Tác giả: andynguyen

BÀI 4. DẪN DẮT CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (GV-HV)

BÀI 4. DẪN DẮT CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (GV-HV)

in QUÍ II. 2016, THIẾU NHI on 7 Tháng Ba, 2018

BÀI 4. DẪN DẮT CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (GV)

I. KINH THÁNH: Sáng 24.

II. CÂU GỐC: “Hãy phó thác đường lối mình cho Đức Giê-hô-va, và nhờ cậy nơi Ngài, thì Ngài sẽ làm thành việc ấy” (Thi 37:5).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Ê-li-ê-se cầu xin Đức Chúa Trời dẫn dắt để chọn một người vợ cho Y-sác.

– Cảm nhận: Phó thác tương lai cho Chúa để Ngài lo liệu và dẫn dắt.

– Hành động: Giao phó cuộc sống cho Chúa.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY

A. CHUẨN BỊ.

Trả lời thắc mắc của các em trong tuần trước.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

1. Vào đề.

Khi nhận một công việc khó khăn, thì các em sẽ làm sao? Bực dọc, lằm bằm, chán nản, cố gắng làm một mình, tìm người khác giúp đỡ, cầu nguyện xin Chúa giúp đỡ? (Cho các em trả lời).

Có một người được sai đi đến nơi xa lạ, thực hiện một công việc khó khăn. Đó là đi tìm một người chưa từng quen biết, mời người đó theo mình về nhà. Mới nghe qua, chúng ta nghĩ việc nầy khó có thể xảy ra, nhưng nó đã xảy ra và Kinh Thánh ghi chép lại. Các em cùng nghe nhé!

2. Bài học.

(1) Trách nhiệm của Ê-li-ê-se.

Sau khi dâng của lễ trên núi Mô-ri-a, Áp-ra-ham và Y-sác trở về nhà, cùng gia đình sống trong sự vui mừng và phước hạnh Chúa ban. Nhưng một thời gian sau, bà Sa-ra qua đời. Áp-ra-ham và Y-sác vô cùng đau buồn. Trong lúc đó, Áp-ra-ham tuổi đã cao, và Y-sác cũng đã trưởng thành, nên ông muốn cưới vợ cho con, và nhờ đó Y-sác có thể đỡ buồn sau khi mẹ mất. Các em biết không, theo phong tục hồi đó, việc dựng vợ gả chồng là do cha mẹ sắp đặt. Vì vậy, Áp-ra-ham cần phải chọn cho Y-sác một người vợ. Ông nhớ lại những người bà con ở quê hương, nên nói với  người quản gia trung thành là Ê-li-ê-se: “Hãy đi về quê hương ta, tìm trong vòng bà con của ta một người con gái, để cưới làm vợ cho Y-sác”. Vì sao Áp-ra-ham lại bảo Ê-li-ê-se về quê để tìm vợ cho Y-sác, các em biết không? Vì ông không muốn cưới cô gái không tin Chúa cho con mình.

Đầy tớ Ê-li-ê-se nhận trách nhiệm nầy, nhưng lo lắng lắm. Ông nghĩ đến những khó khăn có thể xảy ra, nên hỏi: “Nếu cô gái đó không chịu theo tôi về, thì tôi có dẫn con trai của ông tới đó không?”

Áp-ra-ham nói rằng: “Không, đừng dẫn con ta về xứ đó. Đức Chúa Trời đã hứa ban đất nầy cho dòng dõi ta rồi. Ngài chắc chắn sẽ dẫn dắt ngươi chọn được người con gái thích hợp. Ông có bằng lòng trung tín làm việc nầy cho ta không?”

Ê-li-ê-se đồng ý. Đây là một việc rất quan trọng, đi tìm một người vợ kính sợ Chúa cho Y-sác. Ê-li-ê-se vâng lời Áp-ra-ham, mang theo mười con lạc đà mập nhất, và rất nhiều của lễ để tặng cho người con gái được chọn. Cùng đi với Ê-li-ê-se là những người đầy tớ của Áp-ra-ham.

(2) Lời cầu nguyện của Ê-li-ê-se.

Sau chặng đường dài đi ngang qua sa mạc nóng bức, Ê-li-ê-se mới đến quê của Áp-ra-ham, là xứ Cha-ran.

Ê-li-ê-se dừng chân bên một cái giếng ở ngoài thành phố. Theo phong tục lúc bấy giờ, những người phụ nữ thường hay ra giếng lấy nước vào lúc mặt trời sắp lặn. Ê-li-ê-se ngồi đợi bên giếng. Ông nghĩ một lát nữa sẽ có nhiều cô gái ra xách nước, nhưng làm sao để chọn một cô gái thích hợp với Y-sác đây? Ê-li-ê-se nhớ lại lời Áp-ra-ham: “Đức Chúa Trời sẽ giúp ngươi tìm được người con gái thích hợp”.

Ê-li-ê-se tin Đức Chúa Trời sẽ giúp đỡ trong việc nầy, nên ông cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin ngày nay cho tôi gặp điều tôi tìm kiếm. Bây giờ, tôi đứng gần bên giếng nầy, các con gái của dân trong thành sẽ ra đi xách nước. Xin cho người gái trẻ nào mà tôi nói như vầy: Nàng cho tôi uống nhờ hớp nước, mà nàng trả lời rằng: Mời ông uống. Tôi sẽ cho các lạc đà ông uống nữa, thì đó là người Chúa chọn cho Y-sác”.

(3) Đức Chúa Trời nhậm lời Ê-li-ê-se.

Khi Ê-li-ê-se vừa cầu nguyện xong, có một người con gái xinh đẹp vác bình trên vai đi đến giếng nước. Ê-li-ê-se tới gần xin nàng nước uống. Ông chú ý theo dõi sự trả lời của cô gái, xem thử Đức Chúa Trời có chọn cô nầy làm vợ Y-sác không?

Cô gái đáp rằng: “Xin mời ông uống” và nàng lật đật nghiêng bình nước. Khi Ê-li-ê-se uống xong, cô gái nói tiếp: “Tôi sẽ xách nước cho mấy con lạc đà của ông uống nữa”.

Khi nghe cô gái nói vậy, Ê-li-ê-se vui mừng đến mức ngạc nhiên, vì Đức Chúa Trời đã nhậm lời cầu nguyện của ông nhanh chóng và chính xác. Đây chính là cô gái mà Đức Chúa Trời đã chọn cho Y-sác. Nhìn cô gái liên tục xách nước cho bầy lạc đà uống, Ê-li-ê-se vui mừng cảm tạ Chúa. Khi lạc đà vừa uống xong, Ê-li-ê-se lấy một khoen vàng và một món đồ nữ trang tặng cho nàng và hỏi: “Cô là con nhà ai? Cho tôi biết được không? Nhà cha của cô có chỗ nào cho tôi nghỉ trọ ban đêm không?”

Cô gái giới thiệu mình là Rê-bê-ca, cháu nội của Na-cô, em của Áp-ra-ham, rồi mời Ê-li-ê-se về nhà. Lúc nầy, Ê-li-ê-se biết đã tìm đúng cô gái mình muốn tìm rồi, cho nên ông cầu nguyện cảm tạ sự dẫn dắt của Chúa.

(4) Hoàn thành trách nhiệm.

Rê-bê-ca chạy vội về nhà báo cho gia đình biết. Anh của Rê-bê-ca chạy ra rước Ê-li-ê-se vào nhà và tiếp đãi rất tử tế. Sau đó, Ê-li-ê-se trình bày mục đích mình đến đây và thay mặt Áp-ra-ham hỏi nàng Rê-bê-ca làm vợ Y-sác. Anh trai và mẹ của Rê-bê-ca đã đồng ý, nhưng họ muốn hỏi ý kiến của cô. Dù không biết Y-sác như thế nào, song Rê-bê-ca sẵn sàng đi theo Ê-li-ê-se về Ca-na-an. Khi Y-sác gặp Rê-bê-ca thì yêu thương và cưới nàng làm vợ. Đức Chúa Trời đã nhậm lời cầu nguyện của người đầy tớ.

3. Ứng dụng.

Các em thân mến! Đức Chúa Trời đã nhậm lời cầu nguyện của Ê-li-ê-se và dẫn dắt ông từng bước một. Nếu Ê-li-ê-se không giao phó việc nầy cho Chúa, mà chọn lựa theo sự khôn ngoan của mình, thì không có người vợ tốt đẹp cho Y-sác. Các em ạ! Bất cứ việc gì các em cũng nên giao phó cho Chúa và nhờ cậy Ngài dẫn dắt. Chắc chắn, Chúa sẽ dẫn dắt các em như Ngài đã dẫn dắt Ê-li-ê-se vậy.

(Cho các em đọc câu gốc 3 lần).

 

 

(HỌC VIÊN)

BÀI 4. SỰ DẪN DẮT CỦA CHÚA

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 24.

II. CÂU GỐC: “Hãy phó thác đường lối mình cho Đức Giê-hô-va, và nhờ cậy nơi Ngài, thì Ngài sẽ làm thành việc ấy”  (Thi Thiên 37:5).

III. BÀI TẬP.

1. Em hoàn thành câu chuyện nầy bằng những từ ngữ thích hợp nhé!

– Ê-li-ê-se.

– Cha-ran.

– Xách nước.

– Quê hương.

– 10.

– Đức Chúa Trời.

– Cầu nguyện.

– Rê-bê-ca.

– Nước uống.

– Dẫn dắt.

– Sính lễ.

Áp-ra-ham sai người đầy tớ là ________ đi về ______

để cưới một người vợ cho Y-sác. Người đầy tớ mang theo ____ con lạc đà và rất nhiều _______ để tặng cho nàng dâu và người nhà cô ấy.

Lúc đến ______, Ê-li-ê-se cầu xin_______ chỉ dẫn để chọn một cô gái thích hợp với Y-sác. Ông _______ rằng: “Nếu con gái trẻ nào _______ cho tôi và lạc đà uống, ấy là người mà Đức Chúa Trời chọn”. Vừa dứt lời, có một cô gái trẻ đi ra xách nước và khi Ê-li-ê-se xin _________ , thì nàng đã làm y như điều ông cầu nguyện. Nàng tên là_______ Đức Chúa Trời đã ________ và nhậm lời cầu nguyện của Ê-li-ê-se.

