Bài 8. CON TÀU NÔ-Ê (GV)
By andynguyen in QUÍ I. 2016, THIẾU NHI on 14 Tháng Sáu, 2017
Bài 8. CON TÀU NÔ-Ê
I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 6:5 – 9:17.
II. CÂU GỐC: “Hãy hết lòng tin cậy Đức Giê-hô-va, chớ nương cậy nơi sự thông sáng của con” (Châm Ngôn 3:5).
III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:
– Biết: Nô-ê tin lời cảnh cáo của Đức Chúa Trời, và vâng theo lời phán dặn của Ngài.
– Cảm nhận: Tin và vâng lời Chúa sẽ dẫn đến phước hạnh.
– Hành động: Em nhận biết ý chỉ của Chúa và làm theo.
IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.
A. CHUẨN BỊ.
1. Sưu tầm các biểu tượng giao thông hoặc tự vẽ, giải thích mục đích của mỗi biểu tượng.
Dừng lại Đi thẳng. Quẹo phải.
2. Chuẩn bị bảng, phấn để lúc lên lớp, cho vài em tình nguyện lên bảng vẽ các loài động vật mà em thích.
B. BÀI HỌC KINH THÁNH.
1. Vào đề.
Các em thân mến! Các em đã từng thấy cái bảng báo giao thông bao giờ chưa? Bảng báo có nhiều hình dạng khác nhau, nhưng nó có cùng một tác dụng là báo cho mọi người biết nên hoặc không nên làm điều gì. Khi đi trên đường phố, nếu để ý các em sẽ thấy những tấm bảng báo như thế nầy (Đưa cho các em xem những bảng báo mà bạn sưu tầm được hoặc tự vẽ và giải thích từng biểu tượng).
Khi đi trên đường, có đèn giao thông hướng dẫn phải dừng lại, hay tiếp tục đi. Trên biển thì có ngọn hải đăng chiếu sáng để tàu bè biết hướng mà vào bờ khi trời tối, hoặc có đài khí tượng dự báo thời tiết cho chúng ta biết trước cơn bão sẽ đến vào lúc nào, hầu sớm chuẩn bị tốt công tác phòng chống bão lụt.
Đức Chúa Trời là Đấng yêu thương chúng ta, Ngài cũng nhắc nhở và cảnh cáo chúng ta về những điều không nên làm, và những điều nên làm. Đức Chúa Trời đã từng cảnh cáo A-đam và Ê-va phải tuân giữ mạng lệnh của Ngài, nếu không thì nhận lấy hình phạt. Đức Chúa Trời cũng đã từng cảnh cáo Ca-in, nếu không chịu ăn năn, nghe theo lời cảnh cáo của Ngài thì sẽ bị khốn khổ bởi tội lỗi.
Đức Chúa Trời vẫn luôn luôn nhắc nhở chúng ta. Chúng ta quyết định nghe và làm theo, để được phước, hay không nghe và không làm theo, để chịu hình phạt. Bài học hôm nay sẽ liên quan đến vấn đề nầy.
2. Bài học.
Vài trăm năm sau khi A-đam và Ê-va bị đuổi ra khỏi vườn Ê-đen, có rất nhiều người được sinh ra trên đất nầy, và ngày càng phạm tội. Thế giới đầy dẫy sự xấu xa, tội lỗi, không nhìn biết và không kính sợ Đức Chúa Trời. Cả thế giới lúc bấy giờ, chỉ có một người sống đẹp lòng Chúa. Người đó tên là Nô-ê. Nô-ê không phải là người không bao giờ phạm tội, nhưng ông tin Đức Chúa Trời, yêu mến và kính sợ Ngài. Kinh thánh chép rằng: “Nhưng Nô-ê được ơn trước mặt Đức Giê-hô-va” (Sáng 6:8).
