Latest News From Our Blog

BÀI 3. CHÚA CHỮA LÀNH NGƯỜI BẠI (GV-HV)

BÀI 3. CHÚA CHỮA LÀNH NGƯỜI BẠI (GV-HV)

in ẤU NHI, QUÍ IV. 2016 on 25 Tháng Bảy, 2018

BÀI 3. CHÚA CHỮA LÀNH NGƯỜI BẠI (GV)

I. KINH THÁNH: Ma-thi-ơ 9:1-8; Lu-ca 5:17-20.

II. CÂU GỐC: “Đức Chúa Trời làm ơn cho người” (Gióp 33:24a).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Chúa Giê-xu chữa cho người bại được lành.

– Cảm nhận: Chúa Giê-xu là Đấng hay làm ơn.

– Hành động: Tin và nhờ cậy nơi Chúa.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

Trò chơi: GIÚP BẠN.

* Chuẩn bị:

– Hai cái ghế nhựa lớn.

– Chia các em thành hai nhóm có nam, nữ bằng nhau.

– Vạch hai đường thẳng cách nhau 5m làm điểm đầu và điểm

cuối.

* Cách chơi:

Mỗi nhóm chọn ra bốn em nam (hoặc nữ khỏe mạnh) để làm

người khiêng ghế, những em còn lại trong nhóm đóng vai người bại.

Khi nghe hiệu lịnh của người hướng dẫn, một em trong nhóm

ngồi trên ghế, bốn em kia khiêng đi từ vạch khởi hành đến điểm cuối,

cho bạn đó xuống, quay về nhóm khiêng bạn khác qua, cho đến khi nào

bạn cuối cùng trong nhóm đã qua hết. Nhóm nào xong trước là nhóm

thắng.

* Lưu ý: Nhắc nhở các em không nên đi quá nhanh, kẻo bị té ngã.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

1. Vào bài.

Các em thân mến, các em vừa chơi một trò chơi thật vui phải

không? Trò chơi nầy nói lên rằng những người bạn biết yêu thương,

giúp đỡ người bị bại đi được đến điểm mong muốn. Đó cũng là nội dung

của câu chuyện Kinh Thánh hôm nay cô (thầy) sắp kể cho các em nghe,

các em yên lặng lắng nghe nhé!

2. Bài học.

Có một người bị mắc bịnh bại đã lâu lắm rồi. Các em có biết bịnh

bại là bịnh gì không? (Cho các em trả lời) Người bị bịnh sẽ phải nằm

một chỗ, không đi, không chạy nhảy, không làm bất cứ việc gì được cả,

như vậy rất buồn, phải không các em? Dù vậy, cũng có những người

bạn thường đến thăm, trò chuyện để cho ông vui.

Rồi một ngày kia, họ đến gặp và báo cho ông một tin: Chúa

Giê-xu đã đến một làng gần đó, Ngài giảng đạo và đã chữa lành bệnh

cho nhiều người. Người bại nghe vậy cũng mừng lắm, nhưng làm sao

ông có thể đi đến đó được? Các em nghĩ xem, làm sao ông có thể đi

đến gặp Chúa Giê-xu? (Cho các em suy nghĩ và trả lời). Các em biết

không, những người bạn của ông rất tốt. Họ bảo rằng họ sẽ đặt ông nằm

trên giường và khiêng ông đi đến nơi. Các em thấy họ tính như vậy có

được không? (Cho các em trả lời). Người bại cũng rất ngại vì đoạn

đường khá xa mà vừa đi bộ vừa khiêng chắc các bạn ông cũng mệt lắm.

Nhưng những người bạn nầy rất muốn ông được lành bệnh vì họ tin rằng

Chúa Giê-xu sẽ chữa được, nên họ nhất định khiêng ông đi. Các em biết

không, họ đã phải đi một đoạn đường dài, có chỗ lên dốc, xuống dốc…

rất cực khổ, nhưng rồi cuối cùng, họ cũng đến được nơi Chúa Giê-xu đang

ở. Có lẽ họ cũng mừng lắm, nhưng mà trong nhà, ngoài sân đều chật

ních người, không có chỗ nào để vào được bên trong, nơi Chúa Giê-xu

ngồi.

Họ liền nghĩ ra một cách, khiêng người bại lên trên mái nhà, giở

mái nhà ra và dòng người bại xuống. Chỉ còn có cách đó thôi và họ làm

ngay.

Mọi người trong nhà đang ngồi nghe Chúa Giê-xu giảng dạy, bỗng

họ thấy có một người được thả xuống từ mái nhà, dừng lại trước mặt

Chúa Giê-xu. Chúa nhìn ông cách thương xót và thấy lòng tin nơi những

người bạn của ông rất lớn, nên Ngài phán: “Ngươi hãy đứng dậy, vác

giường trở về nhà!” Thật là kỳ diệu, người bại đã từ từ ngồi dậy rồi

đứng lên trước sự ngạc nhiên của mọi người nơi đó! Người bại, các bạn

của ông và mọi người đều rất vui mừng, cảm tạ và ca ngợi Đức Chúa

Trời.

3. Ứng dụng.

Các bạn của người bại bởi lòng tin đã giúp ông gặp được Chúa

Giê-xu và được lành bệnh. Các em cũng phải có lòng tin nơi Chúa.

Những lúc bị bệnh, lúc sợ hãi… các em nhớ đến Chúa, cầu nguyện với

Ngài thì Ngài sẽ giúp đỡ các em ngay.

C. BÀI TẬP.

* Chuẩn bị:

– Cắt hình bài 3 trong trang cắt dán.

– Bút chì màu, kéo, hồ dán.

* Thực hiện:

– Cho các em làm bài tập “Em làm gì để giúp bạn?”: Dán hình

vào hình vẽ bài 3 cho thích hợp.

BÀI 3. CHÚA CHỮA LÀNH NGƯỜI BẠI (HV)

I. KINH THÁNH: Ma-thi-ơ 9:1-8; Lu-ca 5:17-20.

II. CÂU GỐC: “Đức Chúa Trời làm ơn cho người” (Gióp 33:24a).

III. BÀI HỌC.

Bởi đức tin của những người bạn người bại, Chúa Giê-xu đã

chữa cho ông được lành.

* Tô màu hình vẽ.

* Em làm gì để giúp bạn? Em trả lời bằng cách dán hình vào

cho đúng vị trí nhé.

 

BÀI 2. NGƯỜI LÃNH ĐẠO TIN CẬY CHÚA (GV-HV)

BÀI 2. NGƯỜI LÃNH ĐẠO TIN CẬY CHÚA (GV-HV)

in QUÍ IV. 2016, THIẾU NHI on 25 Tháng Bảy, 2018

BÀI 2. NGƯỜI LÃNH ĐẠO TIN CẬY CHÚA (GV)

I. KINH THÁNH: Dân số ký 13-14:35.

II. CÂU GỐC: “Hãy hết lòng tin cậy Đức Giê-hô-va, chớ nương cậy nơi sự thông sáng của con”(Châm ngôn 3:5).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Lời báo cáo của Giô-suê và Ca-lép về xứ Ca-na-an, khác với lời báo cáo của 10 thám tử còn lại.

– Cảm nhận: Giô-suê và Ca-lép không hùa theo số đông, quyết giữ vững lòng tin cậy nơi Đức Chúa Trời.

– Hành động: Làm theo lời Chúa, không nghe theo lời bạn xúi giục làm điều không đẹp lòng Ngài.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Sự chọn lựa của em. 

1. Mục đích: Các em thảo luận giữa việc nên làm và không nên làm.

2. Tài liệu: Trang tư liệu B sách học viên.

3. Thực hiện: Cho các em mở sách học viên trang tư liệu B, và theo hướng dẫn hoàn thành bài tập. Sau đó hỏi các em: “Mỗi người trong hình vẽ muốn em làm gì? Em chọn lựa thế nào? Tại sao?”

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

1. Vào đề.

Có khi nào em và một nhóm bạn quyết định làm một việc nào đó, nhưng trong số đó có người phản đối không? Ví dụ: Mọi người quyết định cùng xem phim hoạt hình, nhưng một vài bạn lại muốn xem chương trình “Em yêu khoa học”… (Cho các em tự do chia sẻ). Hôm nay, các em sẽ thấy có 12 người nhưng chia làm hai phe, với hai ý kiến trái ngược nhau. Bây giờ chúng ta sẽ xem ý kiến của họ như thế nào nhé!

2. Bài học.

Dân Ysơ-ra-ên đóng trại tại đồng vắng Pha-ran. Đức Chúa Trời bảo Môi-se cho người do thám xứ Ca-na-an trước khi đưa dân sự vào. Các em đọc Dân số ký 13:2 xem Đức Chúa Trời chỉ thị Môi-se như thế nào? (Cho các em đọc câu Kinh Thánh).