2. Dùng lời văn của em để trả lời các câu hỏi dưới đây:

a. Cầu nguyện là gì?



b. Tại sao em phải cầu nguyện?



c. Giờ nào em có thể cầu nguyện?



d. Em có thể cầu nguyện ở đâu?



e. Em có tin rằng Đức Chúa Trời sẽ nhậm lời cầu nguyện của em không? Vì sao?



 

g. Ý chính của câu gốc tuần nầy là gì?



3. Phó thác là cầu nguyện dâng hết mọi sự cho Chúa, hoàn toàn nhờ cậy nơi Ngài, tin chắc Đức Chúa Trời sẽ dẫn dắt.

Dưới đây là một biểu mẫu. Em hãy đánh dấu “X” vào ngày mà em đã phó thác mọi việc cho Chúa. Đánh dấu “+” vào ngày Đức Chúa Trời đã nhậm lời cầu nguyện, em dâng lời cảm tạ Chúa.

BÀI 4. GIA-CỐP CẢM TẠ ĐỨC CHÚA TRỜI (GV-HV)

BÀI 4. GIA-CỐP CẢM TẠ ĐỨC CHÚA TRỜI (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ II. 2016 on 7 Tháng Ba, 2018

BÀI 4. GIA-CỐP CẢM TẠ ĐỨC CHÚA TRỜI (GV)

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 33:1-11; 35:1-3, 6-15.

II. CÂU GỐC: “Hãy hứa nguyện và trả xong cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi” (Thi Thiên 76:11).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Gia-cốp lập bàn thờ cảm tạ Đức Chúa Trời vì sự chăm sóc của Ngài đối với ông.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời chăm sóc chúng ta, cho nên chúng ta phải biết cảm tạ Ngài.

– Hành động: Em cảm tạ Đức Chúa Trời vì sự chăm sóc của Ngài.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Đức Chúa Trời giải quyết nan đề.

Cùng bàn luận với các em về bài tập “Nan đề của em” trong sách học viên bài 4. Hướng dẫn các em chia sẻ những việc mà em cảm thấy khó thực hiện. Có thể tham khảo các thí dụ trong bài tập. Mục đích là chỉ ra một số khó khăn trong cuộc sống, chúng ta phải nhờ cậy Đức Chúa Trời giải quyết, và cảm tạ Đức Chúa Trời vì sự chăm sóc của Ngài trên đời sống chúng ta.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị: Photo lớn trang tài liệu 8-9 trong sách giáo viên, 2 viên đá).

1. Vào đề.

Bài học trước các em đã biết La-ban và Gia-cốp kết ước sẽ không vượt qua ranh giới để làm hại nhau. Khi La-ban quay trở về, Gia-cốp như vứt đi được một tảng đá. (Giáo viên lấy một viên đá trong người ra để lên bàn). Nhưng Gia-cốp vẫn còn một gánh nặng khác, một tảng đá lớn đeo dai dẳng trong lòng bao nhiêu năm nay. Đây là một nan đề lớn của Gia-cốp! Bài học nầy sẽ giúp các em hiểu rõ hơn về điều nầy.

2. Bài học.

Có một người khiến Gia-cốp không yên lòng, đó là Ê-sau. Trên đường trở về, Gia-cốp đã sai người đến chỗ của Ê-sau, xin anh tha thứ, nhưng không ngờ đầy tớ trở về nói: “Ê-sau dẫn bốn trăm người đang đi đến!” Gia-cốp lo lắng nghĩ thầm: “Ê-sau sẽ đối xử với mình và gia đình như thế nào? Có lẽ Ê-sau vẫn còn giận, vẫn còn muốn trả thù. Nếu Ê-sau muốn giết mình và cả gia đình, thì thật là đáng sợ. Làm cách nào đây?” (Cho các em xem hình Gia-cốp đang lo lắng).

Gia-cốp là người nhiều mưu kế, ông chia gia nhân làm hai toán, cho mỗi toán coi sóc một nửa số gia súc để khỏi bị mất toàn bộ. Rồi Gia-cốp cầu nguyện khẩn thiết, xin Đức Chúa Trời cứu ông thoát khỏi tay anh mình. Gia-cốp cũng sai gia nhân ba lần đem lễ vật đến tặng Ê-sau, bày tỏ thiện ý mong muốn hòa hảo với anh.

Khi thấy đoàn người của Ê-sau đi đến, Gia-cốp liền chia người nhà thành ba toán, cho Ra-chên và con trai do nàng sinh ra đi sau cùng, còn Gia-cốp thì đi trước để đón Ê-sau.

Ê-sau nhìn thấy một đoàn người và súc vật ở xa xa, biết là của Gia-cốp. Rồi Ê-sau thấy người đi đầu tiên đi rất lạ, cứ đi vài bước lại sấp mình xuống đất, rồi lại đứng dậy đi tiếp, liên tục như vậy đến bảy lần. Nhìn kỹ, Ê-sau nhận ra người đó là Gia-cốp. Quá xúc động, Ê-sau chạy đến ôm hôn Gia-cốp. (Giải thích cho các em biết, thời đó hôn nhau là bày tỏ sự thân thiện). Cả hai anh em đều cảm động và khóc. (Cho các em xem hình Gia-cốp và Ê-sau hòa hảo). Thấy Ê-sau không có ác ý, Gia-cốp liền giới thiệu vợ con cho Ê-sau biết. Ê-sau nói với Gia-cốp: “Các bầy vật em đưa đến làm chi vậy?” Gia-cốp trả lời: “Bởi vì Đức Chúa Trời ban cho em đầy đủ mọi sự. Xin anh hãy nhận lễ vật đó vì anh chịu tha thứ cho em, cũng như Đức Chúa Trời tha thứ cho em vậy!” Gia-cốp cố nài nỉ mãi cho đến khi Ê-sau nhận các lễ vật ấy. Hai anh em họ đã giải hòa với nhau. Bây giờ tảng đá lớn nhất, bấy lâu nay đè nặng trong lòng Gia-cốp được lấy ra! (Lấy một cục đá lớn trong người ra để lên bàn).

Sau đó, Đức Chúa Trời nhắc Gia-cốp phải đến Bê-tên để trả sự hứa nguyện. Bê-tên là nơi Gia-cốp gặp Đức Chúa Trời đầu tiên. Các em có nhớ Gia-cốp từng hứa nguyện: “Nếu Đức Chúa Trời gìn giữ con bình an trở về, thì con sẽ chỉ thờ phượng Chúa và dâng một phần mười tài sản cho Ngài”. Vì thế, Gia-cốp và cả gia đình cùng đi đến Bê-tên, lập một bàn thờ, thờ phượng Đức Chúa Trời và cảm tạ Ngài. Giờ đây, Đức Chúa Trời không chỉ là Đức Chúa Trời của tổ phụ Gia-cốp mà là Đức Chúa Trời của chính ông. Bởi vì Gia-cốp đã kinh nghiệm sự chăm sóc của Đức Chúa Trời – Khi cô đơn Đức Chúa Trời ở cùng, khi thiếu thốn Đức Chúa Trời giúp đỡ, khi nhận lỗi với người khác Đức Chúa Trời đoái xem.

Các em thân mến, có lẽ từ nhỏ các em đã theo ba mẹ hoặc người lớn đến Hội Thánh, và em nghĩ rằng Đức Chúa Trời là của ba mẹ hoặc của người nào đó. Nhưng qua bài học nầy, em có nhận thấy rằng Đức Chúa Trời cũng luôn chăm lo cho em, Ngài là Đức Chúa Trời của em, cũng là Đức Chúa Trời của cô (thầy). Chúng ta hãy luôn cảm tạ Chúa vì những ơn phước Ngài ban cho chúng ta, em nhé.

3. Ứng dụng.

Cho các em thảo luận bằng cách trả lời các câu hỏi sau: Tâm trạng của Gia-cốp thế nào khi sắp gặp lại Ê-sau? Gia-cốp chuẩn bị đón tiếp Ê-sau như thế nào? Cuối cùng, hai anh em họ có kết quả như thế nào? Tại sao Gia-cốp phải trở về Bê-tên? Sau đó hoàn thành bài tập: “Đức Chúa Trời giúp đỡ Gia-cốp như thế nào? (Đáp án: 1c, 2d, 3a, 4b).

Hướng dẫn các em hoàn tất bài tập: “Thư cảm tạ Đức Chúa Trời” trong trang cắt dán, để tỏ lòng cảm tạ Đức Chúa Trời. (Có thể dùng hình vẽ thay cho chữ viết).

 

 

 

(HỌC VIÊN)

BÀI 4. GIA-CỐP CẢM TẠ ĐỨC CHÚA TRỜI (HV)

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 33:1-11; 35:1-3, 6-15.

II. CÂU GỐC: “Hãy hứa nguyện và trả xong cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi” (Thi Thiên 76:11).

III. BÀI TẬP.

A. NAN ĐỀ CỦA EM.

Hãy khoanh tròn những việc em cho là mình khó có thể làm được.

  1. Nhận lỗi khi sai phạm.
  2. Khen người có thành tích tốt hơn mình.
  3. Làm hòa với bạn sau khi cãi nhau.
  4. Chủ động làm bài tập ở nhà.

 

B. ĐỨC CHÚA TRỜI ĐOÁI XEM GIA-CỐP NHƯ THẾ NÀO?

Xem hình vẽ, dùng đường kẻ nối các hình vẽ chữ và số thích hợp lại với nhau.

1. Gia-cốp cô đơn trong đồng vắng.

2. Gia-cốp gặp La-ban và không có việc gì xảy ra.

3. Gia đình Gia-cốp bị La-ban đuổi theo.

4. Gia-cốp lo lắng Ê-sau không tha thứ cho mình.

 

a. Gia-cốp và La-ban chất đá lập giao ước.

b. Ê-sau tha thứ cho Gia-cốp.

c. Gia-cốp mơ thấy thiên sứ.

d. Gia-cốp rời khỏi nhà La-ban với vợ con và tài sản.

