Latest News From Our Blog

BÀI 9. GIỮ LỜI HỨA (GV-HV)

BÀI 9. GIỮ LỜI HỨA (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ III. 2016 on 18 Tháng Bảy, 2018

BÀI 9. GIỮ LỜI HỨA (GV)

I. KINH THÁNH: 1Sa-mu-ên 20:12-17; 2Sa-mu-ên 4:4, 5:1-5; 9:1-13.

II. CÂU GỐC: “Khi một người nào có hứa nguyện …thì chớ nên thất tín. Mọi lời ra khỏi miệng người, người phải làm theo” (Dân Số Ký 3:3).

III. BÀI TẬP.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Con rối bằng que kem.

1. Mục đích: Giúp các em nhớ lại câu chuyện Đa-vít và Giô-na-than hứa nguyện với nhau (bài 6), để tạo ấn tượng cho câu chuyện Kinh Thánh nầy.

2. Vật liệu: Tập học viên bài 6 và 9, giấy cứng, viết chì, viết lông màu, kéo, hồ dán, que kem.

3. Thực hiện:

Giúp các em làm con rối bằng que kem theo hướng dẫn trong tập học viên bài 9.

Gợi ý các em vẽ hình Đa-vít và Giô-na-than cao khoảng 20cm. Các em có thể diễn kịch rối theo lời thoại trong bài 6 hoặc tự đặt lời thoại.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị thị trợ: Rối hình que (vua Đa-vít, Mê-phi-bô-sết A, B, Xíp-ba, Na-than – xem phụ lục).

1. Vào đề.

Các em thân mến, các em có thích làm cho người khác vui không? Chắc hẳn trong chúng ta ai cũng muốn đem niềm vui đến cho người khác. Tuần trước các em có tặng quà cho ai không? Người đó có vui và bất ngờ khi nhận được quà không? (Cho các em chia sẻ kinh nghiệm). Khi các em đối xử tốt với người khác, chẳng những người ấy vui mà các em cũng cảm thấy vui nữa. Em nào có thể kể lại câu chuyện về ba người bạn của Đa-vít? (Họ không ngại nguy hiểm, đến cửa thành Bết-lê-hem lấy nước giếng về cho Đa-vít uống). Đa-vít biết họ yêu quí mình bởi vì họ sẵn sàng làm vui lòng ông. Câu chuyện hôm nay nói về việc Đa-vít làm vui lòng người khác khi giữ trọn lời hứa với Giô-na-than. (Mời hai em lên, dùng hình rối đã làm trong phần “Sinh hoạt đầu giờ” để kể lại câu chuyện). Bây giờ các em cùng lắng nghe câu chuyện nầy xem Đa-vít đã giữ trọn lời hứa như thế nào nhé.

2. Bài học.

(Theo diễn tiến câu chuyện mà dùng rối que để diễn). Đa-vít và những người theo ông vẫn tiếp tục ẩn náu để trốn tránh vua Sau-lơ. Một ngày kia, có người chạy đến gặp Đa-vít nói: “Tôi vừa mới từ trại quân Y-sơ-ra-ên đến đây”. Đa-vít vội hỏi: “Tình hình chiến trận thế nào?” Người kia vừa thở gấp vừa trả lời: “Quân Phi-li-tin đã thắng trận, vua Sau-lơ và Giô-na-than đều đã chết nơi chiến trường”.

Chết rồi ư? Đa-vít sững sờ! Ông thật không thể tin điều mình vừa nghe. Người bạn thân thiết đã chết, cả vua Sau-lơ cũng vậy. Từ giờ về sau, Đa-vít sẽ không bao giờ được gặp lại họ nữa. Đa-vít cảm thấy đau xót mà chẳng biết làm gì. Ông cầu nguyện với Đức Chúa Trời và Ngài bảo ông đến thành Hếp-rôn. Khi đến nơi, những người trong các chi phái đến gặp Đa-vít và tôn ông lên làm vua. Họ nói: “Chúng tôi muốn lập ngài làm vua. Khi Sau-lơ đang làm vua thì chính ngài đã lãnh đạo chúng tôi. Đức Chúa Trời phán ngài là người chăn và là vua của chúng tôi” (2Sa-mu-ên 5:2).

Lên ngôi, Đa-vít phải lo nhiều việc. Trước hết, phải đánh đuổi kẻ thù, sau đó, xây một đền thờ thật đẹp ở Giê-ru-sa-lem để thờ phượng Đức Chúa Trời.

Một hôm, Đa-vít nghĩ đến Giô-na-than và nhớ đến lời hứa của mình với người bạn thân năm xưa. Đa-vít liền tìm cách để thực hiện lời hứa. Ông cho gọi một đầy tớ của Sau-lơ đến và hỏi: “Trong gia đình vua Sau-lơ có ai còn sống không? Ta muốn vì cớ Giô-na-than  mà trả ơn”. Xíp-ba trả lời: “Có một người con trai của Giô-na-than  còn sống nhưng bị tật hai chân”. Nghe vậy, Đa-vít lập tức cho người đi tìm con trai Giô-na-than là Mê-phi-bô-sết.

Đến gặp Đa-vít, Mê-phi-bô-sết sợ hãi sấp mình xuống đất, cúi đầu lạy. Một vị vua mới lên ngôi thường giết hết những người trong gia tộc của vua cũ để ngai vàng được vững bền. Vì là cháu nội của vua Sau-lơ nên Mê-phi-bô-sết sợ Đa-vít sẽ giết mình. Đa-vít biết vậy nên nói: “Mê-phi-bô-sết, đừng sợ! Ta đã hứa với cha con là sẽ đối xử tốt với con của người. Ta sẽ giao tất cả đất đai của ông nội con lại cho con và từ đây về sau, con sẽ ăn chung bàn với ta trong hoàng cung”. Mê-phi-bô-sết cúi đầu lạy: “Tôi là ai mà được vua đối xử tốt như vậy?”  Thấy Mê-phi-bô-sết vui mừng, Đa-vít rất vui. Đa-vít gọi Xíp-ba đến căn dặn: “Ta đã ban cho cháu nội của chủ ông tất cả tài sản của gia đình Sau-lơ trước kia, vậy ông sẽ cùng các con trai và đầy tớ mình cày cấy đất đó, lấy hoa lợi phụng dưỡng nhà chủ”. Xíp-ba làm theo lời vua Đa-vít dặn bảo.

Từ đó, Mê-phi-bô-sết sống hạnh phúc, tự do, vui vẻ trong hoàng cung. Tất cả là nhờ vua Đa-vít giữ trọn lời hứa với người bạn thân của mình là Giô-na-than.

3. Ứng dụng.

– Hướng dẫn các em suy nghĩ và nói lên điều mình sẽ ghi vào khoảng trống trong hình vẽ (có thể là: “Ta sẽ chăm sóc con”, “Con hãy ở với ta”, hoặc “Đừng sợ…”). Khi các em chia sẻ xong, viết lại lời hứa của Đa-vít với Mê-phi-bô-sết.

– Tại sao cần phải giữ lời hứa? (Để người khác có lòng tin nơi mình và cũng là cách bày tỏ tình yêu thương).

– Hướng dẫn các em suy nghĩ trong tuần nầy sẽ hứa với ai điều gì? Đây phải là những lời hứa có thể thực hiện được.

– Nếu gặp trở ngại khiến các em khó giữ lời hứa, em sẽ làm gì? Nên gặp trực tiếp hoặc viết thư xin lỗi và giải thích nguyên nhân với người mà em đã hứa. Nhưng đó là trường hợp ngoại lệ, vì một khi đã hứa với ai điều gì, các em phải luôn giữ lời hứa và thực hiện cho đúng.

– Hướng dẫn các em làm sổ hứa nguyện hoặc thiệp kết ước theo tập học viên bài 9.

– Khuyến khích các em thực hiện kế hoạch và dặn các em tuần sau đến lớp chia sẻ với các bạn hai việc sau: (1) Điều gì xảy ra khi em tặng thiệp hoặc sổ ấy cho người khác? (2) Em làm cách nào để thực hiện tốt lời hứa?

– Sau đó, giáo viên hướng dẫn các em cầu nguyện, xin Chúa giúp các em sống yêu thương và biết giữ lời hứa.

V. PHỤ LỤC.

* Rối hình que.

1. Vật liệu: Giấy cứng, que kem, hồ dán, kéo, viết chì, viết chì màu.

Cách làm: Giáo viên dùng viết chì vẽ theo các hình sau đây rồi tô màu, và dùng băng keo dán que vào phía sau hình (Xem tập học viên bài 9).

BÀI 9. GIỮ LỜI HỨA (HV)

I. KINH THÁNH: 1Sa-mu-ên 20:12-17; 2Sa-mu-ên 4:4, 5:1-5; 9:1-13.

II. CÂU GỐC: “Khi một người nào có hứa nguyện …thì chớ nên thất tín. Mọi lời ra khỏi miệng người, người phải làm theo” (Dân Số Ký 3:3).

III. BÀI TẬP.

A. THỬ TÀI EM.

Em hãy dùng con rối trên thanh tre kể lại câu chuyện Đa-vít và Giô-na-than. Em vẽ hai nhân vật Đa-vít và Giô-na-than trên giấy cứng.

Sau khi vẽ xong, cắt hình ra dán lên thanh tre.

 

 

Em có thể kể lại câu chuyện trong bài 6 bằng lối diễn đạt của em, hoặc dùng lời thoại trong bài 6.

* Nội dung vở diễn.

1. Giô-na-than tặng gì cho Đa-vít?

2. Đa-vít hứa gì với Giô-na-than?

* Đa-vít giữ lời hứa như thế nào? Hoàn tất bức tranh sau đây bằng câu nói của Đa-vít.

 

 

 

B. GIỮ LỜI HỨA.

1. Giữ lời hứa với người khác cũng là cách bày tỏ tình yêu thương.

2. Dùng một trong những cách sau để ghi nhớ lời hứa của mình.

a. Làm sổ hứa nguyện, ghi những lời hứa của mình vào đó.

b. Làm thiệp hứa nguyện, ghi lời hứa của mình. HỨA NGUYỆN

– Tặng sổ hay thiệp hứa nguyện nầy cho người mình đã hứa.

BÀI 9. SI-MÊ-ÔN VÀ AN-NE CA NGỢI CHÚA CỨU THẾ (GV-HV)

BÀI 9. SI-MÊ-ÔN VÀ AN-NE CA NGỢI CHÚA CỨU THẾ (GV-HV)

in ẤU NHI, QUÍ III. 2016 on 18 Tháng Bảy, 2018

BÀI 9. SI-MÊ-ÔN VÀ AN-NE CA NGỢI CHÚA CỨU THẾ (GV)

I. KINH THÁNH: Lu-ca 2:22 – 40.

II. CÂU GỐC: “Và mọi lưỡi thảy đều xưng Giê-xu Chirst là Chúa” (Phi-líp 2:11a).

III. MỤC ĐÍCH:

– Biết: Si-mê-ôn và An-ne ca ngợi Hài nhi Giê-xu là Chúa Cứu Thế.

– Cảm nhận: Ca ngợi Chúa hết lòng là bày tỏ lòng yêu mến và kính sợ Chúa.

– Hành động: Em ca ngợi Chúa Giê-xu để bày tỏ tình yêu của em đối với Ngài.

II. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Em Ca Ngợi Chúa.

1. Chuẩn bị: Một số Bài hát ca ngợi Chúa Giê-xu.

2. Thực hiện. Si-mê-ôn và An-ne ca ngợi Cứu Thế, các em cũng ca ngợi Chúa với cả tấm lòng mình nha!

Giáo viên chia các em làm hai tổ, cho các em hát những Bài hát đã chuẩn bị, rồi cho các em thi đua hát ca ngợi Chúa (không được hát trùng bài). Tổ nào thuộc nhiều bài hát về Chúa Giê-xu sẽ thắng. Sau đó cho các em trong nhóm thắng thi đua với nhau để chọn em thuộc nhiều bài hát về Chúa Giê-xu nhất.

* Đề nghị: Giáo viên chuẩn bị phần thưởng để khích lệ các em, nhất là em thuộc nhiều bài hát nhất.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

1. Vào đề.

Các em thân mến! Các em còn nhớ bài học tuần vừa rồi vua Hê-rốt đã làm gì? Ai đã đến báo tin cho Giô-sép đem Chúa Giê-xu và mẹ Ngài lánh qua Ai-cập? Sau khi vua Hê-rốt chết, Giô-sép đưa Chúa Giê-xu và mẹ Ngài trở về đâu? (Cho các em suy nghĩ trả lời).

