Chuyên mục: NHI ĐỒNG

BÀI 5. SỐNG YÊU THƯƠNG (GV-HV)

BÀI 5. SỐNG YÊU THƯƠNG (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ IV. 2016 on 26 Tháng Bảy, 2018

BÀI 5. SỐNG YÊU THƯƠNG (GV)

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 37.

II. CÂU GỐC: “Các ngươi hãy yêu nhau, cũng như ta đã yêu các ngươi” (Giăng 15:12).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Các anh của Giô-sép không lấy lòng yêu thương để đối xử với Giô-sép.

– Cảm nhận: Chúa muốn các em yêu thương nhau.

– Hành động: Nhờ cậy Chúa, tìm ra phương cách để đối đãi với người khác bằng tình yêu thương.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Nói gì?

1. Vật liệu: Trang tài liệu H trong tập học viên.

2. Thực hiện: Sinh hoạt nầy nhằm giúp các em tìm ra trọng tâm của bài học. Giáo viên giúp các em chia sẻ bằng các câu hỏi: Bạn trai trong hình sẵn lòng đối đãi với người khác bằng sự yêu thương, nhưng có người không đồng ý với những điều bạn trai ấy nói. Theo em, họ sẽ nói gì? (Đối xử gian ác với người khác để mình hưởng quyền lợi, sung sướng). Em thích đối xử thế nào với người khác? Em thích người khác đối xử với em thế nào?

B. BÀI HỌC KINH THÁNH

(Chuẩn bụ giáo cụ: Photo lớn trang tài liệu G trong sách giáo viên, tô màu rồi cắt ra.)

1. Vào đề.

Nhà các em có đông anh chị em không? Nếu có nhiều anh chị em, chắc những lúc chơi đùa sẽ rất vui. Theo em, trong một gia đình có đông anh em, khó khăn lớn nhất là gì? (Cho các em trả lời).

Hôm nay các em sẽ được nghe kể về câu chuyện của một gia đình rất đông con. Các em cùng mở Kinh Thánh trong sách Sáng thế Ký đoạn 37 để biết về gia đình nầy (Giúp các em mở Sáng thế Ký 37).

2. Bài học.

Ông Gia-cốp là cha của mười hai người con trong gia đình nầy. Gia đình họ thật đông phải không các em? Hằng ngày, các anh em trong nhà cùng nhau chăm sóc bầy gia súc của gia đình. Họ sống vui vẻ, hoà thuận với nhau, nhưng có một việc khiến họ không vui. Mười người anh không thích em trai của họ là Giô-sép. Bởi vì Giô-sép từng đem những lỗi lầm của họ nói cho cha Gia-cốp nghe khiến họ rất giận. Không bao lâu sau, việc Giô-sép được cha cho một chiếc áo choàng đặc biệt càng làm các anh trai giận dữ. Rồi Giô-sép lại kể cho họ nghe, anh ta nằm mơ thấy mình trở thành người lãnh đạo của các anh khiến họ càng tức giận hơn nữa. Các anh trai đều rất ghét Giô-sép, họ thường hay nói xấu anh ta.

Một hôm, mười người anh của Gia-cốp dẫn bầy chiên đi đến một nơi rất xa, vì ở đó có đồng cỏ xanh tươi và dòng nước trong lành cho bầy chiên ăn uống. Gia-cốp nói cùng Giô-sép: “Các anh con đi đã khá lâu, con đi thăm xem chúng có mạnh khỏe không rồi về nói cho cha biết”. Giô-sép mặc chiếc áo choàng đẹp đó, đem theo lương thực và lên đường.

Thấy Giô-sép còn ở đằng xa, các anh nói với nhau: “Kìa, thằng nằm mộng sắp đến đây. Chúng ta hãy giết nó, vất xác dưới đáy giếng, rồi báo với cha rằng, thú dữ đã ăn thịt nó rồi”. Nhưng Ru-bên lại có một đề nghị khác: “Chúng ta đừng giết chết nó, hãy quăng nó xuống một cái giếng cạn là nó đã chết queo rồi”. Giô-sép vừa đến nơi, các anh xúm nhau lột chiếc áo choàng sặc sỡ, và quăng Giô-sép xuống giếng.

Theo các em, Giô-sép có cầu xin các anh trai tha cho mình không? Chắc là có! Nhưng họ không thèm đếm xỉa gì đến, bỏ mặc Giô-sép một mình dưới giếng. Em nghĩ xem Giô-sép có sợ không? Cuối cùng chuyện gì xảy đến với anh ta? Tiếng kêu cứu của Giô-sép có làm động lòng các anh của mình không? Không một chút xót thương, các anh của Giô-sép thản nhiên ngồi ăn uống, chợt thấy một đoàn lái buôn đang đi đến. Vào thời đại Kinh Thánh, một số lái buôn kết thành đoàn, dùng lạc đà chở hàng hoá đến khắp mọi nơi để mua bán. Khi đoàn lái buôn đến gần, Giu-đa đề nghị: “Đem bán quách Giô-sép cho bọn lái buôn đó đi! Họ mua nó đem đến xứ khác bán cho người ta làm nô lệ, chúng ta sẽ không bao giờ nhìn thấy nó nữa!”. Tất cả đều đồng ý, họ kéo Giô-sép lên, đem bán cho các lái buôn được hai mươi miếng bạc.

Các anh trai đem chiếc áo choàng của Giô-sép nhúng vào máu dê và đưa chiếc áo choàng cho cha xem. Nhận ra chiếc áo choàng của con mình, Gia-cốp đau đớn, khóc than: “Con ta đã chết rồi! Thú dữ đã ăn thịt con ta rồi”.

Thấy cha quá sức đau buồn, các anh cố gắng an ủi. Nhưng sự mất mát làm ông đau đớn không nguôi, và không có người anh trai nào dám nói sự thật cho cha biết.

3. Ứng dụng.

Vì không yêu thương em mình nên các anh của Giô-sép đã làm một việc hết sức gian ác, khiến cho người cha vô cùng đau khổ. Chúa Giê-xu muốn chúng ta phải yêu thương lẫn nhau. Các em có đối đãi với nhau bằng tình yêu thương không?

Cho các em mở sách học viên bài 5. Trước tiên, giúp các em biết ý nghĩa của các hình vẽ, sau đó hướng dẫn các em đọc câu chuyện. Giáo viên đọc chữ, các em đọc ý nghĩa của hình vẽ. Nếu thời gian cho phép, hướng dẫn các em đọc thêm vài lần.