 

BÀI 4. NI-CÔ-ĐEM ĐẾN THĂM CHÚA GIÊ-XU (GV-HV)

BÀI 4. NI-CÔ-ĐEM ĐẾN THĂM CHÚA GIÊ-XU (GV-HV)

in ẤU NHI, QUÍ II. 2016 on 7 Tháng Ba, 2018

BÀI 4. NI-CÔ-ĐEM ĐẾN THĂM CHÚA GIÊ-XU (GV)

I. KINH THÁNH: Giăng 3:1-21; 7:50-51.

II. CÂU GỐC: “Ai tin Con, thì được sự sống đời đời” (Giăng 3:36).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Ni-cô-đem đến thăm Chúa Giê-xu để học biết cách trở thành con cái của Đức Chúa Trời.

– Cảm nhận: Tin nhận Chúa, sẽ trở thành người trong nhà Chúa.

Hành động: Tin chắc rằng mình đã được Chúa cứu, được làm con của Ngài.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

– Chuẩn bị số trái tim mỗi màu đen và trắng bằng số học viên có trong lớp, chia các em làm 2 nhóm bằng nhau, 1 nhóm đeo tim trắng, và 1 nhóm đeo tim đen.

– Cho các em đeo tim trắng đi bắt các em đeo tim đen; em tim đen bị bắt thì phải lấy tim đen ra đeo tim trắng vào, gia nhập vào nhóm tim trắng, rồi cùng nhau đi bắt những em tim đen cho đến khi nào các em hoàn toàn là tim trắng.

* Mục đích của trò chơi này là để giúp các em ý thức được những người không tin Chúa Giê-xu là ở trong tay ma quỷ. Mời họ tin Chúa, tức là các em trói tay ma quỷ, đoạt họ trở lại. Đó không phải là việc dễ dàng, nên các em đừng nản lòng. Nếu bạn từ chối lời mời tham gia Trường Chúa nhật, các em đi mời lần nữa để bạn của các em có dịp nghe về Chúa, được giải phóng khỏi tay của ma quỷ, tội lỗi được tha thứ và trở thành con cái của Đức Chúa Trời.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

1. Vào bài.

Các em ở nhà có khi nào tiếp khách chưa? (Cho các em trả lời). Cô (thầy) thấy có rất nhiều em gật đầu.

Vậy, khách của các em là ai? (Để các em suy nghĩ rồi trả lời). À, thì ra những người đến thăm hoặc chơi đùa với các em là khách của các em, cũng có khi là chú, bác hay dì của các em nữa, phải không? (Thu nhận những câu trả lời của các em rồi tổng kết).

Các em có còn nhớ họ đến thăm các em vào lúc nào? Đúng rồi, họ thường thăm viếng các em vào ban ngày, buổi sáng hoặc buổi chiều tối. Tại sao ban đêm họ không đến thăm các em? Vì ban đêm là lúc mọi người đều nghỉ ngơi, nhất là những em nhỏ như các em, đã ngủ rất sớm, làm sao đi thăm viếng người khác được?! Nhưng rất lạ, Kinh Thánh cho chúng ta biết có một  người đi thăm Chúa Giê-xu mà lại thăm vào ban đêm. Tại sao phải thăm vào lúc đó và thăm để làm gì? Các em hãy theo dõi câu chuyện để biết nhé.

2. Bài học.

Các em có muốn biết người khách nầy tên là gì không? Người ấy tên là Ni-cô-đem. Các em cùng cô (thầy) đọc tên nầy nhiều lần để nhớ nhé: “Ni-cô-đem”.

Ông Ni-cô-đem ở trong thành Giê-ru-sa-lem. Ông là một người rất thích học lời của Đức Chúa Trời và đã từng nghe Chúa Giê-xu nói về Đức Chúa Trời. Ông nghĩ rằng Chúa Giê-xu là một thầy giáo rất tốt, nên muốn được hiểu thêm về Ngài. Nhưng nếu ông đến gặp Chúa vào ban ngày, sẽ có nhiều người biết và ghét ông, còn Chúa Giê-xu thì đang bị họ ganh ghét, tìm cách bắt Ngài. Vì thế, ông quyết định đi thăm Ngài vào ban đêm để không có ai nhìn thấy: “Tôi phải tìm Chúa Giê-xu, nói chuyện với Ngài”.

Ni-cô-đem đến nơi ở của Chúa Giê-xu. Ngài vui vẻ tiếp ông. Cảnh ban đêm thật là mát mẻ và đẹp! Chúa Giê-xu và ông Ni-cô-đem có thể nhìn thấy ánh trăng, những vì sao lấp lánh, và hưởng những làn gió nhẹ thổi qua. Nhưng Ni-cô-đem không chú ý lắm về điều đó. Người vừa gặp Chúa Giê-xu thì liền nói: “Thưa Thầy, qua những phép lạ Thầy đã làm, tôi biết Thầy là từ Đức Chúa Trời đến và Đức Chúa Trời ở cùng Thầy”. “Ni-cô-đem”, Chúa Giê-xu nói một cách mềm mại: “Đức Chúa Trời yêu thương hết thảy mọi người trên thế gian, dù là người lớn hay trẻ em, nam hay nữ, già hay trẻ, giàu hay nghèo… Ngài mong có một ngày được thấy họ cùng ở trên trời với Ngài. Vì vậy, Đức Chúa Trời sai Ta nói với mọi người rằng, Ngài mong mọi tội của họ được tha thứ, để họ trở thành con cái của Đức Chúa Trời, trở thành người trong nhà của Ngài”.

Ni-cô-đem chưa hiểu rõ, nên nói: “Lạ quá, việc này làm sao xảy ra được? Con người thường làm những việc xấu xa thì làm thế nào trở thành người tốt trong nhà của Đức Chúa Trời được? Làm sao họ ở với Chúa mãi mãi trên thiên đàng được?” Chúa Giê-xu mỉm cười trả lời: “Ngươi không biết gió từ đâu đến, nhưng ngươi cảm thấy mặt ngươi rất mát mẻ và thấy cành lá lung lay, thì ngươi biết có gió thổi qua”. Lúc nầy, gió đang thổi nhẹ, làm cho Ni-cô-đem cảm thấy mát. Chúa Giê-xu tiếp tục nói: “Ni-cô-đem! Mặc dù ngươi chưa hiểu, nhưng ngươi có thể trở thành người trong nhà Đức Chúa Trời, nếu ngươi tin Ta chính là Con của Đức Chúa Trời, Cứu Chúa của nhân loại. Ngươi sẽ trở thành con của Đức Chúa Trời và sẽ được sống mãi mãi với Ngài trong thiên đàng”.

Khi biết được điều nầy, Ni-cô-đem vui mừng lắm. Về sau, ông là một người tin Chúa, bày tỏ lòng yêu Chúa và can đảm qua việc đem thuốc thơm xức lên xác Chúa Giê-xu khi Ngài chết”.

3. Ứng dụng.

Nầy các em, các em có tin Chúa Giê-xu là Con của Đức Chúa Trời không? Các em có muốn mời Chúa ngự vào lòng mình không? Chỉ có như vậy, những điều xấu mà các em đã làm như cãi nhau, đánh nhau, ăn cắp, nói dối, nói xấu… của các em mới được tha thứ, các em mới có thể trở thành con của Đức Chúa Trời, trở thành người trong nhà Đức Chúa Trời, và sau này sẽ được ở với Đức Chúa Trời mãi mãi.

Nếu có em nào muốn tin Chúa thì giờ nầy bước lên đây, cô (thầy) sẽ dạy các em cầu nguyện với Ngài (cho các em cầu nguyện từng câu theo lời của giáo viên).

 

 

 

(HỌC VIÊN)

BÀI 4. NI-CÔ-ĐEM ĐẾN THĂM CHÚA GIÊ-XU (HV)

I. KINH THÁNH: Giăng 3:1-21; 7:50-51.

II. CÂU GỐC: “Ai tin Con, thì được sự sống đời đời” (Giăng 3:36).

BÀI 3. ĐẠT ĐIỂM CAO TRONG THỬ NGHIỆM (GV-HV)

BÀI 3. ĐẠT ĐIỂM CAO TRONG THỬ NGHIỆM (GV-HV)

in QUÍ II. 2016, THIẾU NHI on 5 Tháng Ba, 2018

BÀI 3. ĐẠT ĐIỂM CAO TRONG THỬ NGHIỆM (GV)

I. KINH THÁNH: Sáng 22:1-19.

II. CÂU GỐC: “…Hầu cho sự thử thách đức tin anh em quý hơn vàng hay hư nát, dầu đã bị thử lửa, sanh ra ngợi khen, tôn trọng, vinh hiển cho anh em khi Đức Chúa Giê-xu Christ hiện ra” (1Phi-e-rơ 1:7).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Đức Chúa Trời có lúc thử nghiệm đức tin của con cái Ngài.

– Cảm nhận: Muốn đạt điểm cao trong thử nghiệm, cần phải cầu nguyện luôn.

– Hành động: Cầu nguyện để Chúa giúp em vững vàng trong đức tin khi được thử nghiệm.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY

A. CHUẨN BỊ.

1. Các em có rất nhiều thắc mắc về sự cầu nguyện, nhưng ít khi nêu ra để hỏi, nên kỳ nầy bạn sắm sẵn một cái thùng đựng câu hỏi. Ngoài thùng, trang trí nhiều màu sắc và những dấu hỏi to để thu hút sự chú ý của các em. Cho các em bỏ phiếu ghi câu thắc mắc vào thùng, tuần sau bạn giải đáp cho các em.

2. Chuẩn bị sẵn một băng nhạc có nội dung về sự cầu nguyện hoặc sự giúp đỡ của Chúa. Cho các em nghe khi bước vào lớp học. Những bài hát nầy làm cho tâm hồn các em gần gũi Chúa hơn.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

1. Vào đề.

Mỗi khi bước vào kỳ thi học kỳ hay chuyển cấp, chắc em nào cũng lo lắng và cố gắng ôn bài thật kỹ, để đạt điểm cao phải không? Nếu bị điểm thấp hay bị rớt, các em có buồn không? Không những các em buồn mà cha mẹ còn buồn nhiều hơn nữa. Trong phương diện đức tin, con cái Chúa cũng phải trải qua những kỳ thi khó khăn, còn gọi là sự thử nghiệm (thử thách). Đức Chúa Trời đã nhiều lần thử thách Áp-ra-ham, lúc thì bảo rời khỏi quê hương đi đến nơi xa lạ, lần khác thì thử thách bằng cách chia đất cho Lót… Nhưng mỗi lần thử thách, Áp-ra-ham đều được điểm cao và học được bài học quan trọng. Khi Áp-ra-ham học xong bài học nầy, thì lại thêm bài học khác, mỗi lần càng khó hơn. Hôm nay, các em sẽ được học về sự thử nghiệm khó khăn nhất trong cuộc đời của ông.