Đức Chúa Trời lập kế hoạch giải cứu Nô-ê và cả gia đình của ông gồm vợ, các con trai, các con dâu. Trước khi thi hành án phạt thế gian, Đức Chúa Trời cho Nô-ê biết: “…vì cớ loài người mà đất phải đầy dẫy điều hung hăng; vậy ta sẽ diệt trừ họ cùng đất” (Sáng 6:13).
(1) Nô-ê đóng tàu.
Đức Chúa Trời phán dặn Nô-ê làm một việc rất lạ lùng, là đóng một chiếc tàu bằng gỗ gô-phe, chia thành từng phòng, rồi trét chai bề trong lẫn bề ngoài. Ngài hướng dẫn ông cách tỉ mỉ, làm bề dài tàu ba trăm thước, bề ngang năm mươi thước, bề cao ba mươi thước. Trên tàu làm một cái cửa sổ, bề cao một thước, và chừa một cửa bên hông; làm một từng dưới, một từng giữa, và một từng trên.
Nô-ê lại nghe Đức Chúa Trời phán rằng: “Ta sẽ dẫn nước lụt khắp trên mặt đất… hết thảy vật chi ở trên mặt đất đều sẽ bị chết hết. Nhưng ta sẽ lập giao ước cùng ngươi, rồi ngươi và vợ, các con và các dâu của ngươi, đều hãy vào tàu” (Sáng 6:17-18).
Dù khó mà tưởng tượng nước dâng lên đến mức nào và ông cũng chưa hề đóng tàu, hay nhìn thấy hình dáng của con tàu lần nào, nhưng Nô-ê vẫn vâng theo, không hề bỏ sót một điều gì hay thắc mắc với Chúa. Nghe lời Chúa, hiểu lời của Ngài là quan trọng, nhưng quan trọng hơn hết là làm theo.
Có lẽ mọi người nhìn thấy công việc của ông đều ngạc nhiên, sau đó chế nhạo, cho ông là người không bình thường. Nhưng Nô-ê và gia đình cứ tin cậy nơi Chúa. Cuối cùng, chiếc tàu đã đóng xong. Nó thật to lớn và có nhiều tầng trông rất đẹp. Nô-ê tiếp tục chờ đợi ý chỉ của Chúa.
Đức Chúa Trời phán dặn ông phải tích trữ lương thực cho người và động vật sau khi vào tàu. Đây là lời phán dặn của Đức Chúa Trời, nên Nô-ê cùng ba con trai siêng năng canh tác và thâu trữ.
Ngày nước lụt đến gần rồi, Đức Chúa Trời phán dặn Nô-ê rằng: “Vì còn bảy ngày nữa, ta sẽ làm mưa xuống mặt đất, trong bốn mươi ngày và bốn mươi đêm; ta sẽ tuyệt diệt khỏi đất hết các loài của ta đã dựng nên” (Sáng 7:4). Ngài dặn ông hãy đem tất cả người nhà vào tàu, cùng với các loài súc vật mỗi thứ một cặp, trống và mái. Các loài côn trùng, mỗi loài một cặp, riêng các loài thú thanh sạch thì mỗi loài bảy cặp. (Tham khảo thêm Lê-vi Ký 11). Nô-ê làm y như lời Chúa dặn.
(2) Nô-ê vào tàu.
Kinh Thánh ghi chép rằng: “Vì cớ nước lụt, nên Nô-ê vào tàu cùng vợ, các con trai và các dâu mình” (Sáng 7:7). Đức Chúa Trời khiến tất cả các loài chim, loài thú đều nghe theo sự chỉ huy của Nô-ê, từng cặp xếp hàng vào tàu. Sau đó, chính tay Đức Chúa Trời đóng cửa tàu lại.
Trên trời mây đen kịt, sấm sét nổ ầm ầm, mưa đổ xuống liên tục như trút nước, nước dâng lên nhanh chóng. Cảnh vật chung quanh thật kinh khiếp. Các em đã bao giờ chứng kiến cảnh lũ lụt chưa? Từ xưa cho đến giờ, chưa có trận lụt nào khủng khiếp như trận lụt thời Nô-ê. Cả thế giới đều chìm ngập trong nước, ngay cả đỉnh những ngọn núi cao nhất cũng bị ngập trắng xóa, vì mưa tuôn xối xả suốt bốn mươi ngày và bốn mươi đêm. Tất cả muôn loài đều bị hủy diệt, chỉ duy nhất có gia đình Nô-ê được bình an ở trong tàu.