Dùng những câu hỏi sau cho các em suy nghĩ và trả lời: Các anh trai đối xử xấu với ai? (Giô-sép và cha). Điều gì bày tỏ họ không có tình yêu thương? Theo em, họ nên hành động như thế nào để bày tỏ lòng yêu thương?

Mời các em chia sẻ một vài tình huống khó có thể dùng tình yêu thương đối với người khác trong đời sống. Sau đó cho các em làm phần bài tập: “Kế hoạch và hành động”. Nếu em là người đội nón trong hình vẽ, em sẽ làm thế nào để bày tỏ tình yêu thương? (Khuyến khích các em chia sẻ ý kiến). Sau khi chia sẻ xong, mời các em chọn ra một cách bày tỏ lòng yêu thương để thực hành trong tuần nầy.

BÀI 5. SỐNG YÊU THƯƠNG (HV)

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 37.

II. CÂU GỐC: “Các ngươi hãy yêu nhau, cũng như ta đã yêu các ngươi” (Giăng 15:12).

III. BÀI TẬP

B. KẾ HOẠCH VÀ HÀNH ĐỘNG.
Nếu em là người đội nón trong hình vẽ, em sẽ làm thế nào để bày
tỏ lòng yêu thương?

 

BÀI 4.    PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG THỜI KINH THÁNH (GV-HV)

BÀI 4.    PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG THỜI KINH THÁNH (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ IV. 2016 on 26 Tháng Bảy, 2018

BÀI 4.    PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG THỜI KINH THÁNH (GV)

I. KINH THÁNH: Sáng thế Ký 12:1-7; Công Vụ 18:1-3; 18-26.

II. CÂU GỐC: “… Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi vẫn ở cùng ngươi trong mọi nơi ngươi đi” (Giô-suê 1:9).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Những phương tiện giao thông trong thời đại Kinh Thánh.

– Cảm nhận: Phương tiện giao thông trong thời đại Kinh Thánh chậm, cực khổ và nguy hiểm hơn nhiều so với thời nay.

– Hành động: Cảm tạ Chúa vì Ngài luôn ở cùng chúng ta dù chúng ta đi bằng bất cứ phương tiện nào.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG BÀI DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

Giáo viên dựa vào hoàn cảnh thực tế, hướng dẫn các em tiến hành 2 hoạt động hứng thú sau, hoặc chọn lấy 1.

* Gợi ý 1: Cái gì đây?

1. Vật liệu: Trang tài liệu F trong tập học viên, bút màu.

2. Thực hiện: Giáo viên dựa theo gợi ý trong tập học viên, hướng dẫn các em làm phần nầy.

* Gợi ý 2: Các phương tiện giao thông.

Vật liệu: Trang tài liệu F trong tập học viên.

1. Thực hiện: Ghi lên bảng những ký hiệu sau: ·, x, o, -, *, c. Giáo viên lần lượt đọc ra những gợi ý trong tập học viên, khi đề cập đến ký hiệu nào, thì chỉ vào ký hiệu được viết trên bảng, để giúp các em hiểu rõ. Giáo viên có thể sử dụng câu hỏi để giúp các em phát huy sự liên tưởng. Ví dụ: Theo em, các nhân vật Kinh Thánh có thích những phương tiện giao thông hiện đại không? Vì sao?

B. BÀI HỌC KINH THÁNH

(Chuẩn bị giáo cụ: Photo lớn trang tài liệu D (hình 1-2), và hình 1 của trang tài liệu E, trong sách giáo viên rồi tô màu.)

1. Vào đề.

Các em có bao giờ đi chơi xa không? Nơi xa nhất mà các em đã đến là đâu? Các em đến đó bằng cách nào? (Cho các em trả lời). Ngày nay, chúng ta có thể dùng xe máy, xe hơi, xe lửa, máy bay… để đi xa. Nhưng trong thời đại Kinh Thánh không có những phương tiện nầy. Câu chuyện hôm nay sẽ cho các em biết những người trong thời đại Kinh Thánh đã đi đến những nơi rất xa bằng cách nào. Sách thứ nhất trong Kinh Thánh là Sáng Thế Ký đã ghi lại chuyện đi xa của Áp-ra-ham và Sa-ra. Thời đại Áp-ra-ham và Sa-ra sống trước Chúa Giê-xu giáng sinh rất nhiều năm (Nếu các em còn nhớ câu chuyện Áp-ra-ham di cư trong bài 5 của quí trước thì cho các em kể lại câu chuyện nầy).

2. Bài học.

a. Cuộc hành trình của Áp-ra-ham.

Ông Áp-ra-ham và và bà Sa-ra chuẩn bị chuyển chỗ ở đến nơi khác, nhưng thời đó chưa có xe cộ để vận chuyển đồ đạc. Hai ông bà cẩn thận sắp xếp đồ đạc. Họ đem lều, tấm thảm, nồi chảo để nấu ăn, những túi da đựng đầy nước và sữa đặt lên lưng lừa và lạc đà để chúng chở đi. Còn những người giúp việc thì lùa bầy chiên, dê, bò đi theo sau. Áp-ra-ham và Sa-ra đang rời khỏi quê hương, nhưng không biết mình sẽ đến nơi nào!? Như các em đã biết, Đức Chúa Trời bảo Áp-ra-ham: “Hãy rời khỏi quê hương, bà con thân thuộc, đi đến xứ ta sẽ chỉ cho”. Nhưng Đức Chúa Trời không cho Áp-ra-ham biết, vùng đất đó ở đâu (cho các em xem hình 1 trang tài liệu D). Áp-ra-ham tin cậy Chúa, vâng lời Ngài. Hết ngày nầy đến ngày khác, ban ngày họ cứ đi về phía trước, còn ban đêm dừng lại ăn uống và nghỉ ngơi. Một số người giúp việc phải thức đêm canh giữ, đề phòng trộm cắp hay là thú dữ cắn xé gia súc và làm hại mọi người. Vào thời Kinh Thánh, đi xa thường rất nguy hiểm.

Cuối cùng họ đến một vùng đất xanh tươi, có đồng cỏ bát ngát và dòng nước mát lạnh cho bầy gia súc ăn uống. Đức Chúa Trời nói cùng Áp-ra-ham: “Đây là vùng đất mà ta hứa ban cho ngươi”.