Môi-se làm theo lời Đức Chúa Trời phán dặn, chọn trong 12 chi phái mỗi chi phái 1 người để đi do thám xứ. Trong 12 người được chọn, có Giô-suê và Ca-lép.

Môi-se nói: “Hãy đi xem xứ đó như thế nào. Dân sự ở đó mạnh hay yếu, đất đai tốt hay xấu, và hái trái cây xứ đó đem về đây!”

Mười hai thám tử chuẩn bị lên đường. Họ là người đầu tiên nhìn thấy xứ tốt đẹp mà Đức Chúa Trời hứa ban. Một tháng trôi qua, họ cũng chưa trở về. Mọi người ở nhà trông đợi. Rồi ngày thứ 40, mười hai thám tử trở về, đem theo những chùm nho nặng trĩu đến hai người khiêng, cùng nhiều loại trái cây khác. Các em đọc Dân số ký 13:27 xem các thám tử báo cáo với Môi-se về xứ đó như thế nào?

Các thám tử thấy xứ Ca-na-an thật sự “đượm sữa và mật”. Trái cây họ đem về đã nói lên điều đó. Nhưng, họ nói tiếp: “Dân xứ đó rất mạnh, thành trì rất vững vàng. Còn nữa, chúng tôi thấy những người khổng lồ sống ở đó nữa!”

Dân sự hoang mang lo lắng. Nhưng thám tử Ca-lép khích lệ dân sự: “Chúng ta hãy đi lên chiếm xứ, vì chúng ta sẽ chinh phục được”. Nhưng các thám tử khác phản đối: “Không được! Không được! Chúng ta không thể đánh chiếm xứ đó, vì dân xứ đó mạnh hơn chúng ta! So với họ, chúng ta chỉ như những con cào cào mà thôi!”

Lời nói của các thám tử này khiến dân sự sợ hãi. Họ bắt đầu khóc lóc, lằm bằm oán trách Môi-se: “Chúng tôi thà chết tại Ai-cập hoặc trong đồng vắng còn hơn! Tại sao Đức Chúa Trời dẫn chúng tôi vào đất này để bị giết?!” Rồi họ bàn với nhau lập một người lãnh đạo khác để dẫn họ quay trở về Ai-cập.

Dân sự hoàn toàn không tin cậy lời hứa của Đức Chúa Trời cho họ. Họ đã quên những ngày tháng đi trong đồng vắng, Ngài đã nuôi nấng, chăm sóc, giải cứu, giúp đỡ họ như thế nào.

Trước tình hình đó, Giô-suê và Ca-lép xé áo mình bày tỏ lòng đau thương. Hai ông nói với dân sự. Các em đọc Dân số ký 14:7-9 xem hai ông có cái nhìn khác với những thám tử kia như thế nào?

Dĩ nhiên Giô-suê và Ca-lép cũng nhìn thấy thành trì vững chắc và những người khổng lồ, nhưng họ tin vào lời hứa của Đức Chúa Trời. Ngài đã hứa ban cho họ vùng đất này. Giô-suê và Ca-lép khuyên dân sự đừng sợ dân cư ở đó, vì Đức Chúa Trời sẽ ở cùng họ. Dân sự không những không nghe mà còn muốn ném đá giết chết hai ông nữa.

Các em nghĩ Đức Chúa Trời cảm thấy thế nào trước hành động của dân sự? (Rất buồn). Theo em, Ngài sẽ làm gì? (Ngài sửa phạt họ). Những người không tin vào lời hứa của Đức Chúa Trời và đã nói: “Chúng tôi thà chết trong đồng vắng” thì sẽ nhận được như điều họ nói. Hành động không tin cậy Đức Chúa Trời của họ khiến họ phải trả giá: 40 năm lưu lạc trong đồng vắng cho đến khi chết hết, chỉ con cháu họ sinh ra trong thời gian đó, cùng Giô-suê và Ca-lép được vào xứ Ca-na-an mà thôi. Còn 10 thám tử cùng đi với Giô-suê và Ca-lép bị Đức Chúa Trời phạt chết ngay sau đó trong một tai vạ.

Sau 40 năm, Giô-suê hướng dẫn lớp người sinh ra và lớn lên trong đồng vắng đi vào xứ Ca-na-an. Lời hứa của Đức Chúa Trời cho dân Y-sơ-ra-ên đã được thực hiện.

3. Ứng dụng.

a. Ôn lại câu chuyện.

Cho các em mở sách học viên bài số 2 và theo chỉ dẫn hoàn thành bài tập “Hai cách nhìn”. Sau đó hỏi các em: “10 thám tử có cảm nhận như thế nào đối với việc tiến vào xứ Ca-na-an?” “Còn Giô-suê và Ca-lép thì có cảm nhận như thế nào?” “Giô-suê và Ca-lép đã thể hiện họ là người lãnh đạo tốt như thế nào?” (Tin cậy Đức Chúa Trời, làm điều đúng, khích lệ dân sự).

b. Học câu gốc.

Cho các em đọc câu gốc, sau đó thảo luận: “Chớ nương cậy nơi sự thông sáng của con có nghĩa gì?” “Vì sao lại không nên như vậy? Bằng cách nào để em có được sự hướng dẫn của Chúa và thêm lòng tin cậy Ngài?”

c. Áp dụng vào đời sống.

Trước hết thảo luận với các em: “Qua Giô-suê và Ca-lép, em nhận thấy phẩm chất của người lãnh đạo tốt là gì? (Tin cậy Đức Chúa Trời, làm điều đẹp lòng Chúa, từ chối làm điều không đúng, giúp người khác nhận ra cái sai, và khích lệ họ làm điều đúng). Sau đó, cho các em theo hướng dẫn làm bài tập “Lời nói của người lãnh đạo tốt”, rồi chia sẻ những gì đã viết.

BÀI 2. NGƯỜI LÃNH ĐẠO TIN CẬY CHÚA (HV)

 I. KINH THÁNH: Dân số ký 13-14:35.

II. CÂU GỐC: “Hãy hết lòng tin cậy Đức Giê-hô-va, chớ nương cậy nơi sự thông sáng của con” (Châm ngôn 3:5).

III. BÀI TẬP.

1. Hai cách nhìn.

Em nối chữ ở hàng dọc và số ở hàng ngang để tìm từ ghi trên đường kẻ.

Báo Cáo Của 10 Thám Tử.

Dân xứ đó có những A5 B2.

Chúng ta như A1 C3.

Báo Cáo Của Giôsuê Và Calép.

Chúng ta A3 B5 phải B4 C2 xứ đó, bởi vì A2 A4 B1 C4 C1 B3 C5.

2. Lời nói của người lãnh đạo tốt.

Em đọc lời thoại phía dưới và trả lời vào chỗ trống của B và D để thể hiện họ là người lãnh đạo tốt.

A. Anh ơi! Mẹ có ở nhà không?

B. Mẹ chưa về!

A. Khi mẹ về nói với mẹ là hôm nay em không có ra ngoài nhen!

B. ……………………………………………………….

C. Em muốn xem phim này không?

D. Ba em nói không nên xem.

C. Hay lắm!

D. Ba em nói không thích hợp với trẻ em!

C. Vậy, em đến nhà anh xem. Ba sẽ không biết!

D. ……………………………………………………….

BÀI 2.TRANG G TRONG THỜI ĐẠI KINH THÁNH (GV-HV)

BÀI 2.TRANG G TRONG THỜI ĐẠI KINH THÁNH (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ IV. 2016 on 25 Tháng Bảy, 2018

BÀI 2.TRANG PHỤC TRONG THỜI ĐẠI KINH THÁNH (GV)

I. KINH THÁNH: Giô-suê 6:17-19; 7:19-21; 1Sa-mu-ên 18:1-4; Công Vụ 9:36-43

II. CÂU GỐC: “Còn về phần quần áo, các ngươi lại lo lắng mà làm chi?… Cha các ngươi ở trên trời vốn biết các ngươi cần dùng những điều đó rồi” (Ma-thi-ơ 6:28a; 32b).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Áo quần trong thời đại Kinh Thánh và ngày nay có gì khác nhau.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời ban cho chúng ta đủ mọi nhu cầu.

– Hành động: Cảm tạ Chúa ban cho em các loại quần áo khác nhau.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

Giáo viên có thể dựa vào hoàn cảnh thực tế tại địa phương, hướng dẫn các em tiến hành hai hoạt động sau đây để gây hứng thú học tập hoặc chọn lấy một.

* Đề nghị 1: Con chiên và quần áo.