2. Bài học.

(1) Thái độ của Áp-ra-ham khi chịu thử nghiệm.

Đức Chúa Trời ban cho Áp-ra-ham và Sa-ra một con trai là Y-sác, các em còn nhớ không? Ông bà rất yêu quí Y-sác vì là con một. Lúc Y-sác lớn lên, cha mẹ dạy cho chàng biết cách dâng của lễ cho Đức Chúa Trời. Ngày xưa, người ta thường dùng những hòn đá chất lên làm thành bàn thờ, dâng trên bàn thờ những của lễ để chuộc tội, hay tạ ơn.

Lúc đó, Y-sác đã là một thanh niên. Một ngày kia, Đức Chúa Trời gọi Áp-ra-ham và bảo: “Hãy bắt đứa con một ngươi yêu dấu, là Y-sác, và đi đến xứ Mô-ri-a, nơi đó dâng đứa con làm của lễ thiêu ở trên một hòn núi kia mà ta sẽ chỉ cho” (Sáng 22:2).

Mạng lệnh của Chúa rất rõ ràng, không thể nhầm lẫn được, nhưng là một thử thách quá khó khăn cho Áp-ra-ham. Nếu ở trong trường hợp tương tự, như bảo cho người khác vật mà các em quý nhất, thì các em sẽ có thái độ như thế nào? (Cho các em trả lời).

Chúng ta không thể hiểu được cảm nghĩ của Áp-ra-ham lúc đó ra sao? Nhưng Kinh Thánh không hề nói đến thái độ lằm bằm, oán trách, than vãn, thắc mắc của Áp-ra-ham, mà chỉ nói đến thái độ im lặng và vâng phục. Có lẽ các em sẽ suy nghĩ rằng, Áp-ra-ham ít thương con trai của mình, nên mới có thái độ như thế. Có thể nói Y-sác là tất cả của ông. Ông yêu thương con nhiều lắm, nhưng ông yêu Chúa hơn và muốn vâng phục Ngài. Mặc dù không hiểu ý muốn của Đức Chúa Trời, nhưng Áp-ra-ham không thắc mắc. Ông học một bài học quan trọng là hoàn toàn vâng phục và tin cậy Đức Chúa Trời. Áp-ra-ham tin rằng nếu Y-sác chết đi, Đức Chúa Trời có thể làm cho con mình sống lại (Hê-bơ-rơ 11:17-19). Đây là lúc đức tin của Áp-ra-ham lên đến cao điểm và cũng vì đó mà ông mới có những hành động thật mạnh mẽ.

(2) Hành động của Áp-ra-ham khi thử nghiệm.

Áp-ra-ham thức dậy thật sớm, cùng hai đầy tớ sửa soạn hành trang, để chuẩn bị lên đường. Ông chặt củi bó lại thành bó, chất lên lưng lừa, và đánh thức Y-sác dậy. Khi mặt trời chưa mọc, tất cả cùng lên đường đi về hướng Mô-ri-a, như lời Chúa phán dặn.

Áp-ra-ham, Y-sác và hai người đầy tớ đi ba ngày đường mới đến xứ Mô-ri-a. Đến nơi, Áp-ra-ham nói với hai người đầy tớ: “Hãy ở lại đây. Ta cùng đứa trẻ đi đến chốn kia để thờ phượng Đức Chúa Trời, rồi sẽ trở lại với hai ngươi”.

Rồi Y-sác vác củi, Áp-ra-ham cầm dao và lửa. Hai cha con đi tiếp. Một lát sau, Y-sác hỏi cha: “Cha ơi! Củi, lửa có đây, nhưng chiên con đâu có để làm của lễ thiêu?”.

Áp-ra-ham trả lời: “Con ơi!, Chính Đức Chúa Trời sẽ sắm sẵn chiên con để làm của lễ thiêu”. Rồi hai cha con tiếp tục đi.

Đến nơi, Áp-ra-ham lấy đá làm thành cái bàn thờ, chất củi lên, quay lại trói Y-sác và để lên trên đống củi. Sau đó, Áp-ra-ham cầm dao giơ lên định giết con mình. Ngay lúc đó, thiên sứ của Chúa từ trên trời phán rằng: “Hỡi Áp-ra-ham, đừng tra tay vào con trẻ và chớ làm chi hại đến nó; vì bây giờ ta biết rằng ngươi thật kính sợ Đức Chúa Trời, bởi cớ không tiếc với ta con ngươi, tức con một ngươi”.

Áp-ra-ham mừng quá, ôm chầm lấy con trai mình, và tháo dây trói cho con. Bỗng ông nhìn thấy ở phía sau có một con chiên đực, sừng mắc trong bụi cây. Ông bắt lấy và dâng làm của lễ thiêu cho Đức Chúa Trời, thay thế con trai mình.

Áp-ra-ham làm đẹp lòng Đức Chúa Trời trong cơn thử thách. Ông đã vâng phục Chúa trọn vẹn, nên ngay lúc đó Đức Chúa Trời hứa ban phước cho ông cách dồi dào, “Bởi vì ngươi đã vâng theo lời dặn ta” (Sáng 22:18).

3. Ứng dụng.

Các em thân mến! Các em suy nghĩ xem tại sao Áp-ra-ham có thể vâng lời Chúa trọn vẹn như vậy? (Cho các em trả lời). Ông luôn gần gũi Chúa, trò chuyện với Ngài, nên ông biết rõ Chúa là tốt lành và đức tin nhờ đó mà mạnh mẽ. Cầu nguyện với Chúa nhiều, đức tin của các em sẽ mạnh mẽ để có thể vượt qua khó khăn thử nghiệm. Trong lớp của chúng ta, có em tin Chúa chỉ một mình, có em hoàn cảnh gia đình khó khăn, có em bệnh tật, có em không thắng được bản ngã… Tất cả là những thử nghiệm, để các em bày tỏ lòng yêu Chúa của mình và sau thử nghiệm, đức tin của em sẽ mạnh mẽ hơn.  Đừng lằm bằm, oán trách, than vãn hay phân bì với các bạn khác, mà cứ im lặng tin cậy và vâng phục Chúa. Sau đó, các em sẽ thấy điều kỳ diệu Chúa làm trên đời sống của các em, nếu các em đạt điểm cao trong thử nghiệm. Cảm tạ Chúa, các em có thể trình dâng cho Chúa những khó khăn của mình. Các em cùng đọc câu gốc (Gv cùng đọc chung với các em, và giải thích ý nghĩa để các em hiểu được sự quan trọng của câu gốc nầy).

 

 

 

(HỌC VIÊN)

BÀI 3.  ĐẠT ĐIỂM CAO TRONG THỬ NGHIỆM (HV)

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 22:1-19.

II. CÂU GỐC: “…Hầu cho sự thử thách đức tin anh em quý hơn vàng hay hư nát, dẫu đã bị thử lửa, sanh ra ngợi khen, tôn trọng, vinh hiển cho anh em khi Đức Chúa Giê-xu Christ hiện ra” (1Phi-e-rơ 1:7).

III. BÀI TẬP.

 1. Em chọn những từ ngữ thích hợp dưới đây để điền vào chỗ trống cho có ý nghĩa.

– Thay thế Y-sác.

– Vâng phục Đức Chúa Trời.

– Hãy dâng Y-sác làm của lễ.

– Xứ Mô-ri-a.

– Con sinh tế lễ.

a. Đức Chúa Trời phán với Áp-ra-ham………………………

b. Đức Chúa Trời phán hãy đi đến………………………..

c. Y-sác sắp trở thành……………………………………………

d. Áp-ra-ham…………………………………………………………

e. Đức Chúa Trời sắm sẵn một chiên con……………..

2. Khi thử thách đến.

Thử thách của Chúa là muốn em được lớn mạnh hơn trong đức tin. Vì thế, khi thử thách đến, mong em có đức tin nơi Chúa để đạt điểm cao.

Trong những ngày qua, có thể em đã gặp phải thử thách. Em hãy cẩn thận điền vào biểu mẫu dưới đây.

3. Em phải làm sao?

Bạn Minh Đức rất yêu thương con chó Mi-na. Hằng ngày, Minh Đức thường hay chơi đùa với nó. Một hôm, bác sĩ cho mẹ của Minh Đức biết nguyên nhân căn bịnh nhảy mũi của bà là do mùi lông của con chó Mi-na gây ra.

Nếu em là Minh Đức, em sẽ giải quyết như thế nào? Em có thể dùng hình vẽ hoặc viết vào ô trống để hoàn thành câu chuyện nầy.