Kinh Thánh cho chúng ta biết, việc đầu tiên mà ông Áp-ra-ham làm trên vùng đất mới, là lập một bàn thờ cho Đức Chúa Trời và cảm tạ Ngài dẫn dắt, ở cùng ông suốt cuộc hành trình dài nầy.

b. Cuộc hành trình của Phao-lô.

Kinh Thánh Tân Ước được viết sau khi Áp-ra-ham và Sa-ra qua đời rất lâu. Tân Ước cho chúng ta biết về những việc Chúa Giê-xu làm trên thế gian, và những việc mà các bạn Chúa Giê-xu làm sau khi Ngài về trời. Câu chuyện nầy giúp các em biết sứ đồ Phao-lô thường đi từ nơi nầy đến nơi khác bằng cách nào.

Phao-lô yêu mến Chúa Giê-xu, và ông muốn những người khác cũng yêu mến Ngài. Vì thế, ông đi đến rất nhiều nơi để nói cho mọi người biết về Chúa Giê-xu.

Có lúc Phao-lô phải đi bộ trên những con đường trải đầy đá, nhưng cũng có lúc, Phao-lô ngồi trên lưng lừa hoặc trên xe ngựa để đi xa. Buổi tối, Phao-lô có thể nằm nghỉ bên đường, hoặc đến ở nhà bạn. Thỉnh thoảng, Phao-lô cũng ở lại nhà trọ. Nhà trọ là nơi để khách vãng lai dừng lại dùng bữa và nghỉ ngơi. Nhà trọ thường không phải là nơi lý tưởng để ở, vì rất dơ, những người thô lỗ và bần cùng thường hay tá túc ở đó.

Trong thời gian đi xa, khi thì Phao-lô phải chịu mưa gió lạnh giá, khi thì cái nắng nóng bỏng làm cho ông vừa mệt vừa khát. Phao-lô cũng phải chú ý đề phòng những tên trộm cướp xuất hiện đột ngột trên đường đi. Bọn chúng thường chặn người đi đường lại, cướp giật tiền bạc, có nhiều người còn bị chúng đánh thương tích đầy mình.

Như thế chúng ta có thể biết, vào thời đại Kinh Thánh, việc đi xa thật là gian nan và nguy hiểm. Nhưng những điều đó vẫn không cản trở được Phao-lô rao truyền Tin Lành. Ông đi hết nơi nầy đến nơi khác, dành tất cả mọi khả năng, sức lực để làm chứng về Chúa Giê-xu cho nhiều người.

c. Cuộc hành trình của Bê-rít-sin và A-qui-la.

Một trong những nơi mà Phao-lô từng đi đến, đó là thành phố Cô-rinh-tô. Tại đây, ông Phao-lô quen biết một đôi vợ chồng rất yêu mến Chúa, người chồng tên là A-qui-la, còn người vợ tên là Bê-rít-sin. Hai vợ chồng nầy mời Phao-lô ở lại nhà họ, vì Phao-lô biết may trại và họ cũng làm nghề may trại. Thế là Phao-lô ở lại với Bê-rít-sin và A-qui-la. Họ cùng nhau may trại và rao truyền Tin Lành cho mọi người. Nhưng Phao-lô chỉ ở đó một thời gian, rồi ông rời Cô-rinh-tô để đi đến Ê-phê-sô. Bê-rít-sin và A-qui-la thưa cùng Phao-lô: “Chúng tôi muốn đi cùng ông”. Thế là họ chuẩn bị sắp xếp quần áo, đồ đạc, sau đó, cùng Phao-lô đi ra bến tàu.

Họ dõi theo những đồ đạc của họ được xếp lên một chiếc tàu to, cuối cùng, đến giờ các hành khách lên tàu rồi. A-qui-la, Bê-rít-sin và Phao-lô cùng đi lên tàu. Buồm căng gió, con tàu bắt đầu khởi động, rồi thẳng tiến về hướng Ê-phê-sô (Cho các em xem trang tài liệu E hình 1, dùng tay chỉ theo con đường từ Cô-rinh-tô đến Ê-phê-sô mà hành khách có thể đi qua). Con tàu đi trên biển từ ngày nầy đến ngày khác. Rồi một hôm, có người reo lên: “Ồ, phía trước là đất liền” (Cho các em xem trang tài liệu D hình 2). Đám đông tụ tập trên boong tàu, nhìn thấy Ê-phê-sô càng lúc càng gần. Có lẽ A-qui-la và Bê-rít-sin rất phấn khởi, họ cảm tạ Đức Chúa Trời vì Ngài đưa dẫn họ đến nơi an toàn. Và tại nơi đó, họ có thể nói về Chúa Giê-xu cho rất nhiều người.     3. Ứng dụng.

So với ngày nay, phương tiện giao thông ngày xưa thật là thô sơ và nguy hiểm. Nhưng dù xưa hay nay, dù phương tiện giao thông thô sơ hay hiện đại thì chúng ta, là những con cái Chúa vẫn luôn tin cậy vào Đức Chúa Trời. Ngài hứa sẽ ở cùng chúng ta trong mọi nơi chúng ta đi. Bây giờ, các em cùng đứng lên cảm tạ Chúa vì sự bảo vệ của Ngài các em nhé!

Trong phần “Chụp hình”, khuyến khích các em vẽ ra hình ảnh theo trí tưởng tượng của mình. Sau đó hướng dẫn các em thảo luận: Em thích tham gia cuộc hành trình của ai? Của Áp-ra-ham và Sa-ra, của Phao-lô hay là của Bê-rít-sin và A-qui-la? Vì sao em thích cuộc hành trình của họ?

Hướng dẫn các em hoàn tất phần “Mất bao nhiêu thời gian?” dựa theo thứ tự sau:

a. Nói với các em: Chúng ta cùng hợp sức, tính ra đáp án từ câu 1 đến câu 4.

b. Trước tiên cho các em xem hình vẽ của câu 1, cho các em đoán ý nghĩa của hình vẽ nầy.

c. Giáo viên đọc rõ ràng nội dung của câu 1 (trong tập học viên).

d. Hỏi các em: Nhân vật trong hình sử dụng phương tiện giao thông gì? Chúng ta cần tìm điều gì?

Gợi ý: Tính theo phân đoạn của cây số, sẽ giúp các em tìm được đáp án.

BÀI 4. PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG THỜI KINH THÁNH (GV)
I. KINH THÁNH:
Sáng Thế Ký 12:1-7; Công Vụ 18:1-3; 18-26.
II. CÂU GỐC: “Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi vẫn ở cùng ngươi
trong mọi nơi ngươi đi”
(Giô-suê 1:9).
III. BÀI TẬP.
A. CHỤP HÌNH.