Khác với vua Hê-rốt, hai người trong câu chuyện Kinh Thánh hôm nay rất vui mừng khi gặp hài nhi Giê-xu. Các em cùng theo dõi để biết họ là ai và đã nói gì về Ngài các em nhé!

2. Bài học.

Tiên tri Ê-sai đã báo trước Đấng Mê-si sẽ đến thế gian. Và Đức Chúa Trời hứa với cụ Si-mê-ôn sẽ thấy Đấng ấy trước khi cụ qua đời. Cụ Si-mê-ôn là người rất yêu mến Đức Chúa Trời và được mọi người kính phục.

Một ngày kia, cha mẹ Chúa Giê-xu bồng Ngài đến đền thờ dâng cho Đức Chúa Trời. Lúc đó, cụ Si-mê-ôn cũng có mặt tại đó. Khi nhìn thấy Con Trẻ, cụ nhận biết Con Trẻ chính là Đấng Cứu Thế. Cụ đến xin bồng Chúa Giê-xu. Các em thử tưởng tượng xem cụ bồng Chúa Giê-xu để làm gì?

Bồng Chúa Giê-xu trên tay, cụ Si-mê-ôn ca ngợi Ngài rằng: “Chúa ôi! Mắt tôi đã thấy sự cứu rỗi của Ngài. Ngài là Đấng Mê-si, là Chúa Cứu Thế của muôn dân”. Các em có đồng ý với cụ Si-mê-ôn, Chúa Giê-xu là Chúa Cứu Thế của các em không? Tại sao? (Cho các em tự do trả lời, giáo viên giải thích cho các em).

Một cụ bà tên là An-ne đã 84 tuổi, suốt cuộc đời bà sống và phục vụ Đức Chúa Trời trong đền thờ. Mọi người rất yêu mến và tôn trọng bà. Thấy Si-mê-ôn ẵm Chúa Giê-xu và ca ngợi Ngài. Bà cũng nhận biết Con Trẻ là Đấng Cứu Thế. Bà vui mừng cảm tạ Đức Chúa Trời đã thực hiện lời hứa của Ngài. Bà ca ngợi Chúa Giê-xu và giải thích cho những người trông đợi Đấng Mê-si, chính Con Trẻ là Chúa Cứu Thế.

Bây giờ các em biết hai người đó là ai chưa? Họ đã làm gì khi gặp Chúa Giê-xu? (Cho các em tự do trả lời). Đó là cụ Si-mê-ôn và bà An-ne.

3. Ứng dụng:

Các em thân mến! Cụ Si-mê-ôn và bà An-ne đều vui mừng ca ngợi Chúa Giê-xu, tôn Ngài là Cứu Chúa của họ. Còn các em, các em muốn ca ngợi Ngài không? Các em có tôn Chúa Giê-xu là Cứu Chúa của các em không?

* Chuẩn bị.

– Kéo, keo, viết chì màu, viết chì.

* Thực hiện.

– Cho các em tô màu hình vẽ.

BÀI 9. SI-MÊ-ÔN VÀ AN-NE CA NGỢI CHÚA CỨU THẾ (HV)

I. KINH THÁNH: Lu-ca 2:22 – 40.

II. CÂU GỐC: “Và mọi lưỡi thảy đều xưng Giê-xu Chirst là Chúa” (Phi-líp 2:11a).

III. BÀI HỌC: Si-mê-ôn và An-ne ca ngợi Hài nhi Giê-xu là Chúa Cứu Thế.

1. BÀI TẬP: Cho các em tô màu hình vẽ.

BAI 8. LỖI LẦM CỦA GIÔ-SUÊ (GV-HV)

BAI 8. LỖI LẦM CỦA GIÔ-SUÊ (GV-HV)

in QUÍ III. 2016, THIẾU NHI on 18 Tháng Bảy, 2018

BAI 8. LỖI LẦM CỦA GIÔ-SUÊ (GV)

I. KINH THÁNH: Giô-suê 9; 10:1-15.

II. CÂU GỐC: “Người nào để trí mình nương dựa nơi Ngài, thì Ngài sẽ gìn giữ người trong sự bình an trọn vẹn, vì người nhờ cậy Ngài” (Ê-sai 26:3).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Lỗi lầm của Giô-suê là không cầu hỏi Chúa trước khi quyết định ký hòa ước với dân Ga-ba-ôn.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời sẵn lòng tha thứ và giúp đỡ Giô-suê khi ông nhờ cậy Chúa.

– Hành động: Trước khi quyết định một việc gì dù nhỏ, em cũng phải cầu nguyện với Chúa.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

1. Để các em tự thảo luận về những câu hỏi trong tập học viên và tìm ra cách giải quyết.

2. Phát giấy và bút cho các em, bảo các em viết vào giấy những khó khăn của em (những khó khăn đã qua, đang hoặc sẽ xảy đến) và viết cách giải quyết.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

1. Vào đề.

Có ai thích khó khăn không? Nhưng trong cuộc sống, ai cũng phải gặp những khó khăn. Người lớn có những khó khăn khác các em như phải lo cơm, áo, gạo, tiền, gia đình…, còn ở lứa tuổi các em, thì cũng có những khó khăn của riêng các em, như bài tập khó, bạn bè không tốt, sức khoẻ kém… Khi gặp khó khăn, các em có muốn đến với một người nào đó để tâm sự không? Nếu tìm được một người bạn tốt, sẵn lòng góp ý và giúp đỡ các em vượt qua khó khăn, thì rất qúy. Nhưng con người không đủ khả năng để giải quyết mọi việc, ngoại trừ Chúa Giêxu. Khi cần quyết định một việc gì, hoặc gặp khó khăn, các em có thể đến với Ngài.

Sau chiến thắng thành A-hi, có một việc xảy ra với dân Y-sơ-ra-ên. Vì việc nầy mà Giô-suê phạm lỗi với Đức Chúa Trời. Chúng ta cùng xem việc gì xảy ra nhé!

2. Bài học.

a. Giô-suê trúng kế dân Ga-ba-ôn.

(1) . kế của dân Ga-ba-ôn.

Sau hai chiến thắng vang dội tại Giê-ri-cô và A-hi, các dân chung quanh đều khiếp sợ dân Y-sơ-ra-ên. Có phải dân Y-sơ-ra-ên chiến thắng là nhờ họ có vũ khí tối tân và Giô-suê lãnh đạo giỏi không? (Cho các em trả lời).

Trước tình hình đó, các vua của những nước chung quanh liền liên kết lại với nhau để đối phó với dân Y-sơ-ra-ên. Nhưng vua của Ga-ba-ôn thì không liên kết với họ. Dân Ga-ba-ôn sinh sống gần dân Y-sơ-ra-ên. Họ đã từng nghe những việc quyền năng của Đức Chúa Trời, nên vua Ga-ba-ôn vô cùng khiếp sợ. Vua biết rằng không thể nào chống cự với một Đấng đã làm cho nước sông Giô-đanh ngừng chảy, và đáy sông phút chốc khô cạn, tường thành Giê-ri-cô sập xuống… Dân Y-sơ-ra-ên nhất định sẽ tràn sang đây, và đất nước của vua cũng sẽ cùng số phận với Giê-ri-cô và A-hi mà thôi. Vì thế, vua Ga-ba-ôn không chuẩn bị chiến đấu mà chuẩn bị một mưu kế.

Dân Ga-ba-ôn quyết định dùng mưu kế để cầu hòa với dân Y-sơ-ra-ên. Họ chuẩn bị rất cẩn thận và hết sức bí mật để dân Y-sơ-ra-ên không phát hiện ra mưu kế của họ.

Một ngày kia, có một đoàn người tiến đến gần trại của dân Y-sơ-ra-ên tại Ghinh-ganh. Cả đoàn người đều mệt mỏi, nhìn qua là biết họ vừa trải qua một chặng đường rất dài. Giày của họ bị mòn đế, quần áo thì đầy bụi bặm, dơ bẩn, và rách rưới, các bình da đựng rượu thì bị thủng phải vá víu lại, còn lương thực là những mẩu bánh vụn, khô đét. Họ nói cùng Giô-suê và dân Y-sơ-ra-ên rằng: “Chúng tôi đến từ một xứ xa xôi để xin kết hòa ước cùng các ông”.

Giô-suê và dân sự hỏi họ: “Các ông là người ở đây chứ gì? Làm sao kết hòa ước được?” Họ không trả lời câu hỏi của Giô-suê mà nói tránh: “Chúng tôi là tôi tớ của ông”. Nhưng Giô-suê vẫn cứ hỏi lại: “Các ông là ai? Từ đâu đến?”

Họ trả lời: “Chúng tôi đến từ một nơi rất xa, vì nghe danh và những việc Đức Giê-hô-va đã làm, nên các trưởng lão và dân sự sai chúng tôi đến gặp các ông để xin được làm tôi tớ. Vậy, xin các ông lập giao ước cùng chúng tôi”.

Dân Ga-ba-ôn rất cẩn thận trong lời nói để không bị phát hiện. Họ dùng mọi cách để Giô-suê và dân Y-sơ-ra-ên tin vào lời họ nói: “Các ông xem, bánh của chúng tôi đem theo lúc mới ra đi còn nóng hổi, mà bây giờ đã khô và bể vụn. Còn những bình đựng rượu nầy lúc mới ra đi còn mới tinh, mà bây giờ đã cũ và rách, quần áo, giày dép chúng tôi cũng đã cũ mòn, vì đi đường xa”.

(2) Sai lầm của Giô-suê.

Mưu kế đã thành công, Giô-suê tin lời dân Ga-ba-ôn và đồng ý kết hòa ước với họ. (Mời một em đọc Giô-suê 9:14). Sai lầm của Giô-suê là do đâu? (Giô-suê không cầu hỏi Đức Chúa Trời trước khi quyết định kết hòa ước với dân Ga-ba-ôn). Khi kết ước, Giô-suê chỉ danh Đức Chúa Trời mà thề sẽ không đánh chiếm xứ họ, nhưng lại không biết rằng, những người lạ đó chính là dân Ga-ba-ôn, ở trong xứ Ca-na-an, nơi mà Đức Chúa Trời dặn dân Y-sơ-ra-ên phải tiêu diệt hết.

Ba ngày sau khi lập giao ước, mưu kế của dân Ga-ba-ôn bị bại lộ. Dân Y-sơ-ra-ên lúc nầy mới biết những kẻ lạ mặt kia không phải đến từ xứ xa xôi, mà ở gần bên họ. Họ còn phát hiện ngoài Ga-ba-ôn, còn có ba thành khác cùng liên kết lại để thực hiện mưu đồ lừa gạt dân Y-sơ-ra-ên.

Dù đã phát hiện sự thật, nhưng Giô-suê và dân Y-sơ-ra-ên vẫn phải tuân giữ hòa ước, vì đã chỉ Đức Chúa Trời mà thề với họ. Nhưng dân Y-sơ-ra-ên trừng phạt dân Ga-ba-ôn bằng cách bắt họ suốt đời làm tôi tớ, đốn củi, xách nước…

b. Đức Chúa Trời tha thứ lỗi lầm của Giô-suê.

Khi vua Giê-ru-sa-lem nghe tin dân Y-sơ-ra-ên kết hòa ước với dân Ga-ba-ôn, thì vô cùng lo lắng, vì Ga-ba-ôn là một thành lớn, liên kết với dân Y-sơ-ra-ên sẽ là mối đe dọa cho Giê-ru-sa-lem.

Vì thế, vua Giê-ru-sa-lem liên kết với bốn nước khác vây đánh Ga-ba-ôn, dưới sự lãnh đạo vua Giê-ru-sa-lem.

Ga-ba-ôn hay tin năm nước đó vây đánh mình, thì vội cầu cứu Giô-suê. Giờ đây, Giô-suê không chỉ lo lắng cho dân Y-sơ-ra-ên, mà còn phải có trách nhiệm với dân Ga-ba-ôn nữa. Đó là gánh nặng ông phải mang do lỗi lầm của mình. Dầu vậy, khi Giô-suê chạy đến nương dựa nơi Chúa, Đức Chúa Trời đã tha thứ và giúp đỡ ông. Ngài bảo Giô-suê: “Chớ run sợ vì Ta đã phó chúng nó vào tay con”.