BÀI 3. ĐỨC CHÚA TRỜI BẢO VỆ GIA-CỐP (GV-HV)

BÀI 3. ĐỨC CHÚA TRỜI BẢO VỆ GIA-CỐP (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ II. 2016 on 1 Tháng Ba, 2018

BÀI 3. ĐỨC CHÚA TRỜI BẢO VỆ GIA-CỐP (GV)

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 31:1-3, 17-18, 22-25, 51-55; 32:22-29.
II. CÂU GỐC: “Người nào để trí mình nương dựa nơi Ngài, thì Ngài sẽ gìn giữ người trong sự bình yên trọn vẹn” (Ê-sai 26:3).
III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:
– Biết: Đức Chúa Trời ở cùng, bảo vệ Gia-cốp bình yên trở về quê nhà.
– Cảm nhận: Đức Chúa Trời cũng luôn ở cùng, bảo vệ chúng ta.
– Hành động: Hết lòng nhờ cậy Đức Chúa Trời trong mọi sự.
IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.
A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.
* Vẽ: Con đường trở về nhà.
Cho các em mở sách học viên bài 3, vẽ một căn nhà biểu thị: “Căn nhà của em”, sau đó vẽ một con đường từ phía ngoài đi đến cửa nhà. Nếu muốn thêm phần thú vị, có thể dùng “song bút” cùng vẽ, bằng cách lấy hai cây bút chì sáp khác màu, dùng dây thun cột lại, chú ý đầu bút phải xếp ngang bằng nhau.
B. BÀI HỌC KINH THÁNH.
(Chuẩn bị thị trợ: Photo lớn hình vẽ trang tài liệu 4-7, rồi tô màu cho đẹp).
1. Vào đề.
Các em ơi, các em đã từng nhớ nhà chưa? Khi nào các em nhớ nhà nhất? (Cho các em trả lời). Bài học trước các em đã biết Gia-cốp sống ở nhà cậu mình là La-ban. Bài học nầy sẽ cho các em biết La-ban đối xử với Gia-cốp như thế nào, và Gia-cốp sống ở nhà cậu có vui không nhé.
2. Bài học.
Các em còn nhớ vì muốn cưới Ra-chên, Gia-cốp xin làm việc cho La-ban mấy năm không? (Cho các em trả lời). Đúng rồi, thế nhưng sau bảy năm La-ban lại đánh lừa Gia-cốp, đem Lê-a gả cho Gia-cốp. Muốn cưới Ra-chên, Gia-cốp phải chờ bảy ngày sau và làm việc cho La-ban thêm bảy năm nữa. Vì yêu Ra-chên nên Gia-cốp chấp nhận những yêu cầu của La-ban.
Trong mười bốn năm, Gia-cốp hết lòng chăm sóc đàn gia súc của La-ban ngày một mập béo, sinh sôi nẩy nở nhanh chóng. Một hôm, Gia-cốp nói với La-ban: “Cháu muốn về quê, xin cậu cho cháu đem vợ con đi” Nhưng La-ban nói: “Xin cháu ở lại, cậu biết rằng Đức Chúa Trời vì cháu mà ban phước cho cậu. Cháu hãy định công giá, rồi cậu sẽ trả cho”. Gia-cốp nói: “Cháu chỉ lấy những con chiên có rằn, có đốm và màu đen mà thôi”. Vậy Gia-cốp tiếp tục chăn chiên cho La-ban. Những con chiên trắng thuộc về La-ban, còn có rằn, có đốm, màu đen thì thuộc về Gia-cốp. Thật là kỳ lạ, cho dù La-ban có thay đổi công giá như thế nào, đàn chiên của Gia-cốp vẫn càng ngày càng nhiều, càng mập mạnh, còn đàn chiên của La-ban ngày càng ít đi và gầy yếu. (Cho các em xem hình số 5).
Tại sao như vậy? (Cho các em trả lời). Đúng rồi, do Đức Chúa Trời ban phước cho Gia-cốp. Nhưng các con của La-ban không nghĩ như vậy, họ cho rằng Gia-cốp đã đoạt lấy tài sản của cha mình. Mỗi ngày đều phải nhìn sắc mặt của họ, phải nghe những lời khó chịu, theo em, Gia-cốp cảm thấy thế nào? Gia-cốp có muốn trở về quê nhà không? (Cho các em trả lời).
Một hôm, Đức Chúa Trời bảo Gia-cốp: “Con hãy trở về quê hương, ta sẽ bảo vệ con”. Gia-cốp liền dẫn vợ con, đàn gia súc và tất cả tôi tớ lên đường. Tại sao Gia-cốp phải ra đi gấp gáp như vậy? Vì lúc ấy La-ban và các con trai đang ra ngoài hớt lông chiên một thời gian mới về. Gia-cốp sợ La-ban về sẽ cản trở, không cho ông đem vợ con và tài sản trở về quê nhà.
Gia-cốp và gia đình đi suốt mười ngày ròng rã, đến núi Ga-la-át dừng lại đóng trại, dự định nghỉ ngơi tại đó. Không ngờ La-ban đã đuổi kịp, làm thế nào đây? La-ban giận dữ hỏi Gia-cốp: “Tại sao cháu lại bỏ đi như chạy trốn vậy? Cậu có thể làm hại cháu, nhưng đêm qua Đức Chúa Trời có dặn cậu dù lành hay dữ cũng thận trọng, đừng nặng lời với Gia-cốp. Vì thế, hãy để Đức Chúa Trời làm chứng cho chúng ta. Cậu và cháu hãy kết ước với nhau”. (Cho các em xem hình). Họ liền chất một đống đá, và thề rằng sẽ không vượt qua nơi đó để làm hại nhau. Rồi La-ban và Gia-cốp cùng cả nhà ngồi lại ăn uống vui vẻ với nhau. Hôm sau, La-ban từ biệt mọi người, quay trở về. Gia-cốp vui mừng vì La-ban không làm gì hại ông và gia đình. Gia-cốp biết rằng Đức Chúa Trời bảo vệ, gìn giữ mình nên hết lòng cảm tạ Chúa.
Trên đường đi, thấy đội quân thiên sứ của Đức Chúa Trời đón tiếp và bảo vệ cả nhà mình, Gia-cốp cầu xin Đức Chúa Trời cứ tiếp tục ở cùng, giúp đỡ mình. Đang ban đêm, Gia-cốp đối diện với Đức Chúa Trời, được Ngài ban phước và đặt cho một cái tên mới – Y-sơ-ra-ên.
Gia-cốp ở Cha-ran hai mươi năm, học được bài học nhờ cậy Đức Chúa Trời. Những khi cô đơn, mệt mỏi, bị người khác hà hiếp Gia-cốp đều cảm nhận được rằng Đức Chúa Trời luôn ở cùng, bảo vệ mình. Bây giờ trở về quê nhà, Gia-cốp tin rằng Đức Chúa Trời vẫn luôn bảo vệ, gìn giữ mình được mọi sự bình an.
3. Ứng dụng.
Cho các em mở sách học viên bài 3, dựa theo hình vẽ trong bài tập phần A để kể chuyện. Có thể phân chia bốn hình vẽ cho bốn em lần lượt lên kể chuyện cho cả lớp nghe theo thứ tự. Cứ bốn em nầy xong đến bốn em khác, tuần tự như vậy cho đến khi cả lớp đều tham gia kể chuyện.
Trước khi các em làm bài tập phần B, giáo viên hỏi: Trong cuộc sống hằng ngày, các em có bị người khác hà hiếp không? Ai đã ăn hiếp các em? Lúc ấy, em cảm thấy thế nào? Em có phản ứng gì? Sau đó, cho các em hoàn tất bài tập, chú ý phản ứng của các em để khích lệ, hướng dẫn các em nhận biết Đức Chúa Trời luôn bảo vệ, chăm lo cho chúng ta trong cuộc sống hằng ngày.

 

 

(HỌC VIÊN)

BÀI 3. ĐỨC CHÚA TRỜI BẢO VỆ GIA-CỐP (HV)

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 31:1-3, 17-18, 22-25, 51-55; 32:22-29.
II. CÂU GỐC: “Người nào để trí mình nương dựa nơi Ngài, thì Ngài sẽ gìn giữ người trong sự bình yên trọn vẹn” (Ê-sai 26:3).
III. BÀI TẬP.
A. CON ĐƯỜNG TRỞ VỀ NHÀ.
1. Vẽ căn nhà của em.
Vẽ một căn nhà biểu thị căn nhà của mình, sau đó vẽ một con đường từ ngoài đi đến cửa nhà.

 

 

 

 

 

 

 

2. Kể chuyện.
Em có thể dựa theo bốn hình vẽ để kể lại câu chuyện nầy không?

B. LÀM THẾ NÀO.
Em hãy chọn ra phản ứng của mình, rồi đánh dấu X.

Mua thức ăn ở căntin, gặp người bạn không giữ trật tự.
…..Không dám lên tiếng, trong lòng không vui.
…..Lịch sự mời bạn xếp hàng theo thứ tự.

Trong công viên, các bạn không cho em chơi xích đu.
…..Em chơi trò chơi khác, không chơi xích đu.
…..Cãi nhau với các bạn.
Anh của em giành đồ chơi tốt, để lại cho em đồ chơi xấu.
…..Em tranh giành đồ chơi với anh.
…..Xin anh chơi xong trao đổi đồ chơi với anh.

BÀI 3. NGƯỜI ĐÀN BÀ BÊN GIẾNG TIN CHÚA (GV-HV)

BÀI 3. NGƯỜI ĐÀN BÀ BÊN GIẾNG TIN CHÚA (GV-HV)

in ẤU NHI, QUÍ II. 2016 on 1 Tháng Ba, 2018

BÀI 3. NGƯỜI ĐÀN BÀ BÊN GIẾNG TIN CHÚA (GV)