Hãy chụp hình lưu niệm về cuộc hành trình của Áp-ra-ham và
Sa-ra, hoặc của Bê-rít-sin và A-qui-la. Hình ảnh nầy sẽ như thế nào?
(Em hãy vẽ vào khung hình)

 

BÀI 3. THỨC ĂN TRONG THỜI ĐẠI KINH THÁNH (GV-HV)

BÀI 3. THỨC ĂN TRONG THỜI ĐẠI KINH THÁNH (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ IV. 2016 on 25 Tháng Bảy, 2018

BÀI 3. THỨC ĂN TRONG THỜI ĐẠI KINH THÁNH (GV)

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 25:27-34; Lu-ca 10:38-42.

II.CÂU GỐC: “Người nào có mắt từ thiện sẽ được phước, vì người ban bánh mình cho kẻ nghèo khó” (Châm ngôn 22:9).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Một số thức ăn thường được nấu nướng trong thời Kinh Thánh.

– Cảm nhận: Chúa vui lòng khi các em biết chia sẻ thức ăn cho những người cần dùng.

– Hành động: Em sẵn lòng chia sẻ thức ăn của mình cho người khác.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Gợi ý 1: Họ ăn thứ gì?

1. Vật liệu: Trang tài liệu D trong tập học viên, bút màu.

2. Thực hiện: Hoạt động nầy nhằm giúp các em có thể đoán những thức ăn mà nhân vật Kinh Thánh dùng, để chuẩn bị trước khi vào bài học. Giáo viên có thể dựa vào gợi ý trong tài liệu, hướng dẫn các em tiến hành hoạt động.

* Gợi ý 2: Ăn thử.

1. Vật liệu: Hạnh nhân, nho khô, trái Ôlive (có thể tìm mua trái ôlive đã ướp sẵn ở các siêu thị), táo khô, trái lựu, hành tây, mật ong, pho-mát, trứng (dùng dầu ôlive chiên trứng), dĩa giấy, nỉa nhỏ, khăn giấy.

2. Thực hiện: Trước tiên cắt thức ăn ra thành từng miếng nhỏ, cho các em ăn thử.

Hoạt động nầy giúp các em thử ăn một vài thức ăn mà người ta đã dùng trong thời Kinh Thánh. Sinh hoạt nầy không những thú vị mà còn giúp cho buổi học sinh động hơn. Giáo viên có thể nói với các em: “Để hiểu rõ hơn về thức ăn trong thời đại Kinh Thánh, chúng ta cùng nhau thử dùng một vài thức ăn mà những nhân vật Kinh Thánh thường dùng …”

*Chuẩn bị giáo cụ: (1) Photo lớn trang tài liệu C hình 1-4 trong sách giáo viên, tô màu rồi cắt ra, 4 cái bao giấy, kéo, keo dán.

(2) Dựa vào gợi ý của hình mẫu (xem hình), cắt dán khuôn mặt lên bao giấy, thành một con rối có cái miệng có thể hoạt động.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH

1. Vào đề.

Trong các bài học của quí trước, các em đã được học biết về hai anh em sinh đôi. Họ là con trai của Y-sác và Rê-bê-ca. Các em còn nhớ tên của họ là gì không? (Ê-sau và Gia-cốp). Hôm nay các em sẽ nghe được nghe họ kể lại chuyện của chính họ, các em có muốn nghe không? (Bạn có thể mời một cộng tác viên dùng con rối diễn xuất, hoặc chính bạn có thể lồng bàn tay của mình vào bao giấy con rối để thực hiện). Bây giờ các em cùng chú ý theo dõi nhé!

2. Bài học.

a. Gia-cốp chuẩn bị thức ăn.

– Rối giấy Gia-cốp: Chào các bạn nhỏ, tôi là Gia-cốp. Hôm nay tôi và anh trai tôi sẽ kể cho các em nghe về một ngày rất quan trọng trong cuộc đời của chúng tôi.

– Rối giấy Ê-sau: Chào các em, tôi là Ê-sau. Tôi thích săn bắn và rất thích ăn thịt thú rừng. Vì thế sáng sớm tôi đã vào rừng săn bắn. Dù hết sức cố gắng, nhưng cả một ngày tôi chẳng săn được một con thú nào cả. Vừa đói vừa mệt, tôi quay về nhà để kiếm thứ gì có thể bỏ vào bụng cho no.

– Rối giấy Gia-cốp: Trong khi anh Ê-sau đi săn, tôi bận rộn với công việc trong nhà. Trước tiên tôi nhóm lửa trên bếp lò. Sau đó, tôi đổ nước vào nồi và đặt lên bếp. Khi nước sôi, tôi bỏ đậu cô-ve vào nồi. Các em có biết đậu cô-ve không? Nó giống như đậu Hoà lan vậy, là một loại hạt mình dẹp. Chúng tôi thường hay ăn đậu cô-ve. Tôi bỏ đậu cô-ve và hành tây vào cùng một lúc, khi nồi súp nầy chín rồi, thì trở thành màu đỏ. Ồ, nó rất thơm.

– Rối giấy Ê-sau: Tôi cũng nhận thấy nồi súp nầy rất thơm. Về gần đến nhà, mùi thơm của nồi súp khiến cho bụng tôi đói cồn cào. Tôi bảo Gia-cốp: “Mau múc cho anh một tô súp”.

– Rối giấy Gia-cốp: Nhưng tôi không đem súp cho anh ấy ngay. Như các em đã biết, Ê-sau được sinh ra trước tôi, nên anh ấy được hưởng quyền trưởng nam. Điều đó có nghĩa là anh ấy sẽ được cha chia cho phần gia tài gấp đôi chúng tôi. Tôi muốn có được quyền trưởng nam. Vì thế tôi nói với Ê-sau: “Anh hãy bán quyền trưởng nam cho em thì em sẽ cho anh ăn súp”.

– Rối giấy Ê-sau: Vì quá đói nên tôi sẵn sàng đổi bất cứ thứ gì để có thức ăn ngay. Thế là tôi nói: Quyền trưởng nam có ích gì? Nếu không có thức ăn tôi sẽ chết vì đói. Vì thế tôi đồng ý đổi quyền trưởng nam để lấy thức ăn.

Giáo viên bỏ con rối giấy xuống, nói với các em: Trong câu chuyện nầy, Gia-cốp lợi dụng thức ăn để đoạt lấy những gì anh ta muốn có từ người anh của mình một cách ích kỷ.