1. Vật liệu: Trang tài liệu B trong tập học viên.

2. Thực hiện: Giáo viên nói với các em: Các em thử nghĩ xem con chiên và quần áo có liên hệ gì? Một con chiên có thể biến thành một bộ quần áo không? Đúng rồi, con chiên không thể biến thành quần áo, nhưng lông của nó có thể biến thành quần áo. Mời các em xem quá trình từ lông chiên biến thành quần áo rất thú vị nầy (Hướng dẫn các em mở trang tài liệu B trong tập học viên).

Để giúp các em hiểu trang tài liệu nầy, giáo viên đọc câu hỏi từng bước một, sau đó ngưng giây lát để các em có đủ thời gian trả lời.

Quá trình thiết kế quần áo không đơn giản, vì thế vào thời đại Kinh Thánh quần áo rất quí, và Đô-ca là một phụ nữ chuyên may quần áo.

* Đề nghị 2. Mặc quần áo.

1. Vật liệu: Trang tài liệu C trong tập học viên, kéo, keo dán.

2. Thực hiện: Giáo viên mời các em giúp đỡ mặc đồ cho nhân vật Kinh Thánh. Cho các em mở trang tư liệu C trong tập học viên và hướng dẫn các em làm. Khi các em hoàn tất, mời các em đưa ra sản phẩm của mình và dùng những câu hỏi sau để giúp các em chia sẻ: “Hãy nghĩ xem vì sao người thời đó thích mặc loại quần áo vừa dài vừa rộng?” (Đợi sau khi các em phát biểu ý kiến xong, có thể giải thích: Loại quần áo như vậy dễ may hơn, trong khí hậu nóng bức mặc những loại quần áo nầy cũng sẽ mát hơn. Nếu thời gian cho phép, có thể giải thích thêm: Người thời đó thích mặc loại quần áo nhộm màu sắc sặc sỡ, phụ nữ thích đeo đồ trang sức trên áo choàng, mạng che mặt và trên dây lưng).

B. BÀI HỌC KINH THÁNH

(Chuẩn bị giáo cụ: Photo lớn trang tài liệu B, hình 1-5 trong sách giáo viên, rồi tô màu và cắt ra, bảng, băng keo hai mặt, mạng che mặt, áo choàng (hóa trang theo cách ăn mặc của nhân vật trong thời đại Kinh Thánh).

Nhờ các em xếp gọn lại những tài liệu được dùng trong phần “Sinh Hoạt Đầu Giờ”. Trong khi các em đang sắp xếp, giáo viên nhanh chóng đeo mạng che mặt lên, mặc áo choàng vào, hoặc có thể mời một người đã chuẩn bị sẵn. Sau đó, tự giới thiệu: Chào các bạn nhỏ. Hôm nay chúng ta sẽ học đến những trang phục mà người trong thời đại Kinh Thánh mặc, tôi là giáo viên đặc biệt của các em. Nhìn áo quần tôi đang mặc, các em có thể biết được trang phục của những người trong thời đại Kinh Thánh khác với những gì chúng ta đang mặc ngày nay (Mời em nào đã hoàn thành “Mặc quần áo” trong phần Sinh Hoạt Đầu Giờ giới thiệu sản phẩm của mình cho các bạn xem).

1. Vào đề.

Áo quần của nhân vật trong thời đại Kinh Thánh tốn nhiều thời gian để may hơn so với ngày nay (Mời các em kể ra các bước cần thực hiện khi may quần áo trong phần sinh hoạt đầu giờ “Con chiên và quần áo”). Vì may quần áo tốn nhiều thời gian và công sức, nên quần áo rất quí giá. Những người mặc quần áo bằng vải tốt, được cắt may khéo léo, đẹp đẽ, có thể chứng tỏ mình là người giàu có. Câu chuyện hôm nay sẽ cho các em biết về một số trang phục của người xưa.

2. Bài học.

a. A-can và chiếc áo choàng đẹp.

Cô (thầy) sẽ giới thiệu cho các em một người lính trong Kinh Thánh tên là A-can. Một lần nọ, A-can cùng những người lính Y-sơ-ra-ên đi chiến đấu. Đức Chúa Trời ra lệnh không được lấy bất cứ thứ gì sau khi chiến thắng quân thù. Nhờ Đức Chúa Trời giúp đỡ, quân Y-sơ-ra-ên thắng trận, họ tiến vào thành trong tiếng hò reo chiến thắng. Chính lúc đó, A-can nhìn thấy chiếc áo choàng đẹp đẽ và một số vàng bạc quí giá khác nữa. Lòng tham nổi lên, A-can lén lấy đem về trại của mình giấu thật kỹ. Sau đó, vị chỉ huy điều tra và biết A-can không tuân lệnh, nên xử phạt anh ta rất nặng.

Từ câu chuyện nầy các em có thể thấy chiếc áo choàng tốt đẹp đối với A-can cũng quan trọng như vàng bạc. Và điều đáng buồn là những thứ nầy đối với anh ta còn quan trọng hơn cả vâng lời Chúa.

b. Chiếc áo của Giô-na-than tặng Đa-vít.

Vào thời đại Kinh Thánh, quần áo đối với người thời đó rất quí. Một trong những câu chuyện mà cô (thầy) rất thích, đó là câu chuyện Giô-na-than tặng áo cho Đa-vít.

Từ khi đánh thắng người khổng lồ Gô-li-át, Đa-vít được sống bên cạnh vua Sau-lơ cùng gia đình ông. Ở đó Đa-vít quen biết Giô-na-than là con trai của vua Sau-lơ, và họ trở thành một đôi bạn tốt (dán hình 2 lên bảng, đem hình 3 (áo choàng) đặt vào tay của Giô-na-than). Như các em biết, bạn tốt thường giúp đỡ lẫn nhau. Một hôm, Giô-na-than tặng Đa-vít chiếc áo choàng quí giá mà các hòang tử thường mặc (Đem hình áo choàng từ tay của Giô-na-than sang hình của Đa-vít. Khi nói đến những thứ có liên quan thì đem hình 4 và 5 từ hình Giô-na-than sang hình Đa-vít).  Giô-na-than còn tặng cho Đa-vít áo giáp, đai thắt lưng, kiếm cung của mình. Giô-na-than muốn bày tỏ cùng Đa-vít rằng, anh ta mong muốn mãi mãi là bạn của Đa-vít. Đa-vít cũng mong muốn mãi là bạn của Giô-na-than khi nhận những món quà nầy. Họ là bạn tốt của nhau suốt đời.

c. Đô-ca may áo cho người khác.

Những câu chuyện mà các em vừa nghe đều xảy ra trước khi Chúa Giê-xu giáng sinh nhiều năm, và được chép trong Kinh Thánh Cựu Ước. Vào thời đại sau khi Chúa Giê-xu giáng sinh, quần áo vẫn tương đối quan trọng. Có một phụ nữ tên là Đô-ca thường may áo cho những người nghèo khổ. Một hôm, bà bị bệnh và qua đời. Bạn bè của bà vô cùng thương tiếc. Nghe tin ông Phi-e-rơ đang ở trong thành phố gần đó, họ liền sai người mời ông xuống gấp. Đến nơi, họ đưa ông lên căn phòng trên gác. Các bà góa đứng bên ông khóc lóc và đưa cho Phi-e-rơ xem những chiếc áo choàng, áo dài mà bà Đô-ca đã may cho, họ nhớ lại tấm lòng và sự quan tâm của bà Đô-ca đối với họ. Ông Phi-e-rơ mời các góa phụ ra khỏi phòng, rồi quì gối cầu nguyện. Sau khi cầu nguyện xong, Phi-e-rơ đứng dậy gọi: “Đô-ca, hãy vùng dậy”. Bà Đô-ca mở mắt, trông thấy Phi-e-rơ liền ngồi dậy. Ông Phi-e-rơ đưa tay đỡ bà đứng lên, rồi gọi các tín hữu và những bà góa vào phòng, cho gặp người vừa sống lại.

Mọi người đều vui mừng vì Đức Chúa Trời nhậm lời cầu nguyện của Phi-e-rơ, cho Đô-ca sống lại. Qua việc đó, có rất nhiều người tin nhận Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời. Và chắc có lẽ bà Đô-ca sẽ tiếp tục may áo cho những góa phụ cần được giúp đỡ.

3. Ứng dụng.

Bài học nầy giúp các em biết những sự khác nhau của trang phục thời nay và thời Kinh Thánh. Nhưng có một điều, dù ở bất cứ thời đại nào, thái độ của con người đối với việc ăn mặc cũng đều giống nhau. Người ta thường lo lắng về việc ăn mặc, nhưng Chúa bảo chúng ta đừng lo lắng, vì Ngài biết rõ nhu cầu của chúng ta và ban cho đủ mọi sự cần dùng.