Được sự tha thứ và giúp đỡ của Đức Chúa Trời, Giô-suê dẫn quân rời khỏi Ghinh-ganh và đi suốt đêm. Khi đến nơi, quân Y-sơ-ra-ên bất ngờ tấn công quân địch. Liên minh năm nước bị đại bại bỏ chạy, quân Y-sơ-ra-ên rượt theo tiêu diệt. Đức Chúa Trời khiến một trận mưa đá rất lớn từ trời rơi xuống đè quân địch chết vô số. Để có đủ thời gian tiêu diệt hết quân địch, Giô-suê cầu xin Đức Chúa Trời một việc mà nghe qua tưởng như không thể có được: Mặt trời và mặt trăng ngừng lại.

Mặt trời và mặt trăng phải ngừng lại ư? Đây là điều không thể có được. Vậy mà Đấng Toàn năng nghe lời cầu nguyện của Giô-suê và khiến cho mặt trời, mặt trăng thực sự ngừng lại. Ngày hôm đó kéo ra rất dài cho đến khi quân địch bị giết sạch. Mặt trời, mặt trăng ngừng lại đã chứng tỏ sự tha thứ của Đức Chúa Trời đối với Giô-suê. Theo các em, dân Ga-ba-ôn suy nghĩ như thế nào về Đức Chúa Trời?

  1. Ứng dụng.

Các em thân mến! Bài học hôm nay dạy các em điều gì? Điều quan trọng nhất mà các em cần ghi nhớ là mỗi ngày phải để trí mình nương dựa nơi Chúa, không được tự ý làm việc gì dù nhỏ hay lớn mà không cầu hỏi Chúa, kẻo lại phạm sai lầm như Giô-suê. Khi gặp khó khăn, hay đứng trước một việc cần phải quyết định, nếu các em xin ý của Chúa hoặc cầu xin Ngài giúp đỡ, chắc chắn Chúa sẽ vui lòng giúp đỡ các em. Trong trường hợp lỡ phạm sai lầm, các em cứ tin vào sự nhân từ tha thứ của Chúa. Trong tuần lễ nầy, các em học tập cách nương dựa vào Chúa nhé!

BÀI 8. LỖI LẦM CỦA GIÔ-SUÊ (HV)

I. KINH THÁNH: Giô-suê 9; 10:1-15.

II. CÂU GỐC: “Người nào để trí mình nương dựa nơi Ngài, thì Ngài sẽ gìn giữ người trong sự bình yên trọn vẹn, vì người nhờ cậy Ngài” (Êsai 26:3).

III. BÀI TẬP.

1. Nương dựa là gì?

Ai cũng có lúc gặp khó khăn, khi đó tốt nhất là có người để nương dựa. Vậy ý nghĩa của “nương dựa” là gì?

Em xem những câu sau đây, rồi đánh dấu X vào câu nào nói lên ý nghĩa của sự “nương dựa”.

Nương dựa là:

­­__ a. Tin tưởng vào lời nói của người đó.

__ b.           Nghi ngờ lời nói của người đó.

__ c.           Ỷ lại vào người đó.

__ d.           Tin rằng người đó sẽ giúp em thành công.

__ e.           Khiếp sợ người đó.

__ g.           Biết người đó sẽ trung thành với bạn.

__ h.          Lưu ý người đó, vì sợ người đó lừa dối.

__ i.            Biết người đó là bạn của mình.

__ k. Tuy rằng em yếu đuối, nhưng người đó vẫn thương yêu, giúp đỡ em.

2. Khó khăn, khó khăn, khó khăn!

Sau đây là một vài khó khăn thường gặp ở lứa tuổi của em. Nếu như em nương dựa vào Chúa, thì em sẽ có cách giải quyết khác hẳn. Em ghi cách giải quyết vào ô trống bên cạnh. Giáo viên phụ trách lớp sẽ giúp em khi cần thiết.

a. Chỉ còn một tuần lễ là em phải thi học kỳ, nhưng hiện tại em vẫn chưa chuẩn bị bài vở xong.

…………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………….

………………………………………………………………………………………….

b. Trong trường, có người nói là em lấy cắp thước kẻ của bạn, mà thật sự em không làm thế, cây thước mà em có là của mẹ mua cho. Nhưng bạn kia cứ khẳng định như vậy.

…………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………….

………………………………………………………………………………………….

c. Em phải phụ giúp ba mẹ một buổi, còn một buổi đi học. Về nhà, em thích xem tivi nên không còn thời gian lo cho việc học.

…………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………….

………………………………………………………………………………………….

d. Trong khi thầy giáo đang giảng bài, em cảm thấy đói bụng và muốn ăn vụng.

…………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………….

………………………………………………………………………………………….  

3. Lời cầu nguyện của em.

Viết vài lời cầu nguyện ngắn. Cho dù em gặp khó khăn nhiều hay ít, cũng phải nói ra với Chúa. Cầu xin Chúa cho em luôn nương dựa nơi Ngài. Em có thể nương dựa nơi Ngài bất cứ lúc nào.

Chúa Giê-xu yêu dấu!

………………………………………………………………………………………….

………………………………………………………………………………………….

………………………………………………………………………………………….

………………………………………………………………………………………….

………………………………………………………………………………………….

 

BÀI 8. MÓN QUÀ BẤT NGỜ (GV-HV)

BÀI 8. MÓN QUÀ BẤT NGỜ (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ III. 2016 on 18 Tháng Bảy, 2018

BÀI 8. MÓN QUÀ BẤT NGỜ (GV)

I. KINH THÁNH: 2Sa-mu-ên 23:13-17; 1Sử Ký 11:15-19.

II. CÂU GỐC: “Mỗi một người trong anh em chớ chăm về lợi riêng mình, nhưng phải chăm về lợi kẻ khác nữa” (Phi-líp 2:4).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Để có thể tặng Đa-vít một món quà bất ngờ, ba người bạn của ông đã không ngại gian khó, sẵn sàng hy sinh mọi sự.

– Cảm nhận: Cảm thông và quan tâm đến hoàn cảnh người khác sẽ dẫn đến hành động bày tỏ lòng yêu thương đối với họ.

– Hành động:

(1) Nêu tên một người, nhớ đến nhu cầu của người ấy và tìm cách giúp đỡ.

(2) Nói ra ý thích của người ấy.

(3) Bởi tình yêu thương của mình, em làm cho người ấy cảm thấy vui mừng.

(4) Thực hiện những điều ấy trong tuần này.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Em tìm được không?

1. Mục đích: Giúp các em hiểu bối cảnh của câu chuyện Kinh Thánh và chia sẻ cho các bạn.

2. Vật liệu: Tập học viên bài 8, ghim giấy, bảng câu hỏi, thẻ trả lời (kích cỡ tương tự bài trước); chuẩn bị các vật liệu để làm giếng: Giấy dày 30 x 7cm, đất sét, giấy màu, keo dán.

3. Thực hiện:

– Trước giờ học, giáo viên chuẩn bị sẵn bảng câu hỏi “Em tìm được không?” Ghi lên bảng các câu hỏi: Trong thời Kinh Thánh, người ta lấy nước bằng cách nào? Giếng được làm như thế nào? Các em có thể làm hoặc vẽ một cái giếng không?

– Em nào trả lời được thì dùng ghim giấy kẹp thẻ trả lời “Em tìm được” cạnh câu hỏi đó (tương tự bài trước).

B. BÀI HỌC KINH THÁNH

(Chuẩn bị thị trợ: Kinh Thánh, hình vẽ (xem phụ lục), bảng câu hỏi “Em tìm được không?” (đã làm trong phần “Sinh Hoạt Đầu Giờ”).

1. Vào đề

Bài học trước cho các em biết, dù có nhiều cơ hội để giết Sau-lơ, nhưng Đa-vít đã không trả thù. Điều đó cho thấy Đa-vít là người có lòng nhân từ, yêu thương. Trong tuần vừa qua, các em có làm theo gương của Đa-vít không? Các em xử sự với những người không tốt đối với mình như thế nào? Em nào có thể chia sẻ kinh nghiệm nầy cho các bạn cùng nghe? (Cho các em trả lời). Cám ơn Chúa đã giúp các em thực hiện được lời dạy của Ngài.

Bây giờ mời các em lắng nghe câu chuyện sau đây và tìm ra hai điểm: (1). Những người bạn của Đa-vít đã thể hiện lòng yêu mến Đa-vít như thế nào? (2). Vì sao họ biết được nỗi ước ao của Đa-vít?

2. Bài học.

Trong lúc đang ẩn náu tại đồng vắng, Đa-vít nghe tin người Phi-li-tin liên tục đánh chiếm đất nước Y-sơ-ra-ên; thậm chí, họ tấn công cả Bết-lê-hem, nơi Đa-vít sinh ra và lớn lên. Quân Phi-li-tin hiện đang đóng quân ở ven suối tại trũng Bết-lê-hem.

Một hôm, ba người bạn của Đa-vít là những người lính dũng cảm đến thăm và kể cho Đa-vít nghe tin tức ở quê nhà. Đa-vít kinh ngạc và đau buồn khi biết quân giặc đã tràn đến tận Bết-lê-hem, nơi ông từng dẫn bầy chiên tới những đồng cỏ xanh, giếng nước trong mát, ngọt ngào bên cửa thành.

(Hỏi các em các câu hỏi trong bảng “Em làm được không?”, cho các em xem những cái giếng do các em làm và hình thị trợ Đa-vít).

Vì đang sống ở một nơi khan hiếm nước nên Đa-vít thường nhớ đến giếng nước mát mẻ tại Bết-lê-hem. Đa-vít nhủ thầm: “Ước gì ta được uống nước giếng ở cửa thành Bết-lê-hem!” Biết được điều nầy, ba người bạn của Đa-vít bàn với nhau về Bết-lê-hem lấy nước cho Đa-vít. Muốn đến giếng nước tại Bết-lê-hem, họ phải đi qua trại quân Phi-li-tin. Đường đi dù xa xôi, nguy hiểm, nhưng vì muốn thực hiện điều mơ ước của Đa-vít nên họ quyết tâm vượt mọi khó khăn mang nước về cho bạn. Họ giấu không cho Đa-vít biết ý định đó, sợ ông ngăn cản không cho họ mạo hiểm.

Thế là ba người lặng lẽ lên đường. Họ vượt núi, băng đèo, xuyên qua bao chặng đường dài. Ba dũng sĩ đến nơi người Phi-li-tin đóng quân. Sau khi vượt qua vùng quân địch chiếm đóng một cách thật khó khăn, họ tìm đường đi đến cửa thành và cuối cùng, đến giếng nước, múc đầy bình rồi mang trở về.

Đa-vít kinh ngạc khi thấy ba người bạn mình đem nước giếng thành Bết-lê-hem về. Ông thật không tin vào điều mắt thấy và lòng rất cảm động vì tình thương của ba người bạn dành cho mình. Đa-vít hiểu chỉ vì muốn lấy nước giếng Bết-lê-hem cho ông uống mà các bạn đã mạo hiểm đến thế. Bình nước giếng đối với ông có giá trị lớn lao vô cùng, bởi nó được đánh đổi bằng sự nguy hiểm đến tính mạng của ba dũng sĩ. Đa-vít không biết lấy gì để bày tỏ lòng biết ơn các bạn. Ba người bạn của Đa-vít đã đem đến cho ông món quà bất ngờ và thật quí giá.

3. Ứng dụng.

Hỏi các em: Ba người bạn của Đa-vít đã làm gì để bày tỏ sự quan tâm và lòng yêu thương đối với ông? (Cho các em trả lời). Sau đó, hướng dẫn các em học câu gốc, khuyến khích các em giải thích câu gốc, hoặc phát biểu cảm nghĩ của mình đối với câu gốc.

– Sự quan tâm và lòng yêu thương của ba dũng sĩ khiến Đa-vít rất vui và cảm động. Đã có ai làm việc gì khiến các em ngạc nhiên và vui mừng chưa? Lúc đó các em có cảm nghĩ gì?” Giáo viên có thể khuyến khích các em suy nghĩ bằng cách chia sẻ kinh nghiệm của mình. Sau đó, cho các em chia sẻ kinh nghiệm của các em.

– Tại sao ba người bạn của Đa-vít biết được ý muốn của ông? Làm thế nào em biết được ý thích của bạn bè và người thân? Dạy các em biết quan tâm đến những người chung quanh, tìm hiểu xem có ai cần giúp đỡ không?

– Hướng dẫn các em làm phần bài tập trong tập học viên.  Khuyến khích các em suy nghĩ mình nên làm gì để cha mẹ, anh chị hoặc bạn bè vui lòng? Cho các em chọn một người rồi viết ý định của mình ra giấy, tuần sau đến lớp chia sẻ với các bạn xem mình thực hiện như thế nào.