Các em sẽ nghe thêm một câu chuyện về Chúa Giê-xu và các bạn của Ngài là Ma-ri và Ma-thê. Câu chuyện nầy được chép trong Kinh Thánh Tân Ước, sách Lu-ca. Bây giờ, người xuất hiện sẽ là Ma-ri và Ma-thê, họ đang chuẩn bị đón tiếp Chúa Giê-xu đến thăm nhà mình.

b. Chuẩn bị thức ăn cho Chúa Giê-xu.

– Rối giấy Ma-thê: Chào các em, tôi là Ma-thê.

– Rối giấy Ma-ri: Chào các em, tôi là Ma-ri, em của Ma-thê. Bây giờ tôi sẽ đi chợ, còn Ma-thê đang bận rộn với công việc ở nhà.

– Rối giấy Ma-thê: Tôi phải làm nhiều việc để chuẩn bị mời Chúa Giê-xu dùng bữa tối. À! tôi sẽ xay sẵn bột mì để làm bánh. Không biết Ma-ri đi chợ sắp về chưa? Cô ấy có biết rằng trước bữa tối chúng tôi phải chuẩn bị rất nhiều thứ hay không? A! Ma-ri đã về. Nhanh lên, em đã mua gà chưa? Em có mua được cá tươi không? Chúng ta phải chuẩn bị thứ tốt nhất để mời Chúa Giê-xu.

– Rối giấy Ma-ri: Chị ơi, em đã cố gắng mua được con gà rất ngon, tiếc là không có cá tươi, em chỉ mua được cá ướp muối.

– Rối giấy Ma-thê: Ôi, hỏng rồi! Thôi được, lúc làm bánh mì, thêm vào một chút bạc hà và nhục quế, để nó được đặc biệt một chút. Ma-ri, em còn đứng đó làm gì. Chúng ta còn rất nhiều việc phải làm. Chị còn chưa xay bột mì. Em đi xay được không? Đá mài ở trên kệ phía sau. Chị chuẩn bị nướng bánh đây. Đúng rồi, em phải dùng tiểu mạch chứ không phải đại mạch để làm bột mì. Chúng ta phải dành loại ngon nhất để đãi Chúa Giê-xu.

– Rối giấy Ma-ri: Chị ơi, có lẽ Chúa Giê-xu đến sớm, chúng ta sẽ được nghe Ngài giảng dạy. Ngài có biết bao điều kỳ diệu để kể cho chúng ta nghe…

– Rối giấy Ma-thê: Ma-ri, nếu chúng ta chưa làm xong bữa tối, thì làm sao có thể ngồi nghe Chúa Giê-xu dạy dỗ được. Nhanh lên! Hãy nấu nước cho chị làm gà, đừng quên bỏ muối.

– Rối giấy Ma-ri: Em còn phải đi lấy trái vả khô và đậu.

– Rối giấy Ma-thê: Để xem, chị phải đem bột nhồi từ hôm qua, trộn với bột mới nhồi, sau đó chị phải đợi bánh mì nở. Như vậy, bánh mì nướng mới dòn xốp, bột ở đây nầy. (Ngừng giây lát) Ma-ri! Em đâu rồi?

– Rối giấy Ma-ri: Dạ, em đây. Em đang xem Chúa Giê-xu đến chưa? Trái vả và trái đậu đều ở đây.

– Dẫn chuyện: Ma-thê bắt đầu bỏ gà vào nồi, rồi đem bánh mì vào lò nướng.

– Rối giấy Ma-thê: Chị làm bánh bông lan nho khô cho Chúa Giê-xu, để khi rời khỏi đây Ngài có thể mang theo ăn dọc đường.

– Rối giấy Ma-ri: Ngài đến rồi, chị ơi! Chúa Giê-xu đến rồi.

– Rối giấy Ma-thê: Chà! Ma-ri bỏ lại tất cả công việc, để chạy đến trò chuyện với Chúa Giê-xu. Muốn có một bữa tối thật ngon để đãi Chúa Giê-xu thì Ma-ri phải giúp mình chứ (tức giận).

– Dẫn chuyện: Ma-thê bực tức chạy vào phòng, nơi Ma-ri đang ngồi nghe Chúa Giê-xu giảng dạy.

– Rối giấy Ma-thê: Thưa Chúa, em con để một mình con làm hết mọi việc, xin Ngài bảo Ma-ri phụ giúp con với.

– Dẫn chuyện: Chúa Giê-xu nói với Ma-thê: Con chịu khó làm nhiều việc, nhưng có một việc cần mà thôi. Ma-ri đã lựa phần tốt là phần không có ai giành lấy được.

Ma-ri muốn có nhiều thời gian nghe Chúa Giê-xu dạy dỗ, cô yêu mến Chúa và học được từ Ngài những điều tốt đẹp. Ma-thê cũng rất yêu mến Chúa Giê-xu, cô muốn làm những việc đặc biệt cho Ngài.

3. Ứng dụng.

Con người cần phải có thức ăn để sống, mọi thức ăn đều do Chúa tạo ra cho loài người. Chúa vui lòng khi chúng ta biết chia thức ăn của mình cho những người cần đến. Đó là việc làm đẹp lòng Chúa, nhất định Chúa sẽ ban phước cho chúng ta.

Hướng dẫn các em trả lời phần bài tập trong bài 3 sách học viên. Sau khi các em làm xong, dựa vào lời thoại sau hướng dẫn các em chia sẻ: Những thức ăn được vẽ trong hình là những thứ người ta thường ăn trong thời đại Kinh Thánh. Trong số nầy, những thức ăn nào hiện nay chúng ta thường hay ăn? Em thích thức ăn nào nhất?

Trong phần bài tập B, hỏi các em: Gia-cốp làm thế nào để nấu chín nồi súp? Ma-thê dùng cách gì để nướng bánh?

Dựa theo gợi ý trong tập học viên, hướng dẫn các em kể ra ba loại dụng cụ điện hiện đại trong hình và hỏi các em: Những dụng cụ điện nầy có công dụng gì? Các em nghĩ nhân vật Kinh Thánh sẽ dùng cách gì, hoặc công cụ gì để thay thế những dụng cụ điện nầy?