Theo sự gợi ý trong sách học viên, cho các em trả lời phần “Quà tặng cho Đa-vít”. Sau đó hỏi để các em chia sẻ: Giô-na-than tặng áo choàng, kiếm, cung, dây thắt lưng cho Đa-vít để bày tỏ điều gì? Nếu Đa-vít và Giô-na-than sống trong thời nay, em thử nghĩ xem Giô-na-than sẽ tặng cho Đa-vít thứ gì?

Trong phần “Xưa và nay”, giáo viên dựa vào gợi ý trong tập học viên, hướng dẫn các em trả lời. Giáo viên đọc những câu hỏi trong hình vẽ cách rõ ràng.

Đáp án: Hình cặp thứ 1: v x; thứ 2: v x; thứ 3: v x; thứ 4: v v.

C. SINH HOẠT THỰC HÀNH.

* Tô màu ghép hình.

1. Vật liệu: Trang tài liệu B hình 6 trong sách giáo viên, bút màu.

2. Chuẩn bị: Photo lớn hình 6, cắt dọc theo đường viền thành 8 phần (nếu các em đông, giáo viên có thể làm hai bộ hình hoặc cắt thành mười phần như khăn choàng và áo choàng cắt rời ra v. v…). Sau đó chia cho mỗi em một tấm, cho các em tô màu lên hình đó, rồi mời các em đem hình ghép lên bảng.

BÀI 2. TRANG PHỤC TRONG THỜI ĐẠI KINH THÁNH (HV)

I. KINH THÁNH: Giô-suê 6:17-19; 7:19; 1Sa-mu-ên 18:1-4; (Công Vụ
9:36-43).
II. CÂU GỐC: “Còn về phần quần áo, các ngươi lại lo lắng mà làm
chi? …Cha các ngươi ở trên trời vốn biết các ngươi cần dùng
những điều đó rồi” (Ma-thi-ơ 6:28a, 32b).
III. BÀI TẬP.
A. QUÀ CỦA GIÔ-NA-THAN TẶNG ĐA-VÍT.
Tô màu lên những thứ Giô-na-than tặng Đa-vít.

B. XƯA VÀ NAY.
– So sánh từng cặp hình vẽ, sau đó trả lời.
– Hình nào đúng, đánh dấu “V” vào ô vuông, hình nào sai, thì đánh
dấu “X”.

BÀI 2. GIA ĐÌNH CỦA CHÚA GIÊ-XU (GV)

BÀI 2. GIA ĐÌNH CỦA CHÚA GIÊ-XU (GV)

in ẤU NHI, QUÍ IV. 2016 on 25 Tháng Bảy, 2018

BÀI 2. GIA ĐÌNH CỦA CHÚA GIÊ-XU (GV)

I. KINH THÁNH: Ma-thi-ơ 2:13-18; Mác 6:3.

II. CÂU GỐC: “Con trẻ lớn lên… được đầy dẫy sự khôn ngoan” (Lu-ca

2:40).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Chúa Giê-xu lớn lên trong gia đình có thêm những người em

trai và gái.

– Cảm nhận: Mỗi người đều có một gia đình giống như Chúa

Giê-xu.

– Hành động: Cảm tạ Chúa về gia đình của mình.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

Giáo viên gọi vài em kể về gia đình của mình và hỏi các em có

yêu thương gia đình mình không, bày tỏ bằng hành động như thế nào.

Giáo viên cũng dành chút thời gian kể về gia đình mình và nói cảm

nghĩ cho các em biết.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH

1.Vào bài.

Các em thân mến, các em nhắc lại cho cô bài học lần trước đã

dạy những gì nhé! Chúa Giê-xu được sinh ra nơi nào nè? (Cho các em

trả lời) Đúng rồi, trong một chuồng chiên, nằm trong máng cỏ. Vì sao

Chúa Giê-xu là Con của Đức Chúa Trời lại phải sinh ra trong nơi nghèo

khổ như vậy, các em? (Là vì Chúa yêu thương chúng ta, muốn tất cả

mọi người từ giàu đến nghèo, từ nhỏ đến lớn đều được đến với Ngài,

được làm bạn với Ngài). Các em nhớ bài rất tốt. Hôm nay, cô sẽ kể

cho các em nghe phần kế tiếp của câu chuyện em bé Giê-xu nhé.

2. Bài học.

Em bé Giê-xu mỗi ngày một lớn hơn và rất dễ thương. Rồi có

một đêm, ông Giô-sép đang ngủ, thiên sứ của Chúa hiện đến, báo cho

Giô-sép biết một việc rất nguy hiểm, đó là vua Hê-rốt đang tìm để giết

em bé Giê-xu. Vì thế ông Giô-sép phải đem bà Ma-ri và con trẻ

Giê-xu trốn qua nước Ê-díp-tô, và cứ ở đó cho đến khi có sự chỉ dẫn

của Đức Chúa Trời.

Lúc ấy, Giô-sép tỉnh dậy, nghĩ đến những lời thiên sứ nói trong

giấc mơ. Ông liền chuẩn bị mọi thứ cần dùng để mau chóng đem bà

Ma-ri và em bé Giê-xu đi trốn. Trời vẫn chưa sáng, nhưng gia đình ông

bà đi ngay. Họ đã đi thật xa, xa lắm và cuối cùng đến được xứ Ê-díptô. Gia đình của Chúa Giê-xu đã ở nơi đó rất lâu ngày, vui vẻ, bình yên.

Em bé Giê-xu bây giờ cũng đã lớn lên hơn nhiều rồi đó.

Đến một ngày nọ, thiên sứ lại báo tin cho ông Giô-sép trong giấc

mơ, bảo rằng vị vua độc ác kia đã chết, Giô-sép và Ma-ri hãy đưa cậu

bé Giê-xu trở về quê hương, sẽ không còn nguy hiểm nữa. Ông

Giô-sép vâng theo lời thiên sứ đem gia đình trở về lại xứ của mình. Cậu

bé Giê-xu sống trong tình yêu thương của cha mẹ và sau đó lại có

thêm những em trai và em gái của Ngài được sinh ra. Chúa Giê-xu rất

kính yêu cha mẹ và yêu thương những người em trai, em gái của mình.

3. Ứng dụng.

Các em ạ, em nào cũng giống như Chúa Giê-xu, có gia đình, cha

mẹ, anh chị em, để yêu thương, chăm sóc cho nhau. Ngoài ra, các em

còn có bạn bè để cùng học tập cũng như vui đùa với nhau nữa. Mọi

điều đó đều là do Chúa ban cho, chúng ta nên nhớ cảm ơn Chúa nhé.

C. BÀI TẬP.

– Cho các em xem hình trong trang đầu bài tập bài 2, và hỏi các

em ai là mẹ Chúa Giê-xu và dùng bút chì khoanh tròn lại (là người

đang ẵm em bé), cho các em biết Chúa Giê-xu rất yêu thương em trai

và em gái của mình.

– Tô màu phần bài tập “Gia đình Chúa Giê-xu”, và cho các em

chỉ vào từng người trong gia đình Chúa Giê-xu để nhận biết đó là ai

(giáo viên tham khảo Mác 6:3 để nói cho các em biết).

BÀI 2. GIA ĐÌNH CỦA CHÚA GIÊ-XU (HV)

I. KINH THÁNH: Ma-thi-ơ 2:13-18; Mác 6:3.

II. CÂU GỐC: “Con trẻ lớn lên… được đầy dẫy sự khôn ngoan”

(Lu-ca 2:40).

III. BÀI HỌC.

Chúa Giê-xu có em trai và em gái. Anh em của Ngài rất yêu

thương nhau.

* Trong hình nầy, ai là Chúa Giê-xu, em hãy khoanh tròn lại

và tô màu lên nhé.

* Đây là gia đình của Chúa Giê-xu, em có biết là những ai

không?

BÀI 1. NGƯỜI LÃNH ĐẠO PHẢI BIẾT VÂNG LỜI (GV-HV)

BÀI 1. NGƯỜI LÃNH ĐẠO PHẢI BIẾT VÂNG LỜI (GV-HV)

in QUÍ IV. 2016, THIẾU NHI on 23 Tháng Bảy, 2018

BÀI 1. NGƯỜI LÃNH ĐẠO PHẢI BIẾT VÂNG LỜI (GV)

 I. KINH THÁNH: Xuất Ê-díp-tô 17:8-16.

II. CÂU GỐC: “Hãy nghe lời khuyên dạy, và tiếp nhận sự giáo hối, để con được khôn ngoan trong lúc cuối cùng” (Châm ngôn 19:20).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Giô-suê vâng theo chỉ thị của Môi-se và Đức Chúa Trời đã giúp ông chiến thắng dân A-ma-léc.