– Hướng dẫn các em cầu nguyện kết thúc buổi học, xin Chúa giúp các em biết cách bày tỏ lòng yêu thương và sự quan tâm của mình đối với người khác.

V. PHỤ LỤC.

* Hình phụ trợ: Đa-vít, ba người bạn của Đa-vít.

1. Vật liệu: 1 tờ bìa trắng, viết chì, viết màu.

2. Cách làm: Trước giờ học, giáo viên dùng bút chì vẽ theo hình dưới đây (Xem hình) rồi tô màu. Gấp theo đường chấm chấm, sẽ có hai hình để minh họa khi kể chuyện.

 

 BÀI 8.     MÓN QUÀ BẤT NGỜ (HV)

I. KINH THÁNH: 2Sa-mu-ên 23:13-17.

II. CÂU GỐC: “Mỗi người trong anh em chớ chăm về lợi riêng mình, nhưng phải chăm về lợi kẻ khác nữa” (Phi-líp 2:4).

III. BÀI TẬP.

A. EM LÀM.

Hình vẽ dưới đây cho em thấy cách lấy nước giếng trong thời Kinh Thánh. Người ta cột dây thừng vào thùng, thả xuống giếng. Khi nước vào đầy thùng, kéo thùng lên, đổ vào bình nước của mình.

Em hãy chọn một trong ba cách dưới đây để làm một cái giếng:

1. Vẽ hình những viên đá chồng lên nhau trên giấy màu xám tro rồi dán nối hai đầu lại.

2. Dùng đất sét nắn gạch xếp thành cái giếng.

3. Vẽ hình cái giếng lên giấy.

B. EM LÀM VUI LÒNG NGƯỜI KHÁC.

Em sẽ làm vui lòng ai? Dùng bút khoanh tròn những người em chọn và viết tên vào chỗ trống.

CEM CHỌN CÁCH NÀO?

Hãy . chọn một cách nào đó để bày tỏ tình cảm với người em đã chọn. Ví dụ: Tặng hoa, phụ làm việc, nói chuyện, tặng thiệp …

Em có thể làm món quà sau đây tặng cho người em muốn làm vui lòng.

1. Tìm một cái lon rỗng.

2. Dán giấy hoa hoặc hình vẽ chung quanh.

3. Dùng nút áo, sỏi dán vào để trang trí.

4. Cái lon trở thành hộp cắm viết hoặc bình cắm hoa.

BÀI 8.  ĐỨC CHÚA TRỜI BẢO VỆ CHÚA CỨU THẾ (GV-HV)

BÀI 8.  ĐỨC CHÚA TRỜI BẢO VỆ CHÚA CỨU THẾ (GV-HV)

in ẤU NHI, QUÍ III. 2016 on 18 Tháng Bảy, 2018

BÀI 8.  ĐỨC CHÚA TRỜI BẢO VỆ CHÚA CỨU THẾ (GV)

 I. KINH THÁNH: Ma-thi-ơ 2:13-23.

II. CÂU GỐC: “Hãy chờ dậy, đem con trẻ và mẹ Ngài trốn qua nước Êdíptô” (Ma-thi-ơ 2:13b).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Đức Chúa Trời giúp Giô-sép, Ma-ri bảo vệ và chăm sóc Chúa Giê-xu.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời luôn bảo vệ và chăm sóc con cái Ngài.

– Hành động: Em nương cậy nơi Đức Chúa Trời.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

1. Mục đích: Giúp các em hiểu Đức Chúa Trời cũng bảo vệ em như Ngài đã bảo vệ Chúa Giê-xu.

2. Chuẩn bị:

– Tạp chí, truyện tranh có hình cha (mẹ) chăm sóc con cái.

– Những câu hỏi: Cha (mẹ) chăm sóc các em như thế nào?

Các em cảm thấy thế nào khi được cha mẹ chăm sóc?

3. Thực hiện.

– Cho các em xem hình trong tạp chí, truyện tranh và giải thích ý nghĩa trong hình.

– Cho các em trả lời những câu hỏi và giải thích: Đức Chúa Trời ban cho các em có cha mẹ để chăm sóc và bảo vệ các em.

* Đề nghị: Cho hai em tình nguyện lên diễn kịch: Một em làm cha (mẹ), một em làm con. Giáo viên hướng dẫn các em (nếu cần).

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

1. Vào đề.

  Các em ơi, khi Chúa Giê-xu giáng sinh thì những người nào tìm kiếm Chúa để tôn thờ? (Cho các em trả lời). Đúng rồi đó là những người chăn chiên, những bác sĩ. Nhưng các em ơi, không phải ai cũng vui mừng khi Chúa Giê-xu giáng sinh đâu. Có một người nghe tin Chúa Giê-xu giáng sinh thì vô cùng bối rối, lo sợ. Các em lắng nghe câu chuyện để biết người đó là ai và đã làm gì nhé!

2. Bài học.

Người đó là vua Hê-rốt. Sau khi các bác sĩ rời khỏi cung điện, vua lo lắng và nổi giận vì lo sợ vị vua mới ra đời sẽ cướp mất ngôi! Vua Hê-rốt liền truyền lệnh giết tất cả các em bé mới sinh từ hai tuổi trở xuống!

Mệnh lệnh chưa ban ra thì đêm hôm đó, thiên sứ hiện đến với Giô-sép trong giấc chiêm bao và nói: “Hãy đem con trẻ và mẹ Ngài trốn qua Ai-cập, vì vua Hê-rốt đang tìm giết con trẻ”. (Ai-cập là một nước láng giềng của nước Y-sơ-ra-ên). Giô-sép có vâng theo lời thiên sứ rời bỏ quê hương không các em? Tại sao? (Cho các em suy nghĩ trả lời). Giô-sép thức dậy và làm theo lời Đức Chúa Trời, nhanh chóng chuẩn bị hành lý lên đường qua Ai-cập.

Một thời gian sau, thiên sứ lại hiện đến với Giô-sép trong giấc chiêm bao và nói: “Hãy đem Chúa Giê-xu và mẹ Ngài trở về quê hương, vì vua Hê-rốt đã chết. Một lần nữa, Giô-sép vâng lời Đức Chúa Trời, vội vàng xếp hành lý đưa gia đình trở về.

Trên đường trở về quê hương, Giô-sép nghe tin con trai vua Hê-rốt lên ngôi kế vị vua cha. Giô-sép lo sợ không dám đem con trẻ Giê-xu và mẹ Ngài về Bếtlêhem. Đức Chúa Trời hướng dẫn Giô-sép trở về Na-xa-rét để sinh sống.

3. Ứng dụng:

Các em thân mến! Đức Chúa Trời đã bảo vệ và chăm sóc Chúa Giê-xu thoát khỏi hành động tàn ác của vua Hê-rốt. Đức Chúa Trời cũng đang chăm sóc và bảo vệ các em mỗi ngày. Các em có tin cậy Đức Chúa Trời không?

* Chuẩn bị.

– Kéo, keo, viết chì màu, viết chì.

* Thực hiện.

– Cho các em tô màu hình vẽ.

BÀI 8.   ĐỨC CHÚA TRỜI BẢO VỆ CHÚA CỨU THẾ (HV)

 I. KINH THÁNH: Ma-thi-ơ 2:13-23.

II. CÂU GỐC: “Hãy chờ dậy, đem Con Trẻ và mẹ Ngài trốn qua nước Ê-díp-tô” (Ma-thi-ơ 2:13b).

III. BÀI TẬP.

Cho các em tô màu hình vẽ.

 

BÀI 7. SỰ CÁM DỖ (GV-HV)

BÀI 7. SỰ CÁM DỖ (GV-HV)

in QUÍ III. 2016, THIẾU NHI on 17 Tháng Bảy, 2018

BÀI 7. SỰ CÁM DỖ (GV)

I. KINH THÁNH: Giô-suê đoạn 7.

II. CÂU GỐC: “Như vậy, miễn là đủ ăn đủ mặc thì phải thỏa lòng; còn như kẻ muốn nên giàu có, ắt sa vào sự cám dỗ” (1Ti-mô-thê 6:8-9a).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: A-can đã sa vào sự cám dỗ vật chất, phạm tội ăn cắp.

– Cảm nhận: Trộm cắp không phải là dũng cảm.

– Hành động: Ghi ra những tình huống nào dễ nảy sinh ý trộm cắp. Nhờ cậy Chúa để chế ngự những cám dỗ đó.

IV. BÀI HỌC KINH THÁNH

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

1. Hướng dẫn các em đưa ra ý kiến: Sự cám dỗ nào các em dễ bị vướng nhất?

2. Nhằm giúp các em có ấn tượng hơn câu chuyện Kinh Thánh nầy, hướng dẫn các em đóng kịch về A-can.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH

1. Vào đề

Hai bạn gái vào cửa hàng kẹp tóc. Cô bán hàng lúc đó đang bận rộn với việc thối tiền cho khách nên không để ý đến vài chiếc kẹp tóc nhỏ nhắn, xinh xắn trên mặt quầy hàng. Hai bạn gái đều trông thấy và rất thích mấy chiếc kẹp tóc, nhưng lại không đủ tiền để mua. Một bạn nói: “Bạn dám lấy chiếc kẹp nơ màu hồng đó không? Cô bán hàng không để ý đâu!”

Nếu bạn kia thực hiện đề nghị đó, bạn ấy có phải là người dũng cảm không? Có nhiều người cho rằng khi trộm cắp giữa ban ngày mà không bị phát hiện, thì kẻ trộm đó rất bản lĩnh và can đảm! Các em có đồng ý với ý kiến đó không? Tại sao?

Sự tham muốn nếu không được ngăn chặn kịp thời sẽ dẫn chúng ta đến những hành động sai trái. Bài học Kinh Thánh hôm nay sẽ cho các em thấy rõ điều đó.

2. Bài học.

a. Tiến trình của sự cám dỗ.

(1) Thấy.

Các em biết không, thông thường khi chiếm được một thành nào đó, những kẻ chiến thắng sẽ được quyền lấy tất cả những gì quí giá, gọi là chiến lợi phẩm, còn những kẻ chiến bại sẽ bị bắt làm nô lệ. Nhưng khi dân Y-sơ-ra-ên chiếm thành Giê-ri-cô, Đức Chúa Trời đã phán dặn rõ ràng rằng: Vàng, bạc, và những đồ vật bằng đồng, sắt đều phải nhập vào kho trong đền Đức Chúa Trời, còn những vật khác phải thiêu hủy và dân Y-sơ-ra-ên không được đụng đến những vật đó.

Khi tường thành Giê-ri-cô sụp đổ, dân Y-sơ-ra-ên tràn vào. Họ tịch thu tất cả vàng, bạc, những đồ vật bằng đồng, sắt, y như lời Ngài phán dặn. Ngoài những vật đó ra, còn có rất nhiều vật dụng đẹp đẽ khác mà không ai dám đụng đến vì Đức Chúa Trời không cho phép. Nhưng có một người tên là A-can, trong lúc thi hành nhiệm vụ đã nhìn thấy một cái áo choàng lộng lẫy, chỉ có những người giàu mới khoác loại áo đó. Chưa bao giờ ông nhìn thấy cái áo choàng nào đẹp như thế, và chao ôi! Vàng, bạc… nhiều không xiết kể.

(2) Tham muốn.

A-can cầm cái áo choàng lộng lẫy đó lên xem xét, vàng bạc nữa. Những thứ nầy thật đẹp và qúy giá làm sao! Sự tham muốn bắt đầu nảy sinh. “Ước gì cái áo choàng nầy là của mình!” “Nếu mình có được số vàng bạc nầy, mình sẽ trở nên giàu có”. A-can muốn lấy những thứ nầy. Ông không nghe mệnh lệnh của Chúa sao? (Cho các em trả lời). Lòng tham muốn cám dỗ ông mạnh mẽ, đến nỗi ông bỏ qua mệnh lệnh của Chúa.

(3) Trộm cắp.

A-can cẩn thận quan sát chung quanh, thấy không ai để ý, liền nhanh chóng lấy ngay cái áo choàng và vàng bạc giấu vào bên trong áo.

Hoàn cảnh lúc đó thật là thuận lợi cho A-can, vì không ai nhìn thấy việc làm của ông. A-can quay trở về trại của mình, bí mật đào một cái hố bên trong trại và chôn giấu những thứ đó.