I. KINH THÁNH: Giăng 4:5-42.
II. CÂU GỐC: “Ngài thật là Cứu Chúa của thế gian” (Giăng 4:42).
III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:
– Biết: Người đàn bà bên giếng sau khi nhận biết Chúa Giê-xu, đã đi khắp nơi nói về Chúa và đưa nhiều người đến với Ngài.
– Cảm nhận: Nhận biết Chúa là niềm vui lớn, nên chúng ta không thể im lặng mà phải nói ra với mọi người.
– Hành động: Nói về Chúa cho bạn bè, cho những người chung quanh mình.
IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI
A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.
Dùng ghế nhỏ để xung quanh làm cái giếng, một em trai đóng vai Chúa Giê-xu, một em gái đóng vai người đàn bà Sa-ma-ri, hai người ở bên cạnh giếng, còn những em khác đóng vai những người trong thành.
Em đóng vai người đàn bà Sa-ma-ri nói: “Ngài có thật là Con của Đức Chúa Trời không?” Em đóng vai Chúa Giê-xu nói: “Ta là Con của Đức Chúa Trời”. Sau đó, bà đi nói với người khác: “Ngài chính là Con của Đức Chúa Trời”. Những người nghe được lập tức đến trước mặt Chúa Giê-xu và nói: “Chúng tôi biết Ngài thật sự là Con của Đức Chúa Trời”.
Trẻ em 4-5 tuổi rất thích chơi trò nầy, vì dễ dàng làm cho các em ghi nhớ bài học sâu hơn.
B. BÀI HỌC KINH THÁNH.
1. Vào bài.
Lần trước, chúng ta đã nghe câu chuyện của những người đánh cá. Các em ơi, các em còn nhớ không, những người đánh cá bỏ hết mọi điều đi theo Chúa Giê-xu, sau đó còn đi khắp nơi nói cho người khác biết Chúa Giê-xu là Con của Đức Chúa Trời và dẫn họ đến với Chúa.
Các em ơi, ai là Con của Đức Chúa Trời? Ngày xưa, nhiều người muốn biết điều đó và hôm nay cũng có rất nhiều người muốn biết như vậy. Nếu có ai hỏi các em như vậy, các em biết trả lời như thế nào không? (Tất cả cùng nói: “Chúa Giê-xu là Con của Đức Chúa Trời”).
Đúng rồi, Chúa Giê-xu là Con của Đức Chúa Trời. Này các em, các em có muốn nói cho người khác biết về điều đó không? Chúa Giê-xu là Con của Đức Chúa Trời. Hôm nay, chúng ta thấy có nhiều bạn mới, thật cảm tạ Cha trên trời, điều này chứng tỏ nhiều bạn cũng muốn làm người giúp đỡ Chúa Giê-xu, mời bạn bè đến học lớp Trường Chúa nhật. Mong rằng lần sau sẽ thấy được nhiều bạn mới hơn.
2. Bài học.
Chúa Giê-xu rất muốn cho người ta biết rằng Ngài là Con của Đức Chúa Trời, là Đấng cứu những người có tội, nên Ngài đi khắp nơi rao giảng và kêu gọi mọi người tin Ngài.
Các em có bao giờ đi xa chưa? Đi đường xa sẽ dễ làm cho ta mệt mỏi. Chúa Giê-xu vì cứu người, Ngài không ngại đường xa, cuối cùng Ngài đã đến Sa-ma-ri. Sa-ma-ri là tên của một thành phố. Ở đó có một người đàn bà, làm rất nhiều điều xấu, không ai muốn làm bạn và nói chuyện với bà ấy. Vì vậy, bà chỉ muốn ra ngoài múc nước giếng lúc không có ai.
Như thường lệ, người đàn bà nầy đến bên giếng múc nước vào giữa trưa, các em hãy đoán xem, người đàn bà nầy thấy ai? (Để các em trả lời). Đúng vậy, thấy Chúa Giê-xu. Chúa Giê-xu đã có ý đến tìm và cứu bà, nên Chúa ngồi bên cạnh giếng để bà gặp, còn các môn đồ lúc ấy đi vào trong thành để mua thức ăn.
Chúa Giê-xu thấy bà, biết rằng trong lòng bà đang rất buồn khổ. Các em nghĩ xem, bà ấy vui sao được, bởi vì lâu lắm rồi người ta không thích trò chuyện với bà. Khi Chúa Giê-xu bắt chuyện, bà rất ngạc nhiên. Sau khi trò chuyện xong, bà biết được Chúa Giê-xu là Đấng Mê-si, là Cứu Chúa mà Đức Chúa Trời sai đến. Bà rất vui mừng, liền bỏ đồ dùng múc nước, đi vào trong thành nói về Chúa Giê-xu cho mọi người.
Người đàn bà nầy đã quên mình là người có tội, lúc nầy, bà chỉ có sự vui mừng trong lòng khi biết Chúa Giê-xu là Cứu Chúa. Tin mừng nầy làm cho bà không thể im lặng mà phải nói ra cho người khác! Rất nhiều người vì sự thay đổi lạ lùng và lời làm chứng của bà, nên họ đã theo bà đến gặp Chúa Giê-xu.
Mọi người gặp Chúa Giê-xu đều muốn được làm bạn với Chúa, vì họ nhận biết Chúa Giê-xu là Đấng Mê-si, là Cứu Chúa của nhân loại.
3. Ứng dụng.
Các em có muốn như người đàn bà Sa-ma-ri, đi nói với người khác về Chúa Giê-xu là Con của Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa của mọi người không? Các em cũng có thể mời bạn của mình đến lớp Trường Chúa nhật để cũng học biết Chúa Giê-xu và tin Ngài nữa.

 

 

(HỌC VIÊN)

BÀI 3. NGƯỜI ĐÀN BÀ BÊN GIẾNG TIN CHÚA (HV)

I. KINH THÁNH: Giăng 4:5-42.
II. CÂU GỐC: “Ngài thật là Cứu Chúa của thế gian” (Giăng 4:42).

BÀI 2. LỜI HỨA THÀNH HIỆN THỰC (GV-HV)

BÀI 2. LỜI HỨA THÀNH HIỆN THỰC (GV-HV)

in QUÍ II. 2016, THIẾU NHI on 27 Tháng Hai, 2018

BÀI 2. LỜI HỨA THÀNH HIỆN THỰC (GV)

I. KINH THÁNH: Sáng 21:1-21.
II. CÂU GỐC: “Vì tin chắc rằng điều chi Đức Chúa Trời đã hứa, Ngài cũng có quyền làm trọn được” (Rô-ma 4:21).
III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:
– Biết: Lời hứa mà Đức Chúa Trời hứa với Áp-ra-ham 25 năm về trước, đã trở thành hiện thực.
– Cảm nhận: Đức Chúa Trời là Đấng Thành tín và quyền năng.
– Hành động: Tin cậy và bền lòng cầu nguyện.
IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.
A. CHUẨN BỊ.
1. Chấm điểm thủ công tuần trước, nhớ đem theo để phát cho các em. Hỏi các em tuần vừa rồi đã cầu thay cho ai thì ghi vào bảng cầu thay của các em.
2. Bản đồ thế giới (nếu có).
3. Sưu tầm hình ảnh em bé từ sách báo, tạp chí…
B. BÀI HỌC KINH THÁNH.
1. Vào đề.
Khi cầu nguyện, các em có mong đợi sự trả lời của Chúa không? (Cho học viên trả lời). Khi Chúa chưa trả lời, các em có cảm thấy nản lòng không? Có lẽ Chúa muốn các em học bài học về sự kiên nhẫn và tin cậy, cũng có thể Ngài có ý chỉ tốt đẹp hơn.
2. Bài Học.
Áp-ra-ham liên tục cầu xin Chúa một điều, đó là điều gì, các em còn nhớ không? (Một con trai). Chúa trả lời cho Áp-ra-ham là hãy chờ đợi. Các em biết ông đã chờ bao nhiêu năm không? (Hai mươi lăm năm).
Các em có thể tưởng tượng hai mươi lăm năm là bao lâu không? Kể từ ngày các em sanh ra, lớn lên, đi học và học hết đại học.
Hai mươi lăm năm chờ đợi để có một con trai, thật là khó khăn đối với Áp-ra-ham và Sa-ra. Nhưng sự chờ đợi và lòng tin cậy của ông bà đã được Chúa ban thưởng. Khi Áp-ra-ham được 100 tuổi, thì Đức Chúa Trời thực hiện lời hứa của Ngài. Sa-ra đã có thai và sanh một con trai, đặt tên là Y-sác. Y-sác có nghĩa là vui cười. Các em có thể tưởng tượng được Áp-ra-ham vui mừng đến thế nào. Ông hết lòng tạ ơn về sự thành tín của Chúa.
1. Áp-ra-ham đãi tiệc mừng Y-sác.
Năm Y-sác thôi bú, Áp-ra-ham làm tiệc lớn, mời tất cả bà con, bạn bè hàng xóm đến dự, mọi người đều vui vẻ chúc mừng Áp-ra-ham và Sa-ra.
Nhưng rất tiếc, trong buổi tiệc xảy ra một việc không vui. Sa-ra thấy Ích-ma-ên, (con trai của Áp-ra-ham với nàng hầu A-ga) đùa cợt Y-sác, thì tức giận báo cho Áp-ra-ham biết và đòi đuổi hai mẹ con Ích-ma-ên ra khỏi nhà. Sở dĩ Sa-ra đòi đuổi A-ga và Ích-ma-ên là do lòng ích kỷ và ganh tị. Sa-ra nổi giận không chỉ đơn giản là vì Ích-ma-ên cười cợt Y-sác, mà cũng vì không muốn Ích-ma-ên kế nghiệp Y-sác. Hành động của Sa-ra cho thấy bà đã quên lời hứa của Đức Chúa Trời: Chỉ có Y-sác mới là người kế nghiệp Áp-ra-ham, cho nên điều đó không có gì đáng lo ngại.
Áp-ra-ham chắc là buồn lắm khi phải đuổi con trai ra khỏi nhà, nhưng Đức Chúa Trời hứa với Áp-ra-ham, sẽ làm cho Ích-ma-ên trở nên một dân tộc lớn. Lời hứa nầy an ủi Áp-ra-ham rất nhiều.
2. Đức Chúa Trời giúp đỡ Ích-ma-ên.
A-ga và Ích-ma-ên ra khỏi nhà, đi lang thang trong đồng vắng và cuối cùng bị lạc. Vừa nắng nóng, vừa khát, nước đem theo đã cạn, đồ ăn cũng đã hết, hai mẹ con lâm vào cảnh khốn cùng. A-ga ngồi bệt xuống đất và than thở.
Thình lình, thiên sứ của Chúa hiện ra và phán rằng: “Hỡi A-ga! Ngươi có điều gì vậy? Chớ sợ chi… Hãy đứng dậy đỡ lấy đứa trẻ và giơ tay nắm nó, vì ta sẽ làm cho nó nên một dân lớn”. Đức Chúa Trời đã biết trước sự khó khăn của A-ga. Ban đầu A-ga cảm thấy cô đơn và sợ hãi, nhưng bây giờ bà biết có Chúa ở cùng, giúp đỡ. Đức Chúa Trời dắt bà đến bên cạnh cái giếng. A-ga múc đầy bầu nước cho Ích-ma-ên uống và nhờ Chúa giúp đỡ, hai mẹ con đã vượt qua cơn khốn khó.
Đúng như lời Đức Chúa Trời đã hứa với Áp-ra-ham về Ích-ma-ên. Ích-ma-ên sống trong đồng vắng, được Đức Chúa Trời giúp đỡ, lớn lên thành chàng trai khỏe mạnh và có tài bắn cung. Từ Ích-ma-ên đã ra một dân tộc lớn, đó chính là vùng đất Ả-rập. Dòng dõi của Ích-ma-ên là người Ả-rập ngày nay (Chỉ lên bản đồ thế giới).
Sau nầy Y-sác lớn lên, lập gia đình và có rất nhiều con cháu. Đó là người Do-thái. Lời hứa của Chúa đã trở thành sự thực, dòng dõi của Áp-ra-ham đông như sao trên trời, như cát bãi biển.
3. Ứng dụng.
Bài học nầy cho các em thấy Đức Chúa Trời luôn luôn giữ lời hứa, vì Ngài là Đấng Thành tín. Điều gì Ngài đã hứa, thì sẽ làm thành, lâu hay mau đều tốt lành cho chúng ta, miễn là chúng ta cứ giữ vững lòng tin cậy nơi lời hứa của Chúa, và không nản lòng trong sự cầu nguyện.
Đức Chúa Trời đã ban cho các em rất nhiều lời hứa tuyệt diệu trong Kinh Thánh. Các em nên noi gương Áp-ra-ham, tin cậy Chúa. Có nhiều lời hứa Đức Chúa Trời đã làm thành, các em hãy tạ ơn Ngài. Nhưng cũng có nhiều lời hứa, Đức Chúa Trời bảo các em phải chờ đợi, thì cứ yên lòng chờ đợi và tiếp tục cầu nguyện. Các em nên nhớ rằng Áp-ra-ham đã chờ đợi hai mươi lăm năm. Chúng ta cúi đầu đồng lòng cầu nguyện, cảm tạ Chúa đã ban nhiều lời hứa, và cũng cảm tạ Ngài đã làm thành những gì mà chúng ta cầu xin, vì Ngài là Đấng Thành tín.