– Cảm nhận: Vâng theo lời khuyên dạy thì sẽ thành công.

– Hành động: Vâng phục những chỉ thị mà người lãnh đạo (ba mẹ, giáo viên…) đưa ra.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Sự hướng dẫn trên bản đồ.

1. Mục đích: Cho các em tự tìm ra câu gốc của bài học Kinh Thánh này.

2. Tài liệu: Sách học viên trang tư liệu A.

3. Thực hiện: Hướng dẫn các em mở sách học viên trang tư liệu A, cho các em theo hướng dẫn hoàn thành bài tập, tìm ra câu gốc của bài này.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

1. Vào đề.

Các em thân mến! Bây giờ chúng ta sẽ gặp gỡ một đoàn người Hê-bơ-rơ từ xứ Ai-cập đến. Trong đoàn người ấy có một thanh niên tên là Giô-suê. Giô-suê là người yêu mến Đức Chúa Trời.

2. Bài học.

Từ lúc dân Ysơ-ra-ên rời Ai-cập cho đến bây giờ, Giô-suê nhìn thấy rõ Đức Chúa Trời đã chăm lo cho dân sự Ngài. Giô-suê cũng nhận biết Đức Chúa Trời chọn lựa Môi-se làm người lãnh đạo. Dù lúc ấy Giô-suê còn trẻ, nhưng ông vẫn là người trợ giúp đắc lực của Môi-se. Lúc này, Môi-se đang hướng dẫn dân sự vượt qua đồng vắng Sin, đến vùng đất mà Đức Chúa Trời hứa ban (chỉ trên bản đồ).

Bây giờ các em nhắm mắt lại và thử tưởng tượng mình cùng đoàn dân Y-sơ-ra-ên đang đi trong đồng vắng. Các em cảm thấy thế nào? Khí hậu nóng bức cùng mùi của súc vật chung quanh. Các em nghe tiếng chân người và tiếng súc vật kêu. Bỗng nhiên, các em lại nghe có tiếng nhốn nháo phía sau. Chuyện gì vậy? Bây giờ các em mở mắt ra xem chuyện gì xảy ra nhé!

Các em đọc Xuất Ê-díp-tô 17:8 xem chuyện gì đã xảy ra? (Người A-ma-léc đến khiêu chiến). Người A-ma-léc không cho dân Y-sơ-ra-ên và đàn súc vật đi ngang qua vùng đất của họ, nên muốn khiêu chiến. Trong hoàn cảnh đó, Môi-se ra lệnh cho Giô-suê: “Ngươi hãy tuyển chọn một số thanh niên trai tráng để chiến đấu với dân A-ma-léc. Còn ta sẽ đứng trên đỉnh đồi cầm gậy của Đức Giê-hô-va trong tay”. 

Giô-suê lập tức vâng theo chỉ thị của Môi-se, nhanh chóng tuyển quân, sẵn sàng chiến đấu. Giô-suê lãnh đạo quân Y-sơ-ra-ên ra trận. Khi nhìn lên đỉnh đồi, họ thấy Môi-se đang cầm cây gậy giơ cao lên, thì biết ông đang cầu xin Đức Chúa Trời giúp đỡ.

Y-sơ-ra-ên tấn công dân A-ma-léc. Họ đang chiến thắng. Bỗng nhiên, dân A-ma-léc mạnh lên. Dân Y-sơ-ra-ên phải lùi lại. Các em đọc Xuất 17:11 xem tại sao lại như vậy?

Thì ra, thế trận tùy thuộc vào việc Môi-se giơ tay cao lên hay hạ xuống. Khi tay Môi-se hạ xuống, dân A-ma-léc trở nên mạnh mẽ. Môi-se gấp rút giơ hai tay lên, tiếp tục cầu nguyện với Đức Chúa Trời (giáo viên vừa nói vừa giơ hai tay lên, cho các em làm theo). Thật lạ lùng, người A-ma-léc bỗng trở nên yếu đuối. Xem ra, tay của Môi-se không thể nào để xuống được, nhưng ông không thể nào giơ mãi vì sẽ rất mỏi. Các em có cảm thấy mỏi không?

Các em đọc Xuất 17:12 xem Môi-se phải làm thế nào? A-rôn là anh của Môi-se, còn Hu-rơ là bạn. Hai người phải giúp đỡ Môi-se. Họ lấy đá kê cho ông ngồi, rồi hai người ở hai bên nâng cánh tay của Môi-se lên. Đây không phải là một việc dễ, vì tay họ không bao lâu cũng sẽ bị mỏi. Nhưng nhất định họ phải làm như vậy cho đến khi mặt trời lặn. Đây là khoảng thời gian quan trọng để quyết định kết quả trận chiến.

Mặt trời lặn xuống! Giô-suê đánh bại người A-ma-léc. Lúc ấy, chắc Môi-se, A-rôn và Hu-rơ lập tức để tay xuống để nghỉ ngơi. Chính Đức Chúa Trời giúp đỡ Giô-suê chiến thắng dân A-ma-léc.

Sau đó, Đức Chúa Trời nói chuyện với Môi-se. Các em đọc Xuất 17:14 xem Ngài phán dặn Môi-se làm gì? Đức Chúa Trời muốn dân Y-sơ-ra-ên ghi nhớ chính Ngài giúp họ chiến thắng.

Môi-se lập một bàn thờ cho Đức Giê-hô-va, để thờ phượng và cảm tạ Ngài đã giúp dân Y-sơ-ra-ên chiến thắng. Môi-se đặt tên bàn thờ là “Giê-hô-va cờ xí của tôi”, có nghĩa là “Đức Chúa Trời vùa giúp”. Tên gọi này nhắc nhở họ phải ghi nhớ quyền năng và sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời.

3. Ứng dụng.

a. Ôn lại câu chuyện.

Cho các em mở sách học viên bài số 1 và theo hướng dẫn hoàn thành bài tập “Cuộc chiến giữa Y-sơ-ra-ên và A-ma-léc”. Sau đó, cho các em thảo luận: “Nếu Giô-suê sợ hãi không dám vâng lời Môi-se thì sẽ ra sao? Theo em, tại sao Giô-suê vâng theo chỉ thị của Môi-se? (Giô-suê biết Môi-se là người của Đức Chúa Trời, là người lãnh đạo tốt, vâng phục Đức Chúa Trời). Lần này, Giô-suê học tập được gì ở Môi-se? (Một người lãnh đạo không bao giờ quên cầu xin Đức Chúa Trời giúp đỡ).

b. Học câu gốc.

Cho các em chia sẻ phần sinh hoạt đầu giờ, sau đó đọc câu gốc rồi thảo luận: “Trọng tâm câu Kinh Thánh này là gì? (Các em phải lắng nghe và tiếp nhận mọi lời khuyên dạy, nhất là lời khuyên dạy trong Kinh Thánh. Như thế, các em sẽ được sự khôn ngoan và thành công).

c. Áp dụng vào đời sống.

Trước hết thảo luận với các em: “Những người nào là người lãnh đạo trong đời sống của các em?” (Ba, mẹ, thầy, cô, người huấn luyện…). Em tự đánh giá mình được bao nhiêu điểm về phương diện vâng lời họ? (100 điểm là tối đa). Sau đó cho các em theo hướng dẫn hoàn thành bài tập “Lời nói của ai?”

Giáo viên chia sẻ: “Vâng lời đôi khi không phải là việc dễ, bởi vì chúng ta thường thích làm theo ý mình. Nếu những người hướng dẫn khuyên các em làm điều đúng mà các em không nghe theo, thì sẽ thất bại. Xin Đức Chúa Trời giúp đỡ các em vâng phục sự hướng dẫn của người khác, như: Mục sư, ba mẹ, thầy cô, anh chị hướng dẫn… Có một điều chắc chắn các em phải vâng phục, đó là phải tin Chúa Giê-xu để trở nên con cái của Đức Chúa Trời. Các em đã vâng phục Đức Chúa Trời tiếp nhận Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa chưa? (Cho các em cầu nguyện).

BÀI 1.  NGƯỜI LÃNH ĐẠO PHẢI BIẾT VÂNG LỜI (HV)

 I. KINH THÁNH: Xuất E-díp-tô 17:8-16.

II. CÂU GỐC: “Hãy nghe lời khuyên dạy, và tiếp nhận sự giáo hối, để con được khôn ngoan trong lúc cuối cùng” (Châm ngôn 19:20).

III. BÀI TẬP

1. Cuộc chiến giữa Y-sơ-ra-ên và A-ma-léc.

Em chọn lựa hình vẽ thích hợp và trả lời câu hỏi phía dưới.

Tuyển chọn một số người ra trận.

(Hình A).

Kinh Thánh.

(Hình B).

Bàn thờ.

(Hình C).