Lòng tham khiến A-can trở nên mù quáng. Tuy cái áo choàng đó rất đẹp, nhưng chất liệu vải và kiểu dáng đều không thích hợp với người Y-sơ-ra-ên. Nếu như một ngày nào đó, A-can khoác cái áo nầy, có thể những người khác sẽ suy đoán ra xuất xứ của nó. Dù không ai nhìn thấy, nhưng Đức Chúa Trời thấy. Cây kim trong bọc lâu ngày cũng phải lòi ra. Cuối cùng, mọi việc cũng bị phanh phui và tai họa xảy đến không chỉ riêng mình A-can gánh chịu.

b. Tai họa xảy ra sau khi bị cám dỗ.

(1) Dân Y-sơ-ra-ên thua trận.

Sau chiến thắng Giê-ri-cô, thành thứ hai mà dân Y-sơ-ra-ên cần phải tấn công là thành A-hi. So với Giê-ri-cô, thành A-hi nhỏ bé hơn nhiều. Dầu vậy, trước khi tấn công, Giô-suê cũng phái mấy thám tử đi do thám trước.

Các thám tử sau khi do thám thành A-hi trở về báo cáo với Giô-suê: “Đó là một thành phố nhỏ, ít dân, không cần phải huy động toàn bộ quân đi đánh, chỉ cần vài ba ngàn quân là đủ tiêu diệt thành đó rồi”.

Thế là Giô-suê phái khoảng ba ngàn người đi đánh thành A-hi. Ba ngàn chiến sĩ hăng hái xung trận, còn những người ở nhà chuẩn bị chào đón chiến thắng, vì tin chắc các chiến sĩ Y-sơ-ra-ên sẽ chiến thắng. Nhưng thật bất ngờ, quân Y-sơ-ra-ên bị thất bại thảm hại trước quân A-hi. Vừa mới vào trận, quân Y-sơ-ra-ên đã phải bỏ chạy, vì không ngờ dân thành A-hi đánh trả quyết liệt, và giết khoảng chừng ba mươi sáu người.

Khi nghe tin nầy, lòng dân sự tan ra như nước.  Giô-suê và các trưởng lão xé áo mình, khóc lóc, qùi mọp trước Hòm Giao ước cầu nguyện với Đức Chúa Trời. Giô-suê không hiểu nguyên nhân tại sao có sự thua trận nầy? Chẳng phải Đức Chúa Trời đã từng hứa với Giô-suê: “Trọn đời ngươi sống, thì sẽ chẳng ai được chống cự trước mặt ngươi. Ta sẽ ở cùng ngươi như Ta đã ở cùng Môi-se; Ta sẽ không lìa ngươi, không bỏ ngươi đâu”.

Đức Chúa Trời đã thất hứa rồi chăng? Giô-suê và các vị trưởng lão cứ cầu nguyện cho đến chiều tối. Cuối cùng, Đức Chúa Trời phán cùng Giô-suê rằng: “Dân Y-sơ-ra-ên đã không tuân lệnh Ta, lấy trộm vật đáng bị hủy diệt, đem giấu trong trại mình. Vì lý do đó, Y-sơ-ra-ên bị bại trận”.

Đức Chúa Trời cảnh cáo: “Nếu các vật ấy không bị đem ra thiêu hủy, Ta sẽ không ở cùng Y-sơ-ra-ên nữa”. Sau đó, Đức Chúa Trời chỉ cho Giô-suê cách phát hiện ra người phạm tội.

(2) A-can bị tử hình.

Theo sự chỉ dẫn của Đức Chúa Trời, sáng sớm hôm đó, Giô-suê cho mười hai chi phái lần lượt ra trước mặt Chúa. Chi phái Giu-đa bị chỉ ra. Giô-suê kêu chi phái Giu-đa đến gần thì họ hàng Xê-rách bị chỉ ra. Trong họ hàng Xê-rách thì gia đình Xáp-đi bị chỉ ra. Giô-suê biểu từng người trong gia đình Xáp-đi lại gần, thì A-can bị chỉ ra. Việc làm của A-can lúc trước không ai biết, bây giờ cả dân Y-sơ-ra-ên đều biết.

Giô-suê nói với A-can: “Hãy thú tội trước mặt Đức Chúa Trời. Đừng giấu điều gì cả, cứ khai ra mọi điều con đã làm”.

A-can khai: “Con đã sinh lòng tham khi thấy chiếc áo choàng lộng lẫy, hai trăm lạng bạc và một thỏi vàng nặng 50 lạng. Con lấy các vật ấy đem giấu dưới đất trong trại, để bạc dưới cùng”.

Giô-suê liền sai người đến trại của A-can. Họ tìm thấy đúng như lời A-can nói và đem hết về để trước mặt Giô-suê và dân sự. Mọi người bắt A-can cùng các vật thuộc về ông như bò, chiên, lừa… và những vật ông đã lấy cắp, đến một thung lũng. Mọi người ném đá A-can và thiêu hủy hết tất cả.

Khi tội lỗi bị trừ đi, Đức Chúa Trời nguôi cơn giận và tiếp tục ở cùng dân Y-sơ-ra-ên. Đức Chúa Trời hướng dẫn Giô-suê cách tấn công thành A-hi và dân Y-sơ-ra-ên đã toàn thắng.

3. Ứng dụng.

Các em thân mến! A-can đã không đắc thắng sự cám dỗ, nên vượt qua mạng lệnh của Đức Chúa Trời. Hành động đó khiến A-can trả giá rất đắt, không phải chỉ mình ông chịu mà còn liên lụy đến nhiều người. Nếu xem tin tức trên báo, tivi… các em sẽ thấy người trộm cắp cũng phải vào nhà tù.

Hậu quả mà A-can nhận lấy cho hành động sai trái của mình là bài học nghiêm khắc cho mỗi chúng ta ngày nay. Trong cuộc sống mỗi ngày, các em cũng gặp nhiều sự cám dỗ phải không? (Cho các em nêu ra từng trường hợp cụ thể như: Muốn lấy cắp của bạn cây viết, cuốn truyện, đồ chơi, tiền, đồ ăn…). Có những việc sai trái nho nhỏ, các em cho là không quan trọng, nhưng khi các em làm điều đó cũng phạm tội và Đức Chúa Trời nhìn thấy. Vậy, các em phải làm gì khi bị cám dỗ? Khi A-can nhìn thấy và ham thích cái áo choàng đẹp đẽ, vàng, bạc, nếu như ngay lúc đó ông cầu nguyện xin Chúa giúp ông vượt qua sự cám dỗ để vâng lời Ngài, thì Chúa có giúp đỡ ông không? Ma qủi cám dỗ các em phạm tội với Chúa, nên các em phải ở trong Chúa luôn luôn, cầu xin Chúa giúp đỡ mình. Nếu các em không thỏa lòng với những điều mình có, thì dễ sa vào sự cám dỗ (Mời một em đọc câu gốc).

Ăn cắp không phải là hành động dũng cảm, mà là tội lỗi. Sự dũng cảm đúng nghĩa là vâng lời Chúa. Nếu các em vâng lời Ngài, Ngài sẽ giúp các em vượt qua sự cám dỗ. Khi các em đắc thắng sự cám dỗ, đó là bằng chứng rõ ràng nhất để khẳng định các em là người dũng cảm.

BÀI 7.  SỰ CÁM DỖ (HV)

 I. KINH THÁNH: Giô-suê 7; 8:1-28.

II. CÂU GỐC: “Như vậy, miễn là đủ ăn đủ mặc thì phải thỏa lòng; còn như kẻ muốn nên giàu có, ắt sa vào sự cám dỗ” (1Ti-mô-thê 6:8-9a).

III. BÀI TẬP.

1. Em đánh dấu X trước những hậu quả mà tội trộm cắp gây ra.

__ a. Có được những gì mong muốn.

__ b. Dẫn đến tội dối trá.

__ c. Nghĩ đến lúc bị bắt giữ mà lo lắng.

__ d. Cảm thấy dũng cảm và vui vẻ.

__ e. Mọi người sẽ nể phục lòng can đảm của anh ta.

__ g. Không được phước của Chúa.

2. Sự cám dỗ đối với mỗi người mỗi khác nhau, có em bị cám dỗ bởi điều nầy, nhưng cũng có em lại bị cám dỗ bởi điều khác. Em đánh dấu X vào những trường hợp em đã hoặc đang bị cám dỗ.

  1. Muốn có cái áo đẹp của bạn.
  2. Ăn cắp tiền của mẹ, bạn… để mua đồ theo ý thích.
  3. Trốn học để đi chơi.
  4. Nói dối với ba mẹ.
  5. Tham của rơi.
  6. Quay cóp bài lúc kiểm tra.
  7. Mê xem tivi đến nỗi không học bài.
  8. Ăn vụng.
  9. Trường hợp khác _______________________

* Theo em, trường hợp nào khiến em dễ bị cám dỗ nhất.

……………………………………………………………………………………..

……………………………………………………………………………………..

……………………………………………………………………………………..

……………………………………………………………………………………..

3. Em “Vượt qua cám dỗ”.

Hãy đi theo mũi tên và lấy bút chì màu khoanh lại những quyết định đúng để tìm ra hướng giải quyết đẹp lòng Chúa.

Xin chào, tôi là Cường. Sau khi học xong câu chuyện của A-can, tôi càng hiểu rõ hơn về tai hại của sự trộm cắp. Buổi sáng thứ hai đầu tuần, tôi gặp phải nhiều cám dỗ.

BÀI 7.  KHÔNG TRẢ THÙ (GV-HV)

BÀI 7.  KHÔNG TRẢ THÙ (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ III. 2016 on 17 Tháng Bảy, 2018

BÀI 7.  KHÔNG TRẢ THÙ (GV)

I. KINH THÁNH: 1Sa-mu-ên 21-24; 26.

II. CÂU GỐC: “Hãy yêu kẻ thù mình, làm ơn cho kẻ ghét mình” (Lu-ca 6:27).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Đa-vít bày tỏ lòng yêu thương đối với Sau-lơ bằng cách bỏ qua nhiều cơ hội trả thù.

– Cảm nhận: Chúa muốn các em đối xử nhân ái với mọi người.

– Hành động: Xin Chúa giúp em vâng theo lời dạy của Chúa, sống yêu thương, nhân ái cả với những người không tốt đối với mình.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Em tìm được không?

1. Mục đích: Giúp các em tìm ra nơi Đa-vít và quân lính ẩn náu.

2. Vật liệu: Tập học viên bài 7, kẹp giấy, 1 tờ giấy cứng 30 x 50cm làm bảng câu hỏi, mỗi em 3 miếng giấy dày 3 x 5cm, ghim kẹp giấy hoặc keo dán, bút chì.

3. Thực hiện:

Giáo viên làm bảng câu hỏi “Em tìm được không?” và một số thẻ trả lời “Em tìm được rồi”. Giáo viên nêu câu hỏi: Đồng vắng là gì? Người ta làm thế nào để có nước uống nơi đồng vắng? Có mạch nước trong đồng vắng không?

Khi tìm ra câu trả lời, các em ghi tên mình vào thẻ trả lời “Em tìm được rồi” và ghim bên cạnh câu hỏi (xem hình).

– Giáo viên hỏi các em: “Vì sao hang núi là nơi lý tưởng để ẩn náu?” (Vì nơi đó có thức ăn, nước uống, nho và ôlive – Đó là sa mạc gần biển Chết, nơi ẩn náu của những người tị nạn).

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị thị cụ: Kinh Thánh, hình (Đa-vít và Gô-li-át, Đa-vít và quân lính), bảng câu hỏi “Em tìm được không?”, tập học viên bài 7).

 

  1. Vào đề.

Các em thân mến, bài học tuần trước đã cho các em biết về một đôi bạn tốt, các em còn nhớ hai người bạn ấy tên gì không?(Cho các em trả lời). Theo các em, giữa bạn và thù có gì khác nhau? Giô-na-than  và Đa-vít là bạn hay thù? Sau-lơ và Đa-vít là bạn hay thù?

Bây giờ các em cùng lắng nghe câu chuyện nầy và suy nghĩ xem Sau-lơ đối với Đa-vít thế nào và Đa-vít đối đãi với Sau-lơ ra sao nhé.

  1. Bài học.

Khi Đa-vít được Giô-na-than  cho biết vua Sau-lơ muốn giết mình, Đa-vít liền đến ẩn náu một nơi vua Sau-lơ khó phát hiện, đó là một thành của người Phi-li-tin, cách nơi ở của Sau-lơ khá xa. Nào ngờ người Phi-li-tin phát hiện ra Đa-vít và báo cho vua của xứ này. Thế là Đa-vít đành phải trốn đi nơi khác.