 

 

 

(HỌC VIÊN)

BÀI 2. LỜI HỨA THÀNH HIỆN THỰC (HV)

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 21:1-21.
II. CÂU GỐC: “Vì tin chắc rằng điều chi Đức Chúa Trời đã hứa, Ngài cũng có quyền làm trọn được” (Rô-ma 4:21).
III. BÀI TẬP.
1. Tin vui.
Đức Chúa Trời hứa sẽ ban cho Áp-ra-ham và Sa-ra một con trai. Ông bà đã đợi 25 năm lời hứa mới thành hiện thực, khi Áp-ra-ham được 100 tuổi và bà Sa-ra được 90 tuổi. Em bé Y-sác ra đời. Sự ban cho của Đức Chúa Trời khiến Áp-ra-ham vui mừng cảm tạ Chúa. Bây giờ, em hãy làm bản khai sanh cho em bé.

2. Lời hứa của Chúa.
Đức Chúa Trời ban cho em nhiều lời hứa trong Kinh Thánh. Tìm xem Chúa đã hứa với em điều gì? (Dùng lời văn của em để viết ra).

Ma-thi-ơ 7:7


1Giăng 1:9


Gia-cơ 1:5


3. Đánh dấu “X” vào câu có ý nghĩa tương tự câu gốc.
___Em thường hay tin lời hứa của Chúa.
___Em nhất định tin chắc vào lời hứa của Chúa.
___Em không chắc khi tin vào lời hứa của Chúa.

4. Em đọc câu chuyện có thật nầy và suy gẫm. 

a. Đức Chúa Trời đã làm thành lời cầu nguyện nào của em?




b. Hôm nay, em cầu nguyện điều gì với Chúa?




 

BÀI 2. ĐỨC CHÚA TRỜI BAN PHƯỚC CHO GIA-CỐP (GV-HV)

BÀI 2. ĐỨC CHÚA TRỜI BAN PHƯỚC CHO GIA-CỐP (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ II. 2016 on 27 Tháng Hai, 2018

BÀI 2. ĐỨC CHÚA TRỜI BAN PHƯỚC CHO GIA-CỐP (GV)

 

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 29:4-6, 10-18, 21-30.
II. CÂU GỐC: “Vì Đức Giê-hô-va là thiện; sự nhân từ Ngài hằng có mãi mãi, và sự thành tín Ngài còn đến đời đời” (Thi Thiên 100:5).
III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:
– Biết: Gia-cốp được Đức Chúa Trời ban cho đầy đủ mọi sự.
– Cảm nhận: Đức Chúa Trời đáp ứng mọi nhu cầu trong đời sống chúng ta.
– Hành động: Cảm tạ Chúa vì tất cả những gì Ngài ban cho.
IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.
A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.
* Vẽ khuôn mặt và cây gậy của Gia-cốp.
Cho các em mở sách học viên bài 2, hướng dẫn các em hoàn tất bài tập “Gia-cốp thiếu gì?”, rồi vẽ khuôn mặt và cây gậy của Gia-cốp.
B. BÀI HỌC KINH THÁNH.
(Chuẩn bị thị trợ: Bảng, phấn (để vẽ con đường và viết địa danh Bê-tên, Cha-ran). Photo lớn hình vẽ trang tài liệu số 3 trong sách học viên).
1. Vào đề.
Có bao giờ em đi xa chưa? Em thường đi với ai? Nếu phải đi xa một mình các em cảm thấy thế nào? Các em có nhớ bài học trước không? Khi Gia-cốp một mình trong đồng vắng, Đức Chúa Trời hứa với ông như thế nào? (Cho các em trả lời). Đúng rồi, Chúa hứa: “Ta ở cùng người, ngươi đi đâu sẽ theo gìn giữ đó”. Bài học hôm nay sẽ cho các em biết về sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời trong cuộc sống của Gia-cốp.
2. Bài học.
Sau khi được Đức Chúa Trời hứa sẽ ở cùng, giúp đỡ, Gia-cốp tiếp tục cuộc hành trình đến nhà người cậu. Ngoài quần áo mặc trên người, đôi giày mang nơi chân và cây gậy trên tay, Gia-cốp chẳng có gì hơn. Thử nghĩ xem, với hành trang như vậy Gia-cốp sẽ gặp những khó khăn gì? (Cho các em trả lời. Giáo viên vẽ hai đường kẻ lên bảng làm “con đường”, trên khởi điểm ghi “Bê-tên”). Có lẽ dọc đường đi, mỗi khi đói bụng, khát nước, Gia-cốp hái trái cây ăn cho đỡ đói và giải khát. (Cho các em vẽ trái cây trên đường đi). Còn nếu trong ban đêm trời lạnh thì làm thế nào? (Cho các em trả lời). Chắc Gia-cốp sẽ tìm những hang động, hoặc những đám cỏ dưới những bụi cây rậm rạp để trú qua đêm. (Cho các em vẽ hang động và cỏ).
Một ngày nọ, Gia-cốp đi đến đồng ruộng gần Cha-ran (viết chữ “Cha-ran” vào cuối con đường). Thấy những người chăn đang cho bầy gia súc của họ uống nước bên một cái giếng, Gia-cốp liền hỏi: “Các anh từ đâu đến vậy?” Họ trả lời: “Chúng tôi từ Cha-ran đến”. Gia-cốp hỏi tiếp: “Các anh có biết La-ban không?” Những người chăn chiên trả lời: “Có! Chúng tôi quen biết La-ban. Kìa! Ra-chên, con gái của La-ban đang đi đến”. Gia-cốp nhìn thấy một cô gái đang dẫn bầy chiên đi đến, liền tiến tới chào và tự giới thiệu: “Tôi là Gia-cốp, con trai của Rê-bê-ca, cháu gọi cha em bằng cậu”. Nghe vậy, Ra-chên lập tức chạy về nhà báo cho cha hay. La-ban liền chạy ra đón Gia-cốp, dẫn về nhà mình. (Cho các em xem hình).
Gia-cốp ở nhà cậu được một tháng, La-ban bảo Gia-cốp giúp một số việc và hỏi Gia-cốp muốn bao nhiêu tiền công? Gia-cốp rất buồn vì cậu xem mình như người làm thuê. Sau một hồi suy nghĩ, Gia-cốp đề nghị: “Thưa cậu, vì Ra-chên, cháu sẽ giúp việc cho cậu bảy năm, xin cậu gả cô ấy cho cháu”. Người cậu bằng lòng.
Gia-cốp thương yêu Ra-chên lắm, nghĩ mình sẽ được kết hôn với Ra-chên nên Gia-cốp vui mừng và bảy năm trôi qua nhanh chóng. Nhưng cô dâu mà Gia-cốp mong đợi lại không phải là Ra-chên, mà là Lê-a, chị của Ra-chên. Gia-cốp rất giận, trách La-ban: “Tại sao cậu lại gạt cháu?” Người cậu nói rằng: “Phong tục ở đây là thế! Không được gả em trước, chị sau. Bảy ngày nữa cậu sẽ gả Ra-chên luôn cho cháu, với điều kiện cháu giúp việc thêm cho cậu bảy năm nữa”. Nếu em là Gia-cốp, em sẽ thế nào? (Cho các em trả lời).
Có lẽ Gia-cốp tự hỏi: “Lúc trước mình đã lừa gạt để lấy quyền trưởng nam của anh và sự chúc phước mà cha dành cho anh thật là không đúng. Bây giờ cậu đối xử với mình như vậy có phải là Đức Chúa Trời dạy dỗ mình không?” Gia-cốp ăn năn vì những việc làm sai trái của mình trước đây. Sau đó Gia-cốp chấp nhận lời yêu cầu của cậu, tiếp tục làm việc cho La-ban thêm nhiều năm nữa.
Từ đó, Đức Chúa Trời ban phước cho Gia-cốp đầy đủ mọi sự. Khi trở về quê hương, Gia-cốp có mười hai người con, rất nhiều tôi tớ cùng những bầy chiên, lạc đà và lừa. Gia-cốp trở thành một người giàu có.
Các em thấy không, dù Gia-cốp phải sống xa cha mẹ, nhưng Đức Chúa Trời vẫn ở cùng, chăm lo cho ông mọi sự. Đức Chúa Trời cũng chăm sóc cho chúng ta như vậy, Ngài cung cấp cho chúng ta mọi thứ cần dùng. Đức Chúa Trời thương yêu chúng ta biết bao.
Có những lúc chúng ta phạm lỗi, Đức Chúa Trời chờ đợi chúng ta ăn năn, sau đó ban cho chúng ta nhiều phước hạnh. Đức Chúa Trời là Đấng thành tín, những gì Ngài hứa, chắc chắn Ngài sẽ ban cho.
3. Ứng dụng.
Trước hết, vẽ hình của nhân vật trong câu chuyện Kinh Thánh lên tờ giấy lớn, cho các em nói ra quan hệ của Gia-cốp với mọi người, qua đó ôn lại câu chuyện nầy. (Tham khảo hình phía dưới). Sau đó cho các em thảo luận bằng cách trả lời những câu hỏi sau: Khi rời khỏi nhà, Gia-cốp đem theo những thứ gì? Đức Chúa Trời chăm lo cho Gia-cốp như thế nào? Đức Chúa Trời có thực hiện những gì Ngài hứa với Gia-cốp chưa?
Hướng dẫn các em hoàn tất bài tập: “Gia-cốp có gì?” và “Ai chăm lo cho em?”
Cuối cùng cho các em chia sẻ đáp án và cầu nguyện cảm tạ Đức Chúa Trời ban cho chúng ta mọi thứ cần dùng.
Hình vẽ quan hệ nhân vật trong gia đình Gia-cốp
LA-BAN.  RÊ-BÊ-CA.  Y-SÁC
LÊ-A.  GIA-CỐP.  Ê-SAU
RA-CHÊN