BÀI 3. THỨC ĂN TRONG THỜI ĐẠI KINH THÁNH (HV)

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 25:27-34; Lu-ca 10:38-42.
II. CÂU GỐC: “Người nào có mắt từ thiện sẽ được phước, vì người
ban bánh cho kẻ nghèo khó”
(Châm ngôn 22:9).
III. BÀI TẬP.
A. CHỌN THỨC ĂN

Xem hình và đánh dấu “V” lên thức ăn được nhắc đến trong câu
chuyện Kinh Thánh hôm nay.

B. ĐIỆN KHÍ HOÁ
Xem hình rồi nêu ra 6 loại dụng cụ phải sử dụng điện khí, vì thế
chúng không có trong thời đại Kinh Thánh. Sau đó kể ra công dụng
của các dụng cụ nầy. Trong thời đại Kinh Thánh, dùng cách gì để
thay thế những dụng cụ điện khí hoá nầy.

 

 

BÀI 2.TRANG G TRONG THỜI ĐẠI KINH THÁNH (GV-HV)

BÀI 2.TRANG G TRONG THỜI ĐẠI KINH THÁNH (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ IV. 2016 on 25 Tháng Bảy, 2018

BÀI 2.TRANG PHỤC TRONG THỜI ĐẠI KINH THÁNH (GV)

I. KINH THÁNH: Giô-suê 6:17-19; 7:19-21; 1Sa-mu-ên 18:1-4; Công Vụ 9:36-43

II. CÂU GỐC: “Còn về phần quần áo, các ngươi lại lo lắng mà làm chi?… Cha các ngươi ở trên trời vốn biết các ngươi cần dùng những điều đó rồi” (Ma-thi-ơ 6:28a; 32b).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Áo quần trong thời đại Kinh Thánh và ngày nay có gì khác nhau.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời ban cho chúng ta đủ mọi nhu cầu.

– Hành động: Cảm tạ Chúa ban cho em các loại quần áo khác nhau.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

Giáo viên có thể dựa vào hoàn cảnh thực tế tại địa phương, hướng dẫn các em tiến hành hai hoạt động sau đây để gây hứng thú học tập hoặc chọn lấy một.

* Đề nghị 1: Con chiên và quần áo.

1. Vật liệu: Trang tài liệu B trong tập học viên.

2. Thực hiện: Giáo viên nói với các em: Các em thử nghĩ xem con chiên và quần áo có liên hệ gì? Một con chiên có thể biến thành một bộ quần áo không? Đúng rồi, con chiên không thể biến thành quần áo, nhưng lông của nó có thể biến thành quần áo. Mời các em xem quá trình từ lông chiên biến thành quần áo rất thú vị nầy (Hướng dẫn các em mở trang tài liệu B trong tập học viên).

Để giúp các em hiểu trang tài liệu nầy, giáo viên đọc câu hỏi từng bước một, sau đó ngưng giây lát để các em có đủ thời gian trả lời.

Quá trình thiết kế quần áo không đơn giản, vì thế vào thời đại Kinh Thánh quần áo rất quí, và Đô-ca là một phụ nữ chuyên may quần áo.

* Đề nghị 2. Mặc quần áo.

1. Vật liệu: Trang tài liệu C trong tập học viên, kéo, keo dán.

2. Thực hiện: Giáo viên mời các em giúp đỡ mặc đồ cho nhân vật Kinh Thánh. Cho các em mở trang tư liệu C trong tập học viên và hướng dẫn các em làm. Khi các em hoàn tất, mời các em đưa ra sản phẩm của mình và dùng những câu hỏi sau để giúp các em chia sẻ: “Hãy nghĩ xem vì sao người thời đó thích mặc loại quần áo vừa dài vừa rộng?” (Đợi sau khi các em phát biểu ý kiến xong, có thể giải thích: Loại quần áo như vậy dễ may hơn, trong khí hậu nóng bức mặc những loại quần áo nầy cũng sẽ mát hơn. Nếu thời gian cho phép, có thể giải thích thêm: Người thời đó thích mặc loại quần áo nhộm màu sắc sặc sỡ, phụ nữ thích đeo đồ trang sức trên áo choàng, mạng che mặt và trên dây lưng).

B. BÀI HỌC KINH THÁNH

(Chuẩn bị giáo cụ: Photo lớn trang tài liệu B, hình 1-5 trong sách giáo viên, rồi tô màu và cắt ra, bảng, băng keo hai mặt, mạng che mặt, áo choàng (hóa trang theo cách ăn mặc của nhân vật trong thời đại Kinh Thánh).

Nhờ các em xếp gọn lại những tài liệu được dùng trong phần “Sinh Hoạt Đầu Giờ”. Trong khi các em đang sắp xếp, giáo viên nhanh chóng đeo mạng che mặt lên, mặc áo choàng vào, hoặc có thể mời một người đã chuẩn bị sẵn. Sau đó, tự giới thiệu: Chào các bạn nhỏ. Hôm nay chúng ta sẽ học đến những trang phục mà người trong thời đại Kinh Thánh mặc, tôi là giáo viên đặc biệt của các em. Nhìn áo quần tôi đang mặc, các em có thể biết được trang phục của những người trong thời đại Kinh Thánh khác với những gì chúng ta đang mặc ngày nay (Mời em nào đã hoàn thành “Mặc quần áo” trong phần Sinh Hoạt Đầu Giờ giới thiệu sản phẩm của mình cho các bạn xem).

1. Vào đề.

Áo quần của nhân vật trong thời đại Kinh Thánh tốn nhiều thời gian để may hơn so với ngày nay (Mời các em kể ra các bước cần thực hiện khi may quần áo trong phần sinh hoạt đầu giờ “Con chiên và quần áo”). Vì may quần áo tốn nhiều thời gian và công sức, nên quần áo rất quí giá. Những người mặc quần áo bằng vải tốt, được cắt may khéo léo, đẹp đẽ, có thể chứng tỏ mình là người giàu có. Câu chuyện hôm nay sẽ cho các em biết về một số trang phục của người xưa.

2. Bài học.

a. A-can và chiếc áo choàng đẹp.

Cô (thầy) sẽ giới thiệu cho các em một người lính trong Kinh Thánh tên là A-can. Một lần nọ, A-can cùng những người lính Y-sơ-ra-ên đi chiến đấu. Đức Chúa Trời ra lệnh không được lấy bất cứ thứ gì sau khi chiến thắng quân thù. Nhờ Đức Chúa Trời giúp đỡ, quân Y-sơ-ra-ên thắng trận, họ tiến vào thành trong tiếng hò reo chiến thắng. Chính lúc đó, A-can nhìn thấy chiếc áo choàng đẹp đẽ và một số vàng bạc quí giá khác nữa. Lòng tham nổi lên, A-can lén lấy đem về trại của mình giấu thật kỹ. Sau đó, vị chỉ huy điều tra và biết A-can không tuân lệnh, nên xử phạt anh ta rất nặng.