Nơi ẩn náu kế tiếp của Đa-vít là một hang đá trong núi. Lúc này, có khoảng bốn trăm người đi theo Đa-vít. Ông trở thành lãnh đạo của cả nhóm và họ cùng trải qua những tháng ngày khốn khó, gian nan. Một thời gian sau, vua Sau-lơ phát hiện ra nơi ẩn náu của họ. Sau-lơ mừng rỡ đem quân đến bắt Đa-vít, nhưng khi đến nơi, Đa-vít và những người theo ông đã chạy trốn ra đồng vắng. Sau-lơ phải mất nhiều công sức để lần theo dấu vết của Đa-vít. Cuối cùng, Sau-lơ cũng phát hiện ra tung tích của Đa-vít và lập tức dẫn quân đến bao vây. Khi sắp bắt được Đa-vít, bỗng có người đến báo với Sau-lơ: “Xin bệ hạ về ngay, quân Phi-li-tin đang kéo đến đánh ta”. Sau-lơ đành rút về đánh quân Phi-li-tin. Thế là Đa-vít có cơ hội trốn sang chỗ khác, nơi có suối nước trong mát.

Đa-vít và những người theo ông vẫn tiếp tục ẩn náu trong hang núi. Một hôm có chuyện lạ xảy ra. Sau khi đánh đuổi quân Phi-li-tin, vua Sau-lơ trở về và được tin báo đã tìm ra tung tích của Đa-vít nên tiếp tục săn đuổi. Sau-lơ đến đồng vắng, thấy một hang đá liền đi vào mà không ngờ đó là nơi Đa-vít đang ẩn nấp. Những người theo Đa-vít đều nói: “Đa-vít! Đây là cơ hội tốt để giết Sau-lơ”. Thế nhưng, Đa-vít không giết và cũng ngăn cản không cho những người trong nhóm giết Sau-lơ; Đa-vít chỉ cắt vạt áo của vua. Đến lúc Sau-lơ rời khỏi hang, Đa-vít mới gọi ông và nói to rằng: “Tâu bệ hạ, tôi có cơ hội giết bệ hạ, nhưng tôi không làm như vậy, tôi chỉ lấy đi một mảnh áo của bệ hạ. Vậy tại sao bệ hạ lại tìm cách giết tôi?”  Sau-lơ nghe xong giật mình. Ông cảm động nói: “Đa-vít, con đối với ta thật tốt. Ta biết Đức Chúa Trời sẽ chọn con làm vua”. Sau đó, Sau-lơ truyền lệnh rút quân. Tuy vậy, Đa-vít và những người trong nhóm vẫn ở lại đồng vắng vì không dám tin Sau-lơ. Quả nhiên, chẳng bao lâu sau, Sau-lơ lại dẫn quân tiếp tục đuổi bắt Đa-vít.

Một đêm nọ, Đa-vít cùng những người trong nhóm tìm đến nơi Sau-lơ đóng trại. Đa-vít dẫn theo hai người đột nhập trại quân. Họ nhẹ nhàng tiến đến chỗ Sau-lơ đang ngủ. Một người nói: “Đây là cơ hội tốt để giết Sau-lơ”. Nhưng Đa-vít ngăn lại: “Không, chúng ta chỉ lấy cây gươm nơi đầu giường và bình nước của vua rồi rời khỏi đây”. Họ rút lui trong khi cả trại quân Sau-lơ đều ngủ ngon, chẳng hề hay biết gì, vì Đức Chúa Trời khiến họ ngủ mê. Khi đã sang đến đỉnh núi bên kia, Đa-vít quay lại hướng trại quân Sau-lơ nói lớn: “Tại sao bệ hạ vẫn còn tìm giết tôi?” Sau-lơ nhận ra Đa-vít, liền nói: “Ta thật có lỗi với con. Đa-vít, ta hứa sẽ không làm hại con nữa!” Đa-vít nói: “Đây là cây giáo và bình nước của vua. Xin hãy cho người đến lấy về. Tôi muốn cho bệ hạ biết rằng, dù có cơ hội giết bệ hạ nhưng tôi đã không làm như vậy”. Sau-lơ nói: “Hỡi Đa-vít, xin Đức Chúa Trời ban phước cho con. Con sẽ làm nên việc lớn và trở thành người vĩ đại”.

  1. Ứng dụng.

– Dù không bị kẻ thù săn đuổi, phải trốn tránh trong đồng vắng, nhưng có lẽ các em đã từng bị người khác đối xử không tốt.

Cho vài em chia sẻ lại thái độ của mình khi gặp người đối xử không tốt. Giáo viên hướng dẫn các em hoàn tất bài tập và hỏi: “Nếu gặp người đối xử với mình không tốt, các em cảm thấy thế nào? Em có thể xử sự như Đa-vít đối với kẻ thù không? Nếu không, các em sẽ làm gì?” Hãy giải thích nan đề của em, nếu khó, có thể cùng nhau cầu nguyện giao phó cho Chúa.

– Hướng dẫn các em nói hoặc viết ra phương pháp tốt nhất để đối xử với kẻ thù. Cầu nguyện xin Chúa giúp các em sống nhân từ, yêu thương mọi người.

V. PHỤ LỤC.

* Hình: Đa-vít và quân lính.

1. Vật liệu: 2 tờ giấy dày màu trắng, viết chì, chì màu.

2. Cách làm: Giáo viên dùng viết chì vẽ theo hình mẫu (xem hình) và tô màu. Sau đó, xếp theo đường chấm và dán lại; dùng hình để minh họa khi kể chuyện.

BÀI 7. MÓN QUÀ BẤT NGỜ (HV)

I. KINH THÁNH: 2Sa-mu-ên 23:13-17.

II. CÂU GỐC: “Mỗi người trong anh em chớ chăm về lợi riêng mình, nhưng phải chăm về lợi kẻ khác nữa” (Phi-líp 2:4).

III. BÀI TẬP.

A. EM LÀM.

Hình vẽ dưới đây cho em thấy cách lấy nước giếng trong thời Kinh Thánh. Người ta cột dây thừng vào thùng, thả xuống giếng. Khi nước vào đầy thùng, kéo thùng lên, đổ vào bình nước của mình.

Em hãy chọn một trong ba cách dưới đây để làm một cái giếng:

1. Vẽ hình những viên đá chồng lên nhau trên giấy màu xám tro rồi dán nối hai đầu lại.

2. Dùng đất sét nắn gạch xếp thành cái giếng.

3. Vẽ hình cái giếng lên giấy.

B. EM LÀM VUI LÒNG NGƯỜI KHÁC.

Em sẽ làm vui lòng ai? Dùng bút khoanh tròn những người em chọn và viết tên vào chỗ trống.

C. EM CHỌN CÁCH NÀO?

Hãy chọn một cách nào đó để bày tỏ tình cảm với người em đã chọn. Ví dụ: Tặng hoa, phụ làm việc, nói chuyện, tặng thiệp …

Em có thể làm món quà sau đây tặng cho người em muốn làm vui lòng.

1. Tìm một cái lon rỗng.

2. Dán giấy hoa hoặc hình vẽ chung quanh.

3. Dùng nút áo, sỏi dán vào để trang trí.

4. Cái lon trở thành hộp cắm viết hoặc bình cắm hoa.

BÀI 7. TÌM THỜ CHÚA CỨU THẾ (GV-HV)

BÀI 7. TÌM THỜ CHÚA CỨU THẾ (GV-HV)

in ẤU NHI, QUÍ III. 2016 on 17 Tháng Bảy, 2018

BÀI 7. TÌM THỜ CHÚA CỨU THẾ (GV)

I. KINH THÁNH: Ma-thi-ơ 2:1-12.

II. CÂU GỐC: “Vì chúng ta đã thấy ngôi sao Ngài bên đông phương, nên đến đặng thờ lạy Ngài” (Ma-thi-ơ 2:2b).

III. MỤC ĐÍCH:

– Biết: Các bác sĩ tìm gặp Cứu Chúa để tôn thờ và dâng lễ vật cho Ngài.

– Cảm nhận: Khi hết lòng tìm kiếm, tôn thờ Chúa, chắc chắn em sẽ được gặp Ngài.

– Hành động: Em dâng đời sống mình để thờ phượng Chúa.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Món Quà Của Em.

1. Mục đích: Giúp các em hiểu sự giáng sinh của Chúa Giê-xu món quà đặc biệt cho các em.

2. Chuẩn bị:

Kẹo, bánh (gói từng loại trong giấy), một số đồ chơi, thiệp giáng sinh nhỏ, giấy gói quà, dây rubăng, băng keo.

3. Thực hiện. Đức Chúa Trời yêu thương các em và bày tỏ tình yêu của Ngài qua cách tặng món quà đặc biệt là Chúa Giê-xu cho em, nên em cũng biết tặng quà cho người khác để bày tỏ tình yêu của mình nha.

– Để bánh, kẹo, đồ chơi, thiệp giáng sinh lên bàn.

Các em muốn tặng quà cho bạn trong lớp không? Tại sao? (Cho các em tự do nói lên ý kiến của mình). Cho các em suy nghĩ sẽ tặng cho ai và lên bàn chọn mỗi em một món quà.

– Đưa giấy gói quà, dây rubăng, băng keo cho các em. Khi gói xong, cho các em đứng vòng tròn, rồi từng em đến tặng quà cho bạn mình, cùng với lời chúc giáng sinh dễ thương nhất.

* Đề nghị:

– Giáo viên hướng dẫn các em cách gói quà và giúp những em không biết gói.

– Giáo viên lưu ý để em nào cũng nhận được quà. Gói trước vài gói quà làm mẫu và tặng cho em nào không nhận được quà.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

1. Vào đề.

Các em ơi, khi nhận được quà các em cảm thấy thế nào? Tại sao các em thích tặng quà cho bạn đó? (Cho các em tự do nói lên suy nghĩ của mình).

Khi Chúa Giê-xu vừa sinh ra, những người chăn chiên đã đến thờ lạy Ngài. Rồi sau đó, cũng có một nhóm người khác tìm đến tặng quà cho Chúa Giê-xu để bày tỏ lòng tôn kính Ngài. Các em cùng lắng nghe, để biết họ là ai và vì sao họ biết Chúa Giê-xu giáng sinh nhé!

2. Bài học.

Một ngày kia, các bác sĩ ở đông phương nhìn thấy một ngôi sao lạ xuất hiện trên bầu trời. Họ biết có một vị vua vừa mới ra đời. Họ vội vàng lên đường. Kinh Thánh gọi những người này là bác sĩ, vì họ là những nhà thông thái, rất khôn ngoan, thường được mời vào cung để góp ý kiến và giải đáp những câu hỏi khó cho vua.

Theo sự hướng dẫn của ngôi sao lạ, họ cỡi lạc đà vượt qua đồng vắng. Từ xa, họ nhìn thấy thành Giê-ru-sa-lem lấp lánh ánh đèn. Họ bàn với nhau: “Có lẽ vị vua mới sinh ở trong cung vua Hê-rốt, chúng ta hãy đến đó”.

Các bác sĩ đến hoàng cung, vua Hê-rốt tiếp đón họ rất chu đáo. Các bác sĩ hỏi vua: “Có phải nước Giu-đa mới sinh một vị vua? Chúng tôi thấy ngôi sao của Ngài bên đông phương, nên tìm đến để tôn thờ Ngài”. Nhưng vua Hê-rốt không hề hay biết chi cả!

Các bác sĩ rời hoàng cung. Ngôi sao lạ lại xuất hiện dẫn đường họ đi đến Bết-lê-hem, ngay chỗ Chúa Giê-xu ở thì dừng lại.

Họ vào chuồng chiên và nhìn thấy Chúa Giê-xu được bọc bằng khăn, nằm trong máng cỏ. Họ quỳ xuống thờ lạy Ngài. Sau đó, họ dâng những lễ vật quý giá cho Ngài, để tỏ lòng yêu mến và tôn kính Ngài.

3. Ứng dụng:

Các bác sĩ không ngại đường xa tìm đến để tôn thờ Chúa Giê-xu và dâng lễ vật quí giá cho Ngài. Hành động của họ đã bày tỏ lòng tôn kính và yêu mến Chúa Giê-xu. Các em có yêu mến và tôn kính Chúa Giê-xu không? Các em làm gì để bày tỏ lòng yêu mến và tôn thờ Ngài? Hãy dâng hiến điều quí nhất là chính đời sống của mình để thờ phượng Ngài các em nhé!

* Chuẩn bị.

– Kéo, keo, viết chì màu, viết chì.

* Thực hiện.

– Cho các em tô màu hình vẽ.

