Tôi không rõ họ đi đâu. Nếu nhanh chân, các ông có thể đuổi theo kịp”.

Quân lính tin lời Ra-háp, lập tức đuổi theo về hướng sông Giô-đanh để bắt hai thám tử. Trời đã tối và người ta đóng cửa thành lại.

* Lời cầu xin của Ra-háp.

Khi mọi sự trở nên im ắng, Ra-háp leo lên mái nhà để gặp hai thám tử. Nàng nói rằng: “Tôi biết Đức Giê-hô-va sắp ban cho các ông đất nầy, vì ở đây ai nấy đều khiếp sợ khi nghe tiếng các ông. Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ông thật là Chúa của trời và đất”.

Có thể Ra-háp không biết những điều nàng vừa nói ra thật đúng lúc và hai thám tử rất muốn nghe. Nàng lại nói tiếp: “Bây giờ, tôi xin các ông thề trước mặt Đức Giê-hô-va sẽ bảo đảm sự sống cho tất cả mọi người trong gia đình tôi. Vì tôi đã giúp các ông hôm nay, xin các ông cũng thương tình giúp lại cho chúng tôi”.

“Nàng đã cứu mạng chúng tôi, chúng tôi sẽ cứu mạng gia đình nàng. Nếu nàng giữ kín bí mật, không tiết lộ với ai về chúng tôi, thì chúng tôi sẽ giữ đúng lời hứa”. Hai thám tử nói với Ra-háp như vậy.

Sau đó, họ cùng nhau bàn kế hoạch tiếp theo. Nhà của Ra-háp ở ngay trên tường thành (tường thành Giê-ri-cô rất vững chắc, bề ngang rất rộng đến nỗi người dân ở đây cất nhà trên đó), phía sau có cửa sổ hướng ra núi. Ra-háp lấy một sợi dây thừng thật chắc, cột vào cửa sổ rồi thòng xuống tường thành. Hai thám tử bám theo sợi dây tuột xuống, thoát ra ngoài thành cách an toàn. Trước khi đi, Ra-háp dặn hai thám tử: “Các ông cứ chạy về phía núi, ẩn núp ở đó ba ngày, để những kẻ đuổi bắt các ông trở về thành rồi hẳn đi”.

Đây quả là một ý hay. Hai thám tử dặn Ra-háp treo sợi dây màu đỏ vào cửa sổ, để cho dân Y-sơ-ra-ên biết đó là nhà của nàng và không đụng đến. Hai thám tử còn nói rằng: “Gia đình nàng phải ở trong nhà. Nếu có ai ra khỏi nhà, thì chúng tôi không chịu trách nhiệm về họ. Còn nếu nàng phản bội chúng tôi, thì coi như chúng tôi không hứa với nàng điều gì hết và chúng tôi sẽ không bảo vệ cho gia đình nàng”. Ra-háp vâng theo và vội cột ngay vào cửa sổ sợi dây màu đỏ.

Hai thám tử theo lời dặn của Ra-háp ẩn náu trong hang núi ba ngày, cho đến khi những kẻ đuổi bắt  quay về thành Giê-ri-cô. Hai thám tử xuống núi, vượt sông Giô-đanh trở về gặp Giô-suê. Họ báo cáo: “Quả thật, Đức Giê-hô-va đã phó cả xứ vào tay chúng ta. Hết thảy dân xứ đó đều khiếp sợ chúng ta”.

3. Ứng dụng.

Các em thân mến! Trong câu chuyện nầy, các em thấy nổi bật lên nhân vật nào? Các em khâm phục nhân vật đó ở điểm nào? (Cho các em trả lời). Hành động của Ra-háp cho các em những suy nghĩ gì?

Đức tin nơi Đức Chúa Trời đã giúp Ra-háp can đảm giấu hai thám tử trong nhà. Kinh Thánh chép khi dân Y-sơ-ra-ên tấn công thành Giê-ri-cô, gia đình Ra-háp vẫn bình an. Các em có biết tại sao không? Hãy xem Hê-bơ-rơ 11:31: “Bởi đức tin, kỵ nữ Ra-háp không chết với kẻ chẳng tin, vì nàng đã lấy ý tốt tiếp rước những kẻ do thám”. Bởi đức tin và lòng can đảm, Ra-háp đã được xếp vào danh sách các anh hùng đức tin: Áp-ra-ham, Y-sác, Môi-se, Ra-háp, Ghê-đê-ôn, Sam-sôn, Giép-thê, Đa-vít, Sa-mu-ên… (xem Hê-bơ-rơ 11).