Từ câu chuyện nầy các em có thể thấy chiếc áo choàng tốt đẹp đối với A-can cũng quan trọng như vàng bạc. Và điều đáng buồn là những thứ nầy đối với anh ta còn quan trọng hơn cả vâng lời Chúa.

b. Chiếc áo của Giô-na-than tặng Đa-vít.

Vào thời đại Kinh Thánh, quần áo đối với người thời đó rất quí. Một trong những câu chuyện mà cô (thầy) rất thích, đó là câu chuyện Giô-na-than tặng áo cho Đa-vít.

Từ khi đánh thắng người khổng lồ Gô-li-át, Đa-vít được sống bên cạnh vua Sau-lơ cùng gia đình ông. Ở đó Đa-vít quen biết Giô-na-than là con trai của vua Sau-lơ, và họ trở thành một đôi bạn tốt (dán hình 2 lên bảng, đem hình 3 (áo choàng) đặt vào tay của Giô-na-than). Như các em biết, bạn tốt thường giúp đỡ lẫn nhau. Một hôm, Giô-na-than tặng Đa-vít chiếc áo choàng quí giá mà các hòang tử thường mặc (Đem hình áo choàng từ tay của Giô-na-than sang hình của Đa-vít. Khi nói đến những thứ có liên quan thì đem hình 4 và 5 từ hình Giô-na-than sang hình Đa-vít).  Giô-na-than còn tặng cho Đa-vít áo giáp, đai thắt lưng, kiếm cung của mình. Giô-na-than muốn bày tỏ cùng Đa-vít rằng, anh ta mong muốn mãi mãi là bạn của Đa-vít. Đa-vít cũng mong muốn mãi là bạn của Giô-na-than khi nhận những món quà nầy. Họ là bạn tốt của nhau suốt đời.

c. Đô-ca may áo cho người khác.

Những câu chuyện mà các em vừa nghe đều xảy ra trước khi Chúa Giê-xu giáng sinh nhiều năm, và được chép trong Kinh Thánh Cựu Ước. Vào thời đại sau khi Chúa Giê-xu giáng sinh, quần áo vẫn tương đối quan trọng. Có một phụ nữ tên là Đô-ca thường may áo cho những người nghèo khổ. Một hôm, bà bị bệnh và qua đời. Bạn bè của bà vô cùng thương tiếc. Nghe tin ông Phi-e-rơ đang ở trong thành phố gần đó, họ liền sai người mời ông xuống gấp. Đến nơi, họ đưa ông lên căn phòng trên gác. Các bà góa đứng bên ông khóc lóc và đưa cho Phi-e-rơ xem những chiếc áo choàng, áo dài mà bà Đô-ca đã may cho, họ nhớ lại tấm lòng và sự quan tâm của bà Đô-ca đối với họ. Ông Phi-e-rơ mời các góa phụ ra khỏi phòng, rồi quì gối cầu nguyện. Sau khi cầu nguyện xong, Phi-e-rơ đứng dậy gọi: “Đô-ca, hãy vùng dậy”. Bà Đô-ca mở mắt, trông thấy Phi-e-rơ liền ngồi dậy. Ông Phi-e-rơ đưa tay đỡ bà đứng lên, rồi gọi các tín hữu và những bà góa vào phòng, cho gặp người vừa sống lại.

Mọi người đều vui mừng vì Đức Chúa Trời nhậm lời cầu nguyện của Phi-e-rơ, cho Đô-ca sống lại. Qua việc đó, có rất nhiều người tin nhận Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời. Và chắc có lẽ bà Đô-ca sẽ tiếp tục may áo cho những góa phụ cần được giúp đỡ.

3. Ứng dụng.

Bài học nầy giúp các em biết những sự khác nhau của trang phục thời nay và thời Kinh Thánh. Nhưng có một điều, dù ở bất cứ thời đại nào, thái độ của con người đối với việc ăn mặc cũng đều giống nhau. Người ta thường lo lắng về việc ăn mặc, nhưng Chúa bảo chúng ta đừng lo lắng, vì Ngài biết rõ nhu cầu của chúng ta và ban cho đủ mọi sự cần dùng.

Theo sự gợi ý trong sách học viên, cho các em trả lời phần “Quà tặng cho Đa-vít”. Sau đó hỏi để các em chia sẻ: Giô-na-than tặng áo choàng, kiếm, cung, dây thắt lưng cho Đa-vít để bày tỏ điều gì? Nếu Đa-vít và Giô-na-than sống trong thời nay, em thử nghĩ xem Giô-na-than sẽ tặng cho Đa-vít thứ gì?

Trong phần “Xưa và nay”, giáo viên dựa vào gợi ý trong tập học viên, hướng dẫn các em trả lời. Giáo viên đọc những câu hỏi trong hình vẽ cách rõ ràng.

Đáp án: Hình cặp thứ 1: v x; thứ 2: v x; thứ 3: v x; thứ 4: v v.

C. SINH HOẠT THỰC HÀNH.

* Tô màu ghép hình.

1. Vật liệu: Trang tài liệu B hình 6 trong sách giáo viên, bút màu.

2. Chuẩn bị: Photo lớn hình 6, cắt dọc theo đường viền thành 8 phần (nếu các em đông, giáo viên có thể làm hai bộ hình hoặc cắt thành mười phần như khăn choàng và áo choàng cắt rời ra v. v…). Sau đó chia cho mỗi em một tấm, cho các em tô màu lên hình đó, rồi mời các em đem hình ghép lên bảng.

BÀI 2. TRANG PHỤC TRONG THỜI ĐẠI KINH THÁNH (HV)

I. KINH THÁNH: Giô-suê 6:17-19; 7:19; 1Sa-mu-ên 18:1-4; (Công Vụ
9:36-43).
II. CÂU GỐC: “Còn về phần quần áo, các ngươi lại lo lắng mà làm
chi? …Cha các ngươi ở trên trời vốn biết các ngươi cần dùng
những điều đó rồi” (Ma-thi-ơ 6:28a, 32b).
III. BÀI TẬP.
A. QUÀ CỦA GIÔ-NA-THAN TẶNG ĐA-VÍT.
Tô màu lên những thứ Giô-na-than tặng Đa-vít.