A-rôn, Hu-rơ.

(Hình D).

Người A-ma-léc.

(Hình E).

Môi-se, A-rôn, Hu-rơ.

(Hình G).

a. Ai khiêu chiến với dân Y-sơ-ra-ên?

Hình ……

b. Môi-se chỉ thị cho Môi-se làm gì?

Hình ……

c. Ai đứng trên đỉnh đồi?

Hình ……

b. Ai giúp đỡ Môi-se khi ông mệt mỏi?

Hình ……

c. Môi-se làm gì sau khi chiến thắng?

Hình …….

d. Môi-se ghi lại sự kiện này vào đâu?

Hình ……

2. Lời nói của ai?

Trong cuộc sống, người lãnh đạo thường ra những chỉ thị. Em dùng đường vẽ nối nhân vật và lời nói sao cho phù hợp. Sau đó, em tự đánh giá mình được bao nhiêu điểm về phương diện vâng lời, nhớ tối đa là 100 điểm nhé!

(từ trên xuống dưới, từ trái qua phải)

 

Cảnh sát.

Giáo viên.

Ba.

Mẹ.

Huấn luyện viên.

Lớp trưởng.

  • Em là cầu thủ dự bị.
  • Đi xe đạp phải đúng đường dành cho xe đạp.
  • Xếp hàng ở đây.
  • Để đồ chơi đúng chỗ.
  • Cắm trại ngày mai phải dừng lại. (Hỏi Trâm câu nầy nghĩa gì?
  • Bạn bè phải giúp đỡ lẫn nhau.
  • Hôm nay bạn trực vệ sinh.
  • Phải đi trên đường dành cho người đi bộ.
  • Làm xong bài mới xem tivi.
  • Đừng đá cầu qua bên trái.
  • Mặc áo lạnh mới ra ngoài.
  • Ngày mai nộp bài.

BÀI 1.  CÁC CÔNG VIỆC TRONG THỜI ĐẠI KINH THÁNH (GV-HV)

BÀI 1.  CÁC CÔNG VIỆC TRONG THỜI ĐẠI KINH THÁNH (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ IV. 2016 on 23 Tháng Bảy, 2018

BÀI 1.  CÁC CÔNG VIỆC TRONG THỜI ĐẠI KINH THÁNH (GV)

I. KINH THÁNH: Ru-tơ 2:1-17; Công Vụ 16:11-15.

II. CÂU GỐC: “Nàng… lạc ý lấy tay mình mà làm công việc” (Châm ngôn 31:13).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: So sánh các việc làm trong thời Bô-ô và Ly-đi với nông dân và thương nhân ngày nay có gì khác nhau.

– Cảm nhận: Các công việc của nông dân hay thương nhân đều có ích.

– Hành động: Trong tuần, em chọn làm một việc hợp với khả năng để giúp đỡ những người chung quanh.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

Giáo viên dựa vào hoàn cảnh thực tế, hướng dẫn các em tiến hành hai sinh hoạt gây hứng thú sau, hoặc chọn lấy một.

* Đề nghị 1: Ghép đôi.

1. Vật liệu: Trang tài liệu A trong sách giáo viên.

2. Chuẩn bị: Photo trang tài liệu A (gồm 2 phần: Hình và chữ). Tô màu phần hình, sau đó cắt tất cả ra thành hai bộ thiệp ghép đôi (một bộ thiệp ghép đôi gồm: 5 tấm hình và 5 tấm giấy có chữ cho mỗi hình).

Chia các em thành hai nhóm, phát cho mỗi nhóm một bộ thiệp ghép đôi. Hướng dẫn các em tiến hành ghép đôi các tấm thiệp hình và chữ như sau:

1. Tìm hình một phụ nữ (Gợi ý: Dưới góc hình đó có một ngôi sao).

2. Người phụ nữ đó là một góa phụ, góa phụ có nghĩa là chồng của bà ta đã chết. Vào thời đại Kinh Thánh, góa phụ không được hưởng gia tài của người chồng để lại. Vì thế họ rất nghèo, cần được sự giúp đỡ của người khác.

3. Tìm mảnh giấy có ghi từ “góa phụ”.

4. Vẽ một ngôi sao dưới góc tờ giấy nầy.

5. Tìm hình vẽ có ký hiệu hình vuông, hình này miêu tả vào thời đại Kinh Thánh, người ta gặt lúa trong đồng ruộng. Đàn ông phụ trách gặt hái, phụ nữ và trẻ em đem những bông lúa đã gặt bó thành từng bó.

6. Tìm tờ giấy có ghi từ “thu hoạch”. Vẽ dưới góc ký hiệu hình vuông.

7. Tìm hình vẽ có ký hiệu hình tròn, đây là một con dao đặc biệt, nó vừa dài vừa cong, chuyên dùng để gặt hái.

8. Con dao đó được gọi là “lưỡi liềm”. Vẽ ký hiệu hình tròn vào tờ giấy.

9. Tìm hình vẽ có ký hiệu hình bán nguyệt, góa phụ này đang lượm những bông lúa còn sót lại (Những bông lúa rơi lại sau khi đã cột thành từng bó). Vào thời đại Kinh Thánh, Đức Chúa Trời phán rằng, phải cho những người nghèo khó lượm những bông lúa rơi trên đồng ruộng.

10. Tìm tờ giấy có ghi từ “mót lúa”. Vẽ ký hiệu hình bán nguyệt vào tờ giấy.

11. Hình vẽ cuối cùng có nghĩa là gì đây? Đúng rồi, người đàn ông nầy đang đập lúa, những hạt lúa rơi chung quanh, việc nầy được gọi là “đập lúa”.

12. Tìm tờ giấy có ghi từ “đập lúa”. Vẽ ký hiệu hình tam giác vào tờ giấy.

13. Ghép đôi những hình vẽ và tờ giấy lại theo ký hiệu (Cho các em đem những hình vẽ và tờ giấy dán lên bảng).

B. BÀI HỌC KINH THÁNH

(Chuẩn bị thị cụ: Photo lớn trang tài liệu A hình 1-13 trong sách giáo viên, trang tư liệu A trong tập học viên).

  1. Vào đề.

Đức Chúa Trời tạo dựng nên mỗi người có sở thích và khả năng khác nhau, Chúa cho chúng ta tự do lựa chọn những công việc khác nhau để làm. Em thử kể ra một số công việc mà những người em biết đang làm? Họ là công nhân, nông dân, giáo viên, thầy thuốc…

Kinh Thánh cho chúng ta biết một số công việc mà những ngươi thời xưa đã làm (Cho các em xem hình, dùng những hình nầy làm ví dụ). Bài học nầy sẽ cho các em biết rõ hơn về các công việc mà người ta làm trong thời đại Kinh Thánh.

2. Bài học.

a. Câu chuyện của người nông dân.

Kinh Thánh kể rằng: Bô-ô là một nông gia rất giàu có. Lúc ấy, những cánh đồng ngút ngàn, cò bay thẳng cánh của ông đang vào mùa thu hoạch (cho các em xem hình 1). Những người làm công cho Bô-ô đang thoăn thoắt cắt những bông lúa trĩu nặng bằng chiếc lưỡi liềm bén ngót, cong vút. Sau đó, phụ nữ và trẻ em gom những bông lúa đã cắt bó lại thành từng bó. Trong mùa thu hoạch mọi người đều rất bận rộn.

Một hôm, ông Bô-ô đến thăm một trong những cánh đồng của mình, ông thấy một phụ nữ đang mót những bông lúa mà những thợ gặt làm rơi lại. Bô-ô chưa từng gặp người nầy bao giờ, ông hỏi những người làm công: “Người phụ nữ đó là ai?” Người ta trả lời: “Đó là dâu của bà Na-ô-mi, tên là Ru-tơ”. Tuy chưa từng gặp Ru-tơ, nhưng ông Bô-ô có nghe rằng chồng cô đã qua đời – như vậy, cô ta là một góa phụ (Đưa ra hình 1 và mời một em tìm tờ giấy có ghi từ “góa phụ”). Ông Bô-ô cũng biết bà Na-ô-mi là một góa phụ, vì ông là bà con xa với gia đình chồng bà. Bô-ô còn biết, Ru-tơ không trở về nhà cha mẹ mình mà quyết định ở lại sống cùng Na-ô-mi. Ông biết Ru-tơ yêu thương Na-ô-mi, sẵn lòng giúp đỡ Na-ô-mi trong lúc tuổi già. Vì thế, ông Bô-ô quyết định giúp đỡ Ru-tơ. Ông bảo Ru-tơ cứ tiếp tục mót lúa trong ruộng của mình, cũng như được uống nước trong bình như các thợ gặt khác. Đến giờ ăn, Bô-ô gọi Ru-tơ: “Đến đây ăn với chúng tôi”. Bô-ô đem bánh và hột mạch rang cho Ru-tơ ăn no nê. Phần còn dư lại, Ru-tơ nghĩ thầm: “Mình sẽ gói đem về cho mẹ. Nhất định mẹ mình rất thích những hột mạch rang nầy”.