Đức tin và sự can đảm luôn luôn đi đôi với nhau. Nếu các em có đức tin nơi Chúa, thì các em sẽ can đảm nhận lấy những công việc Chúa giao, hoặc can đảm sống cho Chúa. Bây giờ là thì giờ để mỗi em tự đánh giá mình trong những ngày qua. Các em có sẵn sàng làm hoặc nói về Chúa cho bạn bè không? Hay các em vẫn còn nhút nhát sợ hãi, không dám nói, không dám làm? Các em có can đảm sống cho Chúa không? (Mọi người nói dối, em vẫn thành thực, bày tỏ em là Cơ Đốc nhân, cầu nguyện trước bữa ăn dù bị bạn bè chế nhạo…).

“Em không dám!”, “Em không đủ can đảm để làm công việc đó!” Có lẽ đó là những câu các em thường nói. Chúng ta lấy đâu ra sức mạnh để làm những việc đó? Câu gốc sẽ trả lời cho các em. (Mời một em đọc to câu gốc). Chúa Giê-xu sẽ ban cho các em lòng can đảm, miễn là các em tin cậy Ngài.

BÀI 4. CÔ GÁI CÓ ĐỨC TIN VÀ LÒNG CAN ĐẢM (HV)

I. KINH THÁNH: Giô-suê 1,2.

II. CÂU GỐC: “Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi” (Phi-líp 4:13).

III. BÀI TẬP.

1. Ai can đảm?

Em từng hỏi ai câu nầy chưa? Hay đã có người hỏi em? Khi nào thì cần phải can đảm?

Hãy xem hai câu chuyện dưới đây, bạn nào thực sự can đảm. Sau đó trả lời những câu hỏi bên dưới.

a. Minh giết chết một con rắn và cầm xác rắn dọa các bạn nữ. Các bạn ấy đều sợ tránh ra xa. Lúc đó, Minh nhìn thấy Cúc là một bạn bị liệt đôi chân phải ngồi trên xe lăn. Minh nghĩ: “Thử xem bạn ấy sẽ làm như thế nào?” Minh liền ném con rắn đến gần Cúc.

b. Lài vừa đi học về, ngang qua nhà của Thắng thì thấy trong nhà có nhiều khói bốc lên. Lài liền kêu lớn để gọi hàng xóm và tay liên tục nhấn chuông nhà Thắng. Trong khi đó, Thắng và mẹ bạn ấy ở trong nhà cũng đã phát hiện đám cháy nên gọi cứu hỏa ngay. Còn Lài thì chạy xông vào nhà để bế em của Thắng ra khỏi nơi cháy.

* Suy nghĩ kỹ.

Ai can đảm, Minh hay Lài? Tại sao? Hành động của Minh có ý gì? Em nghĩ xem Lài có sợ hãi không? Theo em, thế nào là can đảm?

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

2. Đọc kỹ những câu sau, xem đúng hay sai, rồi ghi chữ Đ vào trước câu đúng, chữ S vào trước câu sai.

__a. Giô-suê dẫn dắt dân sự vào miền Đất Hứa và tin rằng Đức Chúa Trời luôn ở cùng, giúp đỡ mình.

__b. Hai thám tử không dám vào thành Giê-ri-cô, vì họ sợ hãi dân bản xứ.

__c. Ra-háp rất can đảm khi che giấu hai thám tử.

__d. Hai thám tử không đủ can đảm tin tưởng vào Ra-háp.

__e. Ra-háp nghe và tin rằng Đức Chúa Trời là Đấng quyền năng.

3. Suy gẫm câu gốc tuần nầy.

Phải chăng có lúc em cũng cần có sự can đảm để nhận lãnh công việc Chúa giao?

Ai có thể cho em sự can đảm để làm những công việc đó?

…………………………………………………………………………………………………………………………

Em có dự định làm một việc gì đó mà thiếu sự can đảm không? Bây giờ, em cầu nguyện với Chúa, xin Ngài ban cho em sức mạnh và sự can đảm để làm công việc đó nhé!