B. XƯA VÀ NAY.
– So sánh từng cặp hình vẽ, sau đó trả lời.
– Hình nào đúng, đánh dấu “V” vào ô vuông, hình nào sai, thì đánh
dấu “X”.

BÀI 1.  CÁC CÔNG VIỆC TRONG THỜI ĐẠI KINH THÁNH (GV-HV)

BÀI 1.  CÁC CÔNG VIỆC TRONG THỜI ĐẠI KINH THÁNH (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ IV. 2016 on 23 Tháng Bảy, 2018

BÀI 1.  CÁC CÔNG VIỆC TRONG THỜI ĐẠI KINH THÁNH (GV)

I. KINH THÁNH: Ru-tơ 2:1-17; Công Vụ 16:11-15.

II. CÂU GỐC: “Nàng… lạc ý lấy tay mình mà làm công việc” (Châm ngôn 31:13).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: So sánh các việc làm trong thời Bô-ô và Ly-đi với nông dân và thương nhân ngày nay có gì khác nhau.

– Cảm nhận: Các công việc của nông dân hay thương nhân đều có ích.

– Hành động: Trong tuần, em chọn làm một việc hợp với khả năng để giúp đỡ những người chung quanh.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

Giáo viên dựa vào hoàn cảnh thực tế, hướng dẫn các em tiến hành hai sinh hoạt gây hứng thú sau, hoặc chọn lấy một.

* Đề nghị 1: Ghép đôi.

1. Vật liệu: Trang tài liệu A trong sách giáo viên.

2. Chuẩn bị: Photo trang tài liệu A (gồm 2 phần: Hình và chữ). Tô màu phần hình, sau đó cắt tất cả ra thành hai bộ thiệp ghép đôi (một bộ thiệp ghép đôi gồm: 5 tấm hình và 5 tấm giấy có chữ cho mỗi hình).

Chia các em thành hai nhóm, phát cho mỗi nhóm một bộ thiệp ghép đôi. Hướng dẫn các em tiến hành ghép đôi các tấm thiệp hình và chữ như sau:

1. Tìm hình một phụ nữ (Gợi ý: Dưới góc hình đó có một ngôi sao).

2. Người phụ nữ đó là một góa phụ, góa phụ có nghĩa là chồng của bà ta đã chết. Vào thời đại Kinh Thánh, góa phụ không được hưởng gia tài của người chồng để lại. Vì thế họ rất nghèo, cần được sự giúp đỡ của người khác.

3. Tìm mảnh giấy có ghi từ “góa phụ”.

4. Vẽ một ngôi sao dưới góc tờ giấy nầy.

5. Tìm hình vẽ có ký hiệu hình vuông, hình này miêu tả vào thời đại Kinh Thánh, người ta gặt lúa trong đồng ruộng. Đàn ông phụ trách gặt hái, phụ nữ và trẻ em đem những bông lúa đã gặt bó thành từng bó.

6. Tìm tờ giấy có ghi từ “thu hoạch”. Vẽ dưới góc ký hiệu hình vuông.

7. Tìm hình vẽ có ký hiệu hình tròn, đây là một con dao đặc biệt, nó vừa dài vừa cong, chuyên dùng để gặt hái.

8. Con dao đó được gọi là “lưỡi liềm”. Vẽ ký hiệu hình tròn vào tờ giấy.

9. Tìm hình vẽ có ký hiệu hình bán nguyệt, góa phụ này đang lượm những bông lúa còn sót lại (Những bông lúa rơi lại sau khi đã cột thành từng bó). Vào thời đại Kinh Thánh, Đức Chúa Trời phán rằng, phải cho những người nghèo khó lượm những bông lúa rơi trên đồng ruộng.

10. Tìm tờ giấy có ghi từ “mót lúa”. Vẽ ký hiệu hình bán nguyệt vào tờ giấy.

11. Hình vẽ cuối cùng có nghĩa là gì đây? Đúng rồi, người đàn ông nầy đang đập lúa, những hạt lúa rơi chung quanh, việc nầy được gọi là “đập lúa”.

12. Tìm tờ giấy có ghi từ “đập lúa”. Vẽ ký hiệu hình tam giác vào tờ giấy.

13. Ghép đôi những hình vẽ và tờ giấy lại theo ký hiệu (Cho các em đem những hình vẽ và tờ giấy dán lên bảng).

B. BÀI HỌC KINH THÁNH

(Chuẩn bị thị cụ: Photo lớn trang tài liệu A hình 1-13 trong sách giáo viên, trang tư liệu A trong tập học viên).

  1. Vào đề.

Đức Chúa Trời tạo dựng nên mỗi người có sở thích và khả năng khác nhau, Chúa cho chúng ta tự do lựa chọn những công việc khác nhau để làm. Em thử kể ra một số công việc mà những người em biết đang làm? Họ là công nhân, nông dân, giáo viên, thầy thuốc…

Kinh Thánh cho chúng ta biết một số công việc mà những ngươi thời xưa đã làm (Cho các em xem hình, dùng những hình nầy làm ví dụ). Bài học nầy sẽ cho các em biết rõ hơn về các công việc mà người ta làm trong thời đại Kinh Thánh.

2. Bài học.

a. Câu chuyện của người nông dân.

Kinh Thánh kể rằng: Bô-ô là một nông gia rất giàu có. Lúc ấy, những cánh đồng ngút ngàn, cò bay thẳng cánh của ông đang vào mùa thu hoạch (cho các em xem hình 1). Những người làm công cho Bô-ô đang thoăn thoắt cắt những bông lúa trĩu nặng bằng chiếc lưỡi liềm bén ngót, cong vút. Sau đó, phụ nữ và trẻ em gom những bông lúa đã cắt bó lại thành từng bó. Trong mùa thu hoạch mọi người đều rất bận rộn.

Một hôm, ông Bô-ô đến thăm một trong những cánh đồng của mình, ông thấy một phụ nữ đang mót những bông lúa mà những thợ gặt làm rơi lại. Bô-ô chưa từng gặp người nầy bao giờ, ông hỏi những người làm công: “Người phụ nữ đó là ai?” Người ta trả lời: “Đó là dâu của bà Na-ô-mi, tên là Ru-tơ”. Tuy chưa từng gặp Ru-tơ, nhưng ông Bô-ô có nghe rằng chồng cô đã qua đời – như vậy, cô ta là một góa phụ (Đưa ra hình 1 và mời một em tìm tờ giấy có ghi từ “góa phụ”). Ông Bô-ô cũng biết bà