Nước lụt phủ khắp mặt đất một trăm năm mươi ngày đêm. Nô-ê ở trong tàu an toàn. Kinh Thánh ghi chép rằng: “Vả, Đức Chúa Trời nhớ lại Nô-ê cùng các loài thú và súc vật trong tàu với người” (Sáng 8:1). Ngài không hề quên, Ngài luôn nhớ và gìn giữ con cái của Ngài.
Đức Chúa Trời khiến một cơn gió thổi qua trên mặt đất, nước dần dần hạ xuống. Qua một trăm năm mươi ngày, chiếc tàu tấp trên núi A-ra-rát.
Vài tháng sau, Nô-ê muốn biết nước đã rút hết chưa, ông thả một con quạ ra, nhưng con quạ bay đi luôn không trở về. Nô-ê thả tiếp một con chim bồ câu ra, nhưng chim bồ câu chẳng tìm được nơi nào đáp chân xuống, bèn bay trở về tàu. Ông biết nước vẫn còn nhiều. Nô-ê đợi thêm bảy ngày nữa và thả bồ câu ra khỏi tàu. Đến chiều, bồ câu bay trở về, trong miệng ngậm một lá ô-li-ve còn tươi. Ông biết nước đã hạ bớt. Nô-ê lại đợi thêm bảy ngày nữa, tiếp tục thả bồ câu ra, nhưng lần nầy bồ câu bay đi luôn, không trở về nữa. Nô-ê biết rằng nước trên mặt đất đã khô rồi. Nhưng ông chờ đợi mạng lệnh của Chúa. Một hôm, Đức Chúa Trời phán với Nô-ê: “Hãy ra khỏi tàu, ngươi, vợ, các con và các dâu ngươi”. Nghe vậy, cả gia đình Nô-ê đều mừng rỡ, vì họ được trở lại đất khô.
(3) Nô-ê cảm tạ Đức Chúa Trời.
Cả gia đình Nô-ê và các loài động vật đều ra khỏi tàu. Từ khi bắt đầu lụt cho đến khi mặt đất khô ráo là hơn một năm. Đặt chân trên mặt đất hoang vu, việc đầu tiên mà gia đình Nô-ê phải làm là cảm tạ Đức Chúa Trời.
Nô-ê cùng các con trai lập một bàn thờ bằng đá, bắt các súc vật thanh sạch, các loài chim thanh sạch dâng lên làm của lễ thiêu cho Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Trời đẹp lòng tế lễ của Nô-ê, và hứa một lời hứa rất tốt đẹp: “Hễ đất còn, thì mùa gieo giống cùng mùa gặt hái, lạnh và nóng, mùa hạ cùng mùa đông, ngày và đêm, chẳng bao giờ tuyệt được” (Sáng 8:22).
Đức Chúa Trời đặt trên bầu trời một dãi ánh sáng màu sắc rực rỡ, gọi là cái mống (Cầu vồng) để lập giao ước cùng với Nô-ê, không bao giờ nước lụt sẽ hủy diệt loài người nữa.
Ngày hôm nay, khi chúng ta nhìn thấy cầu vồng trên bầu trời, hãy cảm tạ Chúa vì lời hứa của Ngài đối với chúng ta.
3. Ứng dụng.
Các em thân mến! Nô-ê vì tin cậy và vâng lời Chúa, nên ông và cả gia đình được cứu khỏi cơn hủy diệt. Tìm biết ý Chúa, tin và vâng lời Ngài là bí quyết để dẫn các em đến sự phước hạnh. Chúa Giê-xu là con tàu bình an để các em nương náu, với điều kiện các em phải tin cậy, vâng lời Ngài.