BÀI 7. TÌM THỜ CHÚA CỨU THẾ (HV)       

I. KINH THÁNH: Ma-thi-ơ 2:1-12.

II. CÂU GỐC: “Vì chúng ta đã thấy ngôi sao Ngài bên đông phương, nên đến đặng thờ lạy Ngài” (Ma-thi-ơ 2:2b).

III. BÀI HỌC: Các bác sĩ tìm gặp Cứu Chúa để tôn thờ và dâng lễ vật cho Ngài.

1. BÀI TẬP: Cho các em tô màu hình vẽ.

 

BÀI 6.  CUỘC DIỄN HÀNH KỲ LẠ NHẤT THẾ GIỚI (GV-HV)

BÀI 6.  CUỘC DIỄN HÀNH KỲ LẠ NHẤT THẾ GIỚI (GV-HV)

in QUÍ III. 2016, THIẾU NHI on 17 Tháng Bảy, 2018

BÀI 6.  CUỘC DIỄN HÀNH KỲ LẠ NHẤT THẾ GIỚI (GV)

 I. KINH THÁNH: Giô-suê 6:1-25.

II. CÂU GỐC: “Bởi đức tin, các tường thành Giê-ri-cô đổ xuống, sau khi người ta đi vòng quanh bảy ngày” (Hê-bơ-rơ 11:30).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Cuộc diễn hành kỳ lạ nhất thế giới đã đưa dân Y-sơ-ra-ên vào chiếm thành Giê-ri-cô một cách dễ dàng.

– Cảm nhận: Đức tin và sự vâng lời là bí quyết để chiến thắng.

– Hành động: Em luôn sống bằng đức tin.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ

1. Thực hiện vài âm thanh, tiếng động để phụ họa, dùng máy ghi âm để ghi lại. Nếu không ghi âm được, có thể chia các em thành từng tốp nhỏ, mỗi tốp phụ trách một âm thanh hay tiếng động. Khi đến âm thanh của tốp nào, thì tốp đó sẽ phụ họa.

2. Tiếng chân của những chiến sĩ hành quân: Các em giậm chân tại chỗ, hoặc dùng hai tay vỗ lên mặt bàn.

3. Tiếng tù và: Chu miệng và u…u…u…u…u…u…4. Tiếng reo hò: “Đức Giê-hô-va đã giao thành Giê-ri-cô cho chúng ta rồi!”

6. Tường thành đổ sập xuống: Đổ vài cuốn sách to xuống bàn, hoặc đập tay xuống bàn.7. Bản đồ.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH

1. Vào đề.

Các em ơi! Các em có muốn mình trở thành người dũng cảm không? Theo các em, người như thế nào gọi là người dũng cảm? (Cho các em trả lời).

Ví dụ: Ở trường học của các em, có một bạn rất to con nói rằng sẽ vật ngã tất cả những bạn khác. Vậy, bạn ấy có phải là người dũng cảm không?

Có những người chuyên hiếp đáp những người yếu đuối và nhỏ bé hơn họ, làm như vậy, họ tưởng rằng mình là người dũng cảm, nhưng ngược lại, họ là những người hèn nhát nhất. Những người yếu đuối thì đương nhiên không dám chống cự, và trong lòng luôn sợ hãi.

Vậy mà dân tộc Y-sơ-ra-ên nhỏ bé, sống trong các lều trại ở sa mạc, lại dám tấn công dân thành Giê-ri-cô, một dân to lớn và có tường thành vững chắc. Chúng ta cùng tìm hiểu xem bằng cách nào họ có được sự dũng cảm đó?

2. Bài học.

a. Đấng lãnh đạo cuộc diễn hành kỳ lạ.

Thành Giê-ri-cô là chìa khóa của xứ Ca-na-an, vì nếu thành Giê-ri-cô bị chiếm, thì cả xứ Ca-na-an có nguy cơ bị chiếm. Vào thời đại của Giô-suê, thành đã có sự phòng vệ rất nghiêm ngặt, bốn bên đều có tường cao, dày bao bọc, trên đó là những vọng gác luôn có những chiến sĩ trang bị đầy đủ vũ khí canh gác suốt hai mươi bốn giờ trong ngày. Khi có quân địch xuất hiện, lập tức những chiến sĩ canh gác sẽ nổi còi báo động. Trong thành có dự bị lương thực, phòng khi bị tấn công, không thể ra ngoài mua được. Khi hay tin dân Y-sơ-ra-ên đến gần, Giê-ri-cô đã đóng chặt cửa thành phòng thủ, và cấm ngặt không một ai được phép ra vào.

Trong khi đó dân Y-sơ-ra-ên là những người sống rày đây mai đó, không có vũ khí, không có tường cao bao bọc. Giô-suê không biết làm cách nào để chiếm thành. Bỗng nhiên, ông nhìn thấy một người tay cầm gươm, xuất hiện trước mặt. Giô-suê lập tức hỏi: “Ông là bạn hay thù?” Người đó trả lời: “Ta là tướng đạo binh của Đức Giê-hô-va”. Giô-suê biết ngay Đức Chúa Trời sẽ là vị tướng lãnh đạo cuộc chiến nầy, nên ông sấp mặt xuống đất thờ lạy và thưa: “Chúa muốn dạy con điều gì?” Trước khi Đức Chúa Trời phán dạy, Ngài bảo Giô-suê hãy cởi giày ra, vì nơi ông đang đứng là đất thánh. Giô-suê lập tức làm theo.

Đức Chúa Trời, tướng chỉ huy của quân Y-sơ-ra-ên, đã dự tính mọi việc. Giô-suê không cần phải suy nghĩ cách tấn công hay lo lắng sự thắng bại, những việc ông cần làm là tuân theo mệnh lệnh của Đức Chúa Trời.

Đức Chúa Trời căn dặn rõ ràng những việc cần làm. Đó là một chiến lược kỳ lạ mà con người không thể thực hiện được, nhưng Giô-suê hiểu rõ một điều, ông và dân sự phải thực hiện cho đúng mệnh lệnh của Đức Chúa Trời.

b. Thực hiện cuộc diễn hành kỳ lạ.

Sau khi nhận mệnh lệnh của Chúa, Giô-suê tập hợp các thầy tế lễ và toàn dân Y-sơ-ra-ên lại và phân công cho họ. Điều đặc biệt trong cuộc chiến nầy là toàn dân đều là chiến sĩ, các em thiếu nhi cũng là chiến sĩ. Các chiến sĩ nầy không cần phải chiến đấu bằng gươm giáo, gậy gộc. Họ chỉ cần xếp hàng theo thứ tự và đi diễn hành vòng quanh thành Giê-ri-cô sáu ngày, mỗi ngày một vòng. Đến ngày thứ bảy, phải đi bảy vòng, thì sẽ chiếm được thành. Thật đơn giản phải không các em, nhưng đòi hỏi đức tin và sự vâng lời tuyệt đối của dân sự.

Các thầy tế lễ và dân sự chuẩn bị sẵn sàng. Họ rời khỏi trại theo thứ tự như sau: Dẫn đầu cuộc diễn hành là những người cầm binh khí, kế đến là bảy thầy tế lễ thổi kèn, tiếp theo là bốn thầy tế lễ khiêng Hòm Giao ước, dân sự đi cuối cùng. Thành Giê-ri-cô cách Ghinh-ganh không xa nên một lát sau, đoàn diễn hành đã tới. Họ nhìn thấy thành trì vĩ đại, kiên cố, và những vọng gác của binh lính bảo vệ thành.

Đoàn diễn hành cứ đi vòng quanh thành Giê-ri-cô một vòng như lời Đức Chúa Trời đã dặn. Khi đi khoảng nửa thành, có hai chiến sĩ nhìn thấy một khung cửa sổ quen thuộc, ở đó cột sợi dây màu đỏ. Các em có biết cửa sổ nhà ai không? Đúng rồi, đó chính là cửa sổ nhà Ra-háp. Đi vòng quanh đủ một vòng, những binh lính trở về doanh trại.

Đây là cuộc diễn hành kỳ lạ nhất thế giới. Toàn quân đi trong im lặng, không ai được nói chuyện, chỉ nghe tiếng chân đi rầm rập và tiếng kèn. Dân thành Giê-ri-cô vô cùng bối rối, sợ hãi. Họ không biết kế hoạch của dân Y-sơ-ra-ên như thế nào, nên không biết xoay sở hay đối phó làm sao. Dầu vậy, quân lính trên các vọng gác và quân bảo vệ trong thành luôn ở trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Họ càng thêm hoang mang khi thấy dân Y-sơ-ra-ên đi một vòng rồi rút lui. Thông thường, quân địch luôn bao vây và không cho ai rời khỏi thành, cắt đứt nguồn nước vì giếng và sông đều ở bên ngoài thành. Ai rời thành cũng chết mà ở lại trong thành cũng chết vì khát. Nhưng trận chiến nầy lại hoàn toàn khác…

Sáu ngày liền, mỗi sáng sớm dân Y-sơ-ra-ên đều đi diễn hành giống như vậy. Đi một vòng rồi trở về. Dân Giê-ri-cô hết lo sợ, hoang mang, rồi lại chuyển sang ngạc nhiên. Họ thắc mắc không biết dân Y-sơ-ra-ên làm gì kỳ cục vậy? Có nhiều người còn cười chế nhạo nữa.

Đến ngày thứ bảy, kế hoạch diễn hành có khác đi. Họ phải dậy thật sớm và đi quanh thành, nhưng đi bảy vòng. Lần thứ bảy, những thầy tế lễ thổi một hồi kèn thật dài, thật lớn, Giô-suê nói cùng dân sự: “Hãy la lớn lên, vì Đức Giê-hô-va đã phó thành cho chúng ta”.

Dân sự vâng lời la lớn lên. Bỗng nhiên, họ thấy vách thành vĩ đại ngã sập xuống, và dân Y-sơ-ra-ên tràn vào thành khắp mọi hướng. Chỉ có nhà của Ra-háp ở trên vách thành là không bị sập, và đúng như lời hứa, hai thám tử đã đến giải cứu cả gia đình nàng ra khỏi thành. Dân thành Giê-ri-cô bị tiêu diệt và thành bị phóng hỏa. Dân Y-sơ-ra-ên hoàn toàn chiếm được thành không bởi sức mạnh, cũng không bởi sự khôn ngoan, nhưng bởi đức tin và sự vâng lời, Đức Chúa Trời đã ban cho họ sự chiến thắng.

3. Ứng dụng.

Các em thân mến! Giê-ri-cô là một thành lớn, quân đội của họ trang bị vũ khí tốt hơn nhiều so với dân Y-sơ-ra-ên. Vậy, bí quyết nào khiến cho dân Y-sơ-ra-ên chiến thắng? (Cho các em trả lời).

Đức Chúa Trời đã từng hứa với Giô-suê, nếu như họ cứ vâng theo lời Chúa, thì chiến thắng sẽ thuộc về họ. Rút kinh nghiệm từ bao việc xảy ra trước kia, Giô-suê đã học tập tin cậy Chúa.

Theo các em, khi đứng trước khó khăn của gia đình, của bản thân không thể giải quyết được, các em có bối rối, sợ hãi không? (Chờ câu trả lời). Đức Chúa Trời cũng ban cho các em một lời hứa. Nếu các em tin vào lời hứa của Ngài, thì Ngài sẽ giúp đỡ các em giống như đã giúp đỡ dân Y-sơ-ra-ên vậy: “Hãy vững lòng bền chí, chớ run sợ, chớ kinh khủng; vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi vẫn ở cùng ngươi trong mọi nơi ngươi đi” (Giô-suê 1:9).

Nếu các em tin vào lời hứa của Chúa, Chúa sẽ ban cho các em sức mạnh và lòng dũng cảm để vượt qua mọi khó khăn. Chúa vẫn luôn ở cùng các em trong mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh. Lúc các em chơi đùa, đi học, lao động, ốm, buồn, xa nhà, mất mát… Chúa vẫn ở cùng các em. Các em không nên hoang mang, sợ hãi, không nên nghi ngờ Ngài. Rồi các em sẽ thấy Đức Chúa Trời làm nhiều điều kỳ diệu khi các em tin cậy và vâng lời Ngài, giống như Ngài đã từng làm cho dân Y-sơ-ra-ên.

BÀI 6.  CUỘC DIỄN HÀNH KỲ LẠ NHẤT THẾ GIỚI (HV)

I. KINH THÁNH: Giô-suê 6:1-25.

II. CÂU GỐC: “Bởi đức tin, các tường thành Giê-ri-cô đổ xuống, sau khi người ta đi vòng quanh bảy ngày” (Hê-bơ-rơ 11:30).