 

 

 

(HỌC VIÊN)

BÀI 2. ĐỨC CHÚA TRỜI BAN PHƯỚC CHO GIA-CỐP (HV)

 

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 29:4-6.
II. CÂU GỐC: “Vì Đức Giê-hô-va là thiện, sự nhơn từ Ngài hằng có mãi mãi; và sự thành tín Ngài còn đến đời đời” (Thi Thiên 100:5).
III. BÀI TẬP.
A. GIA-CỐP THIẾU GÌ?
Đây là hình ảnh của Gia-cốp lúc rời khỏi nhà. Em hãy vẽ những gì Gia-cốp thiếu. Ai ban cho Gia-cốp?


B. GIA-CỐP CÓ GÌ?
Sau đó, Đức Chúa Trời ban phước cho Gia-cốp. Đức Chúa Trời ban cho Gia-cốp những gì? Hãy cắt hình trong trang cắt dán, dán vào phía dưới.


C. AI CHĂM LO CHO EM?
Em viết câu trả lời vào dấu (…)
1. Quần áo em mặc do ai mua cho em?


2. Thức ăn mà em ăn mỗi ngày do ai chuẩn bị cho em?


3. Ai mua cho em những dụng cụ học tập?


4. Ai cho em không khí để hít thở mỗi ngày?


5. Ai cung cấp cho em ánh nắng và nước mưa để em được lớn lên?


 

BÀI 2. BỎ CHÀI LƯỚI ĐI THEO CHÚA (GV-HV)

BÀI 2. BỎ CHÀI LƯỚI ĐI THEO CHÚA (GV-HV)

in ẤU NHI, QUÍ II. 2016 on 26 Tháng Hai, 2018

BÀI 2. BỎ CHÀI LƯỚI ĐI THEO CHÚA (GV)

 

I. KINH THÁNH: Ma-thi-ơ 4:18-22; Mác 1:16-20; Giăng 1:35-42; Phi-líp 3:7-16.
II. CÂU GỐC: “Sự nhận biết Đức Chúa Giê-xu Christ là quí hơn hết” (Phi-líp 3:8).
III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:
– Biết: Có một số người làm nghề đánh cá nhận biết Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời và đã quyết định bỏ nghề, đi theo Ngài.
– Cảm nhận: Chúa Giê-xu là quí nhất cho chúng ta.
– Hành động: Tin Chúa Giê-xu là Con của Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa của nhân loại, và giúp người khác cũng tin Ngài.
IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI
A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.
Cho hai em nắm tay nhau làm cái lưới, các bạn khác làm cá đi qua lưới, tất cả cùng hát bài “Chúa gọi”. Giáo viên sẽ cho bài hát dừng lại bất chợt, em nào đang ở trong lưới sẽ kết hợp với hai em trước làm cái lưới lớn hơn, cho đến khi tất cả những con cá đều lọt vào lưới thì kết thúc.
B. BÀI HỌC KINH THÁNH.
1. Vào bài.
Các em ơi, các em có bao giờ thấy người đánh cá ngoài biển chưa? Thường thì người ta có một chiếc thuyền, có một tấm lưới thật lớn và có nhiều người cùng đi với nhau. Ban đêm họ chèo thuyền ra thật xa, thả lưới xuống biển, rồi cùng nhau chờ đợi những con cá lọt vào lưới. Khi thấy lưới đã nặng, họ biết rằng đã đến lúc phải giúp nhau kéo lưới lên. Lúc ấy, họ vui lắm! Nhiều cá quá, lớn có, nhỏ có. Họ sinh sống chỉ nhờ vào việc bán cá.
Câu chuyện Kinh Thánh của chúng ta hôm nay nói về một số người đánh cá. Cuộc đời của họ sẽ như thế nào, chúng ta đi vào bài học sẽ biết nhé.
2. Bài học.
Một ngày nọ, có hai người đánh cá tên là Giăng và Anh-rê đến bờ sông Giô-đanh để tìm Giăng Báp-tít, vì họ nghe thuật lại rằng, Giăng loan báo Đức Chúa Trời đã sai Chúa Cứu Thế đến. Gặp Giăng, họ hỏi: “Chúa Cứu Thế mà Đức Chúa Trời sai đến là ai?”

Trong lúc họ đang nói chuyện, Chúa Giê-xu đi qua. Giăng Báp-tít liền giới thiệu: “Đây là Chiên Con của Đức Chúa Trời”. Câu nầy có nghĩa, Chúa Giê-xu là Chúa Cứu Thế mà Đức Chúa Trời sai đến. Biết như vậy, Giăng và Anh-rê liền đi theo Chúa Giê-xu. Các em nghĩ xem, Chúa Giê-xu có biết có người đi theo không? (Dừng 1 lát). À, Chúa Giê-xu là Đấng biết hết mọi sự, vì vậy, Ngài quay lại nhìn họ, mỉm cười hỏi: “Các ngươi tìm chi?” Họ thưa thật với Chúa: “Thưa thầy, chúng tôi muốn được đi theo thầy”. Chúa Giê-xu rất vui vẻ mời họ về nhà và ở lại với Ngài hôm đó.
Một lần khác, khi Phi-e-rơ, Giăng và Anh-rê đang vá lưới trên thuyền, Chúa Giê-xu lại đi qua. Lần nầy, Chúa Giê-xu kêu gọi họ cách rõ ràng: “Các ngươi hãy theo Ta, Ta sẽ cho các ngươi trở nên những người giảng đạo thật giỏi”.
Các em biết không, khi nghe tiếng Chúa kêu, họ vui lắm, lập tức bỏ lưới và thuyền, đi theo Ngài. Bắt đầu hôm ấy, họ đã trở thành môn đồ của Chúa Giê-xu, đi khắp nơi giảng Tin lành để dẫn dắt nhiều người đến với Ngài. Họ đã trở thành những người đánh lưới người giỏi thay vì đánh cá.
3. Ứng dụng.
Các em biết không, Chúa Giê-xu không chỉ kêu gọi những người đánh cá nầy giúp Ngài thôi, mà Ngài còn kêu gọi các em nữa. Linh (hoặc tên một em nào đó trong lớp), em có thích nói về Chúa Giê-xu cho người khác không? Huy, em có sẵn lòng mời bạn đến học Trường Chúa nhật không? (Cho các em trả lời).
Bây giờ chúng ta cùng hát bài “Chúa gọi” để nói lên rằng chúng ta cũng muốn theo gương Phi-e-rơ, Giăng và Anh-rê nói về Chúa cho người khác và mời bạn đến học Trường Chúa nhật, nhờ đó họ nhận biết Chúa Giê-xu là Con của Đức Chúa Trời và tin Ngài.

(HỌC VIÊN)

BÀI 2. BỎ CHÀI LƯỚI ĐI THEO CHÚA (HV)

 

I. KINH THÁNH: Ma-thi-ơ 4:18-22; Mác 1:16-20; Giăng 1:35-42; Phi-líp 3:7-16.

II. CÂU GỐC: “Sự nhận biết Đức Chúa Giê-xu Christ là quí hơn hết” (Phi-líp 3:8).

BÀI 1. ÁP-RA-HAM CẦU THAY (HV)

BÀI 1. ÁP-RA-HAM CẦU THAY (HV)

in QUÍ II. 2016, THIẾU NHI on 18 Tháng Một, 2018

BÀI 1. ÁP-RA-HAM CẦU THAY 

 

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 18:16-33; 19:1-3, 12-25.

II. CÂU GỐC:Phải bền đỗ và tỉnh thức trong sự cầu nguyện, mà thêm sự tạ ơn vào” (Cô-lô-se 4:2).

III. BÀI TẬP.

1. Em hãy tham khảo hai câu Kinh Thánh trên và viết tin tức nầy vào bản thông báo.

2. Em có thể cầu thay.
Cầu thay là em đem những khó khăn của người khác, trình bày với Đức Chúa Trời, để Ngài giải quyết.
a. Em sẽ cầu nguyện cho________________ (Viết tên người mà em sẽ cầu thay).
b. Em cầu xin Đức Chúa Trời _________________ (Ghi điều em cầu thay).
3. Đánh dấu X vào những câu trả lời đúng.
a. Thế nào là cầu nguyện?
___Những lời nói trong nhà thờ.
___Những lời nói khi đang ăn.
___Trò chuyện với Chúa.
___Lời của mẹ thưa với Chúa.
b. Tại sao em phải cầu nguyện?
___Chúa vui khi em trò chuyện với Ngài.
___Cầu xin Chúa giúp đỡ em.
___ Vì em cảm thấy cô đơn.
___ Xin Chúa tha thứ cho em.
c. Giờ cầu nguyện của em là:
___Mỗi ngày một lần.
___Lúc thức dậy buổi sáng.
___Bất cứ lúc nào.
___Chỉ buổi tối.
d. Nơi cầu nguyện của em.
___Chỉ ở nhà thờ.
___Chỉ ở trong nhà.
___Không cầu nguyện ở trường.
___Mọi lúc mọi nơi.
e. Em cầu nguyện như thế nào?
___Bằng tấm lòng.
___Lớn tiếng.
___Cho người khác nghe thấy.
f. Em cầu nguyện điều gì?
___Cầu thay cho người khác.
___Cầu nguyện cho chính mình.
___Mọi việc.
___Người thân trong gia đình.