Sau đó, Ru-tơ tiếp tục mót lúa. Ông Bô-ô dặn những người giúp việc: “Hãy để cho nàng mót lúa bất cứ nơi đâu. Thỉnh thoảng rút ra ít bông lúa bỏ cho nàng nhặt”. Còn Ru-tơ cứ mãi miết mót nhặt đến chiều tối, Ru-tơ rất vui vì số lúa có được nhiều hơn so với suy nghĩ. Nhờ sự nhân từ của Bô-ô mà Ru-tơ và Na-ô-mi có đủ lương thực để sống trong những ngày khó khăn.

b. Câu chuyện của người thương gia.

Buôn bán là một công việc quan trọng ngày nay. Đó cũng là một công việc quan trọng trong thời đại Kinh Thánh. Những người làm công việc nầy được gọi là thương gia.

Vào thời đại Kinh Thánh, đa số các cửa hiệu trong thành phố đều tập trung tại một khu vực, được gọi là chợ. Các cửa hiệu đều hướng về mặt đường (cho các em xem hình).

Kinh Thánh Tân Ước có nói đến một thương nhân tên là Ly-đi (Mở Kinh Thánh Công vụ 16, đồng thời đưa ra hình 12). Bà Ly-đi có một cửa tiệm buôn bán hàng sắc tía. Vào thời đó, hàng sắc tía rất quí, chỉ có những người giàu có sang trọng mới mặc những áo quần bằng loại vải nầy. Quần áo của vua chúa và những người bà con của họ đều may bằng hàng sắc tía.

Bà Ly-đi buôn bán hàng sắc tía, đương nhiên là rất giàu có. Trong căn nhà rộng lớn bà có rất nhiều người giúp việc. Kinh Thánh còn cho chúng ta biết, bà Ly-đi là người yêu mến Đức Chúa Trời. Cứ mỗi thứ bảy, bà đều cùng một vài phụ nữ cầu nguyện bên bờ sông. Vào một thứ bảy nọ, khi những phụ nữ nầy đang cầu nguyện, sứ đồ Phao-lô đến trò chuyện với họ. Ông phát hiện họ vẫn chưa hiểu biết về Chúa Giê-xu. Phao-lô liền giải thích cho họ biết, Chúa Giê-xu là Con Một của Đức Chúa Trời, Ngài đã chịu chết trên thập tự giá để loài người được tha tội. Tiếp sau đó, Phao-lô cho họ biết Chúa Giê-xu đã từ kẻ chết sống lại và hiện nay đang ngồi bên hữu Đức Chúa Trời để cầu thay cho loài người.

Bà Ly-đi nhận biết những lời Phao-lô nói là thật, bà tin Chúa Giê-xu và trở thành một thành viên trong gia đình của Chúa. Rồi bà mời Phao-lô cùng bạn của ông đến thăm nhà bà và ở với gia đình bà một thời gian để rao giảng Tin Lành.

3. Ứng dụng

Hướng dẫn các em trả lời các câu hỏi sau: Bô-ô giúp đỡ Ru-tơ bằng cách nào? Thương nhân Ly-đi làm thế nào để giúp đỡ Phao-lô và bạn của ông? Em có cho rằng Bô-ô và Ly-đi đều thích công việc của mình không? Vì sao?

Trong phần trắc nghiệm, giáo viên dựa vào gợi ý trong tập học viên hướng dẫn các em chia sẻ: Nhận biết công việc của Bô-ô và Ly-đi có giúp em hiểu biết về Kinh Thánh hơn không? Các em sẽ làm gì để giúp đỡ người chung quanh mình? (Những gì được Kinh Thánh chép lại đều là người thật việc thật).

BÀI 1. CÁC CÔNG VIỆC TRONG THỜI ĐẠI KINH THÁNH (HV)

I. KINH THÁNH: Ru-tơ 2:1-17; Công Vụ 16:11-15.

II. CÂU GỐC: “Nàng … lạc ý lấy tay mình mà làm công việc” (Châm

ngôn 31:13).

III. BÀI TẬP.

A. CÁC CÔNG VIỆC XƯA VÀ NAY.

Nối các công việc của Bô-ô và các công việc tương tự hiện nay

lại với nhau. Dùng cách như vậy tìm ra công việc ngày nay tương tự với công việc của Ly-đy ngày xưa.

B. TRẮC NGHIỆM.
Đánh dấu “x” vào hình vẽ không đúng.
– Người mót lúa là người …
– Những ai thường đến mua hàng
sắc tía?
– Dụng cụ mà người nông dân dùng
để gặt lúa.
– Các cửa hiệu trong thời đại Kinh
Thánh …

 

BÀI 1.  EM BÉ GIÊ-XU (GV-HV)

BÀI 1.  EM BÉ GIÊ-XU (GV-HV)

in ẤU NHI, BAN NGÀNH, QUÍ IV. 2016 on 23 Tháng Bảy, 2018

BÀI 1.  EM BÉ GIÊ-XU (GV)

I. KINH THÁNH: Ma-thi-ơ 1:18-25; Lu-ca 2:1-7.

II. CÂU GỐC: “Đức Chúa Giê-xu đã sanh tại thành Bết-lê-hem” (Ma

thi-ơ 2:1a).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Đức Chúa Giê-xu đã giáng sinh tại thành Bết-lê-hem.

– Cảm nhận: Chúa đến thế gian nầy vì yêu thương em.

– Hành động: Cảm tạ và sẵn lòng làm bạn của Chúa.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Chuẩn bị:

– Một con búp bê bằng nhựa hoặc vải.

– Giấy thủ cong màu nâu hoặc xám đen (đủ để làm “cỏ khô”

trong một cái máng).

– Kéo (không nhọn), mỗi em một cây.

– Một thùng giấy lớn, nhưng không cao quá 10 cm, để làm

“máng cỏ” (nhưng trong khi làm, giáo viên tạm thời không cho biết đó

là máng cỏ).

* Thực hiện:

– Cho các em cắt giấy thủ công thành sợi để làm cỏ khô, rồi đem

cỏ khô để vào thùng giấy, làm thành máng cỏ.

– Cho búp bê nằm trong “máng cỏ” và đố các em đó là cái gì,

cuối cùng mới nói với các em là đã làm ra một cái máng cỏ. Giải thích

cho các em máng cỏ là dùng để đựng thức ăn của loài vật.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

1. Vào bài.

Các em thân mến, chúng ta vừa làm một cái máng cỏ, là vật

dụng để đựng thức ăn cho loài vật. Có một câu chuyện trong Kinh

Thánh cũng kể về một cái máng cỏ, nhưng máng cỏ nầy lại còn được

dùng cách đặc biệt cho một việc khác, các em hãy theo dõi câu chuyện

để biết nhé!

2. Bài học.

(Cho xem hình Giô-sép, Ma-ri đang tìm quán trọ).

Đây là ông Giô-sép (chỉ vào hình Giô-sép) và đây là bà Ma-ri

(chỉ vào bà Ma-ri). Hai người nầy đang đi tìm quán trọ. Các em có biết

quán trọ là gì không? Là nơi để những người không có nhà, thuê để ở

tạm vài ngày, sau đó trả tiền cho chủ nhà rồi ra đi. Nhưng ngay lúc

nầy, những người chủ quán ở nơi nào cũng nói với họ là không còn chỗ

nữa.

Các em xem, bụng của bà Ma-ri rất lớn, đó là vì bà đang có em

bé. Trông bà rất mệt mỏi, phải không? Bởi vì ông bà đã đi một đoạn

đường quá xa và em bé trong bụng bà Ma-ri dường như muốn ra đời.

Đang lúc như vậy mà không có phòng trọ, thì làm sao được? (Ngưng

một chút cho các em suy nghĩ). Cuối cùng, một người chủ quán thấy

dáng vẻ bà Ma-ri quá mệt và nặng nhọc, nên bảo rằng: “Quán chúng

tôi chỉ còn một chỗ, nhưng ở đó không được sạch, lại không có giường

nằm, chỉ là nơi để cho chiên, bò, lừa của khách trọ ở mà thôi, ông bà

có thể ở tạm nơi đó được không?” Ông Giô-sép thấy bên ngoài thì

đang lạnh lẽo, mà bà Ma-ri thì đau bụng dường như muốn sinh em bé,

không thể đi nổi nữa, nên ông đành phải ở tạm nơi đó.