III. BÀI TẬP.

1. Tường thành sụp đổ.

Điền vào chỗ trống dưới đây sẽ giúp em nhớ lâu hơn về câu chuyện kỳ diệu nầy. Hãy tham khảo các từ sau.

Thầy tế lễ, Ghinh-ganh, Giê-ri-cô, Đức Chúa Trời, vòng quanh, bảy ngày, Ra-háp, tường thành, tà thần, tiến chiếm, đức tin. 

  1. Dân Y-sơ-ra-ên ……………………… thành Giê-ri-cô.
  2. Họ đóng trại ở ………………………
  3. Dân ………………… rất sợ hãi dân Y-sơ-ra-ên.
  4. Dân Giê-ri-cô thờ lạy …………………………
  5. ………………………… là vị tướng lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên.
  6. ………………………… của Giê-ri-cô rất cao và vững chắc.
  7. Bốn ……………………… khiêng Hòm Giao ước.
  8. Dân Y-sơ-ra-ên đi diễn hành …………………………… thành Giê-ri-cô trong

…………………………………………………………………………………….

  1. Bởi ……………… của dân Y-sơ-ra-ên,

Đức Chúa Trời khiến

thành Giê-ri-cô sụp đổ.

10……………………… và người thân được cứu

2. Em tin cậy Chúa.

Giô-suê đã dũng cảm tin cậy Đức Chúa Trời. Em có tình nguyện tin cậy Chúa như Giô-suê đã từng tin không? Cho dù đến nơi đâu, Đức Chúa Trời vẫn ở cùng em.

Em suy nghĩ rồi điền vào bảng bên dưới.

Em đã, đang, hoặc sẽ tin Đức Chúa Trời

làm cho em những gì?………………………

………………………………………………………….

…………………………………………………………….

…………………………………………………………..

…………………………………………………………………….

……………………………………………………………………….

* Viết ra những việc Chúa đã giúp em trong những

ngày qua…………………………………………………………

…………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………….

…………………………………………………………………………

……………………………………………………………..

 

BÀI 6. ĐÔI BẠN TỐT (GV-HV)

BÀI 6. ĐÔI BẠN TỐT (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ III. 2016 on 17 Tháng Bảy, 2018

BÀI 6. ĐÔI BẠN TỐT (GV)

I. KINH THÁNH: 1Sa-mu-ên 18 – 20.

II. CÂU GỐC: “Bằng hữu thương mến nhau luôn luôn” (Châm Ngôn 17:17).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Giô-na-than luôn thương mến Đa-vít dù lúc Đa-vít được vua Sau-lơ ưu ái hay khi bị vua thù ghét.

– Cảm nhận: Bạn tốt bày tỏ lòng yêu thương khi mình gặp bất kỳ hoàn cảnh nào.

– Hành động: Em quyết tâm trở nên bạn tốt của mọi người.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Trò chơi câu gốc.

1. Mục đích: Giúp các em ghi nhớ câu gốc.

2. Vật liệu: Viết màu, bảng giấy, thẻ trả lời (mỗi tấm viết một câu gốc).

3. Thực hiện:

– Trước giờ học, giáo viên dùng viết màu ghi câu gốc đã xáo trộn thứ tự lên bảng giấy, ghi câu gốc đúng thứ tự vào thẻ trả lời. Giáo viên có thể xem sỉ số học viên để chuẩn bị một số câu gốc đã học.

– Đến lớp, mỗi em chọn một câu gốc và dùng thời gian ngắn để sắp xếp lại các chữ trong câu theo thứ tự. Sau đó so sánh với thẻ trả lời xem có đúng không? Giáo viên khen thưởng những em sắp xếp nhanh và đúng nhất.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

1. Vào đề.

Các em thân mến, nếu cần người làm giúp một việc, em sẽ nhờ ai? Vì sao em chọn người ấy? (Cho các em trả lời). Chắc chắn người đó là bạn tốt nhất của em phải không? Các em có biết Kinh Thánh dạy chúng ta làm thế nào để trở thành người bạn tốt không? Các em lắng nghe câu chuyện Kinh Thánh và câu gốc hôm nay để có câu trả lời nha.

2. Bài học.

(Giáo viên cho các em xem hình bài trước để ôn lại cảnh Đa-vít đối đầu với Gô-li-át. Đa-vít đã nói và làm gì?) Các em tưởng tượng xem, sau khi Đa-vít thắng Gô-li-át, chuyện gì sẽ xảy ra? Rất ít người biết cậu bé chăn chiên Đa-vít, thế nhưng giờ đây Đa-vít bỗng trở thành vị anh hùng của cả nước. Ai nấy đều bảo nhau: “Đa-vít thật là giỏi!”

Vua Sau-lơ lập Đa-vít cầm đầu đạo quân. Vì lập được nhiều chiến công nên Đa-vít được phụ nữ trong thành hát xướng ca ngợi. Hoàng tử Giô-na-than kết bạn cùng Đa-vít.

Giô-na-than con trưởng của Sau-lơ (cho các em xem hình) hứa sẽ mãi là bạn thân của Đa-vít và tặng Đa-vít nhiều quà đặc biệt như gươm, cung, áo choàng và đai thắt lưng của mình nữa. Thấy Đa-vít sử dụng những vật nầy, mọi người đều biết Đa-vít là bạn thân của hoàng tử Giô-na-than.

Vua Sau-lơ thấy Đa-vít được nhiều người quí mến nên sinh lòng ganh tỵ. Đến khi nghe người ta ca hát tung hô Đa-vít, Sau-lơ nổi giận quát lớn: “Thế nầy là thế nào? Họ ca ngợi Đa-vít hơn ta sao?” Người ta hát rằng: “Sau-lơ giết hàng ngàn, còn Đa-vít giết hàng vạn”. Điều đó khiến Sau-lơ lo sợ một ngày nào đó, dân chúng sẽ lập Đa-vít làm vua. Vì vậy, Sau-lơ ngày càng bất an và buồn bực.

Một hôm, Đa-vít đàn cho vua nghe như thường lệ. Khi Đa-vít đang gảy đàn (giáo viên dừng lại giây lát), bỗng Sau-lơ cầm một cây giáo trên tay, nhắm thẳng vào Đa-vít mà phóng tới. Nhưng thật là may, Đa-vít tránh kịp mũi giáo độc ác đó!

Sau việc ấy, Sau-lơ lập Đa-vít làm trưởng ngàn người đi chiến đấu. Vua muốn Đa-vít bỏ xác nơi chiến trường, nhưng Đức Chúa Trời bảo vệ Đa-vít nên cậu mỗi ngày càng lập thêm chiến công. Đa-vít ra trận trở về thì đứng đầu đạo binh khiến Sau-lơ ngày càng tức giận hơn.

Từ ngày Đa-vít được vua cha thương mến Giô-na-than trở thành bạn tốt của Đa-vít. Nhưng nay, dù Đa-vít không còn được vua Sau-lơ thương mến nữa, thì Giô-na-than vẫn là bạn tốt của Đa-vít. Hay tin vua cha định giết Đa-vít, Giô-na-than liền bí mật báo cho Đa-vít tìm nơi ẩn náu, còn mình thì tìm cách để cha và Đa-vít làm hòa với nhau.

Dù không rõ âm mưu của cha nhưng Giô-na-than biết bạn mình đang gặp nguy hiểm. Giô-na-than yêu mến Đa-vít nên nói với bạn: “Đa-vít, bất kỳ điều gì bạn muốn, mình cũng sẽ hết lòng giúp bạn”. Đa-vít và Giô-na-than hứa sẽ là bạn tốt của nhau dù hoàn cảnh có thay đổi thế nào đi nữa. Giô-na-than giúp Đa-vít chạy trốn, còn Đa-vít hứa sẽ đối xử tốt với Giô-na-than và con cái của Giô-na-than. Sau nầy họ đã giữ lời hứa và không hề thay đổi dù bất cứ điều gì xảy ra.

Giô-na-than nghĩ cách giúp Đa-vít chạy trốn. Đa-vít ẩn náu trong đồng ruộng, trong khi Giô-na-than dò ý Sau-lơ, xem ông muốn xử Đa-vít thế nào. Giô-na-than căn dặn: “Khi biết được ý định của cha, tôi sẽ đến đồng ruộng nầy và bắn ba mũi tên. Khi bạn nghe tôi bảo người nhặt tên: Các mũi tên ở bên này, thì có nghĩa là bạn có thể trở về bình an. Còn nếu tôi nói rằng: Các mũi tên ở bên kia, thì anh phải mau đi ngay. Nguyện Đức Chúa Trời làm chứng cho anh và tôi”.

Chỉ vài ngày sau, Giô-na-than biết vua Sau-lơ định xử Đa-vít tội chết. Theo thường lệ, Giô-na-than và Đa-vít cùng ăn tối với Sau-lơ. Sau-lơ thấy Đa-vít vắng mặt hai bữa rồi nên tức giận truyền lệnh: “Hãy đi bắt Đa-vít đem về đây cho ta. Nó sẽ phải chết”. Giô-na-than  hỏi: “Sao cha lại muốn giết Đa-vít?” Sau-lơ giận dữ phóng cây giáo về phía Giô-na-than. Thấy vậy, Giô-na-than biết Đa-vít không thể nào trở về sống trong cung an toàn được, chắc chắn cha mình sẽ giết Đa-vít.

Sáng hôm sau, Giô-na-than đến điểm hẹn ngoài đồng ruộng cùng một người hầu. Giô-na-than đem cung tên ra bắn và bảo người nhặt tên: “Tên ở bên kia. Đi nhanh lên, đừng chần chừ”. Người nhặt tên dĩ nhiên không biết ẩn ý của Giô-na-than, nhưng Đa-vít hiểu mình phải nhanh chóng rời khỏi nơi đây tìm nơi ẩn náu.

Khi người hầu đã đi rồi, Đa-vít ra khỏi chỗ nấp. Đa-vít và Giô-na-than ôm nhau từ giã và cả hai đều khóc khi chia tay. Tuy phải xa nhau, nhưng Đa-vít vui mừng vì có được người bạn tốt như Giô-na-than, người bạn dù lúc sung sướng hay khi gặp khó khăn đều sẵn lòng giúp đỡ, không tính toán thiệt hơn, giữ trọn lời hứa, vì bạn sẵn lòng quên cả mạng sống mình. Đa-vít sẽ chẳng bao giờ quên Giô-na-than, người bạn thân yêu của mình.

3. Ứng dụng.

– Hướng dẫn các em làm bài tập trong sách học viên, sau đó hỏi: Giô-na-than đã bày tỏ lòng yêu thương đối với Đa-vít như thế nào? Cho các em đọc câu gốc hôm nay, gạch dưới chữ “luôn luôn” và nhắc nhở các em biết cách đối xử với bạn. Khuyến khích các em suy nghĩ và hoàn thành câu: “Bạn chính là…”.

– Nếu các em vui vẻ, dễ gần gũi, các em có thể dễ dàng kết bạn phải không? Nếu một người bạn của em lỡ làm một điều khiến em và mọi người không vui thì em sẽ đối xử như thế nào? Ví dụ: Em và các bạn đang tham dự cuộc chạy thi tiếp sức. Đến cuối cuộc thi, bạn Cường bị té khiến cả đội thua cuộc. Các bạn nghỉ chơi với Cường và cằn nhằn bạn ấy. Nhưng khi nhớ đến câu gốc bài nầy, nhất là hai chữ “luôn luôn”, thì em sẽ xử sự ra sao? Cho các em trả lời. Khuyến khích các em phát biểu trong hoàn cảnh nào cần có bạn nhất? Giúp các em hiểu biết cách cư xử trong tình bạn.

– Hướng dẫn các em cầu nguyện, xin Chúa giúp các em trở nên người bạn tốt của mọi người.

BÀI 6. ĐÔI BẠN TỐT (HV)

I. KINH THÁNH: 1Sa-mu-ên 18 – 20.

II. CÂU GỐC: “Bằng hữu thương mến nhau luôn luôn” (Châm Ngôn 17:17).

III. BÀI TẬP.

* EM SẼ LÀM GÌ?

Em và các bạn chơi đá cầu. Em là nhóm trưởng đang lựa chọn nhóm viên cho nhóm của mình. Em chọn Cường, Trân và Tân, nhưng Cường và Trân đều nói: “Đừng chọn Tân, bạn ấy chơi dở lắm”.

Em sẽ làm gì? Viết hoặc vẽ vào ô trống cho biết em sẽ làm gì để trở thành bạn tốt.

 

 

 

 

EM LÀ BẠN TỐT