Đêm đó, các em biết không, em bé đã được sinh ra. Ông Giô-

sép và bà Ma-ri đã đặt tên cho em bé là Giê-xu. Vì không có giường,

nên em bé được đặt nằm trong máng cỏ lót bằng rơm. (Cho các em

xem máng cỏ tự làm, lót cỏ khô làm bằng giấy sợi, cho búp bê nằm

bên trong làm em bé Giê-xu, cho học viên vỗ vỗ em bé). Chắc các em

đã biết em bé Giê-xu sau nầy là ai rồi, phải không? Các em nói thử

xem nào! (Cho các em trả lời – Chúa Giê-xu). Như vậy, ngày Chúa

Giê-xu sinh ra, bây giờ người ta gọi là ngày gì? (Ngày Lễ Giáng sinh).

3. Ứng dụng.

Các em thấy nơi Chúa Giê-xu sinh ra như vậy có tốt không? Vì

sao Con của Đức Chúa Trời lại phải sinh ra trong nơi nghèo hèn như

thế? Đó là vì Chúa yêu thương chúng ta, Ngài muốn tất cả mọi người

đều được đến cùng Ngài, từ người giàu cho đến người nghèo, từ người

lớn cho đến các bạn nhỏ như các em. Chúa Giê-xu bằng lòng làm bạn

với tất cả mọi người.

Các em có thích được làm bạn với Chúa Giê-xu không?

C. BÀI TẬP.

* Chuẩn bị.

– Giáo viên dùng giấy màu cắt sợi nhỏ làm cỏ (làm đủ lượng cần

thiết cho cả học viên trong lớp), keo dán.

– Cắt hình trong bài 1, tập học viên.

* Thực hiện.

– Làm bài tập “Chúa Giê-xu giáng sinh ở máng cỏ”, cho các em

bôi keo lên máng cỏ, rồi dán cỏ vào, sau cùng, dán hình em bé

Giê-xu vào đó.

BÀI 1. EM BÉ GIÊ-XU (HV)

I. KINH THÁNH: Ma-thi-ơ 1:18-25; Lu-ca 2:1-7.

II. CÂU GỐC: “Đức Chúa Giê-xu đã sanh tại thành Bết-lê-hem”

(Ma-thi-ơ 2:1a).

III. BÀI HỌC.

Đức Chúa Giê-xu đã giáng sinh tại thành Bết-lê-hem.

* Tô màu hình vẽ.

* Chúa Giê-xu giáng sinh ở máng cỏ.

Em dán hình máng cỏ và em bé Giê-xu vào đúng vị trí.

BÀI 13.  BÀI ÔN (GV-HV)

BÀI 13.  BÀI ÔN (GV-HV)

in QUÍ III. 2016, THIẾU NHI on 20 Tháng Bảy, 2018

BÀI 13.  BÀI ÔN (GV-HV)

Tuần lễ cuối quý nầy, giáo viên giúp các em ôn lại những nhân vật đã học trong quí như: Môi-se, Ba-la-am, Giô-suê, hai thám tử, Ra-háp, A-can, Đê-bô-ra, Ba-rác, Ghê-đê-ôn… rút ra những việc làm đặc biệt của họ, để lấy đó làm sự dạy dỗ, nhắc nhở các em.

Cho các em ôn lại những câu gốc đã học trong quí nầy, để lời của Chúa vun đắp thêm cho đức tin của các em được trưởng thành.

Sau đó cho các em làm bài khảo sát trong tập học viên. Nếu có thể được, các bạn chuẩn bị vài gói quà nhỏ để khích lệ những em đã làm bài tốt.

SINH HOẠT.

Chúc mừng các em đã học xong 12 bài trong quý này. Các em đã học biết về gương tốt cũng như những gương xấu của các nhân vật. Trong giờ sinh hoạt hôm nay, các em sẽ chơi trò “Tâm đầu ý hiệp” để ôn lại điều nào em nên học và điều nào em nên từ bỏ.

– Chia lớp ra làm nhiều nhóm (mỗi nhóm 5-6 người), xếp thành hàng dọc. NHD phát cho mỗi nhóm một tờ giấy dài và một cây viết.         – Sau khi nghe lệnh của NHD, người đầu nhóm chọn tên một nhân vật đã học như Môi-se, A-háp, Giô-suê, Ba-la-am, A-can, Ba-rác, Đê-bô-ra, Ghê-đê-ôn… xong gấp lại rồi chuyền cho người thứ hai.

– Người thứ hai xem xong rồi viết tiếp một câu diễn tả ưu khuyết điểm của nhân vật đó, gấp lại rồi chuyền cho người thứ ba và cứ tiếp tục cho đến người cuối cùng.

– Người cuối cùng xem phần viết của người vừa đưa cho mình rồi đoán xem nhân vật đó là ai và ghi vào giấy nộp cho NHD.

Luật chơi: Chỉ được phép xem phần viết của người kế mình.

– Ví dụ: (1) Ba-la-am, (2) tham của cải vật chất, (3) lấy cái áo choàng, (4) Giấu trong trại, (5) Bị ném đá chết, (6) Ba-la-am.

BÀI 13. BÀI ÔN (GV-HV)

BÀI 13. BÀI ÔN (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ III. 2016 on 20 Tháng Bảy, 2018

BÀI 13. BÀI ÔN (GV-HV)

I. KINH THÁNH: Tất cả các đoạn Kinh Thánh đã học trong quí.

II. CÂU GỐC: Tất cả những câu gốc đã học trong quí.

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Qua đời sống của Đa-vít, Đức Chúa Trời đã thực hiện lời hứa của Ngài cho dòng dõi ông.

– Cảm nhận: Sống đẹp lòng Chúa sẽ nhận được phước hạnh Chúa ban.

– Hành động: Em quyết tâm sống đẹp lòng Chúa.

III. ÔN CÂU GỐC.

Chuẩn bị giấy trắng tương ứng với số hiện diện của các em. Giáo viên viết một câu gốc lên mỗi mẫu giấy, nhưng không viết địa chỉ hoặc viết địa chỉ nhưng không viết câu gốc (những câu gốc đã học trong quí). Gọi từng em lên bốc thăm và nói lên địa chỉ hoặc câu gốc còn thiếu. Em nào đáp đúng được thưởng một chiếc kẹo.

IV. PHẦN ÔN BÀI.

Bạn phải nắm vững nội dung của mỗi bài, điểm lại những ý nào nên nhấn mạnh, những ý nào nên lướt.

Bạn ôn bài theo thứ tự. Có thể thay đổi theo các cách ôn sau đây.

  1. Gắn hình (nếu có) của mỗi truyện tích lên bảng. Cho các em nói tên nhân vật, công việc của họ; gợi ý bằng những câu hỏi để giúp các em nhớ hết câu chuyện. Bạn cho các em nói luôn phần ứng dụng. Sau đó bạn sơ lược câu chuyện, nhấn mạnh những điểm chính, nêu lên sự dạy dỗ để các em có thể nắm vững những điều đã học.
  2. Kể lại câu chuyện em thích và nhớ nhất.
  3. Giáo viên nhắc lại đặc điểm của mỗi nhân vật nhưng không dùng tên, chỉ dùng từ “tôi” để hỏi các em: “Tôi là ai?” Ví dụ: “Tôi có một người bạn thân đàn hát rất hay. Tôi là ai?”

 

BÀI  13.  BÀI ÔN (GV-HV)

BÀI  13.  BÀI ÔN (GV-HV)

in ẤU NHI, QUÍ III. 2016 on 20 Tháng Bảy, 2018

BÀI  13.  BÀI ÔN (GV-HV)

I. KINH THÁNH: Tất cả những đoạn Kinh Thánh học trong quý.

II. CÂU GỐC: Ôn lại tất cả câu gốc đã học và chọn ra 3 câu cho các em thi.

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Nhớ lại những gì đã học trong quý.

– Cuộc đời và sự giáng sinh của Chúa Cứu Thế đã được Đức Chúa Trời báo qua các tiên tri từ thời Cựu Ước.

– Trước khi Chúa Cứu Thế giáng sinh thiên sứ loan báo cho nhiều người.

– Chúa Cứu Thế lớn lên và sống đẹp lòng Đức Chúa Trời và mọi người.

IV. CÁCH ÔN:

  1. Dùng những hình vẽ hay thị cụ minh họa cho bài học trong lúc dạy, để cho các em hứng thú trong học tập.
  2. Cho mỗi em tự thuật lại câu chuyện nào đó của Chúa Cứu Thế mà các em thích nhất.
  3. Soạn những câu hỏi cho các em trả lời để thi đua.
  4. Chia ra nhiều tổ để các em đóng kịch về những câu chuyện các em đã học.
  5. Chuẩn bị kẹo bánh, quà làm phần thưởng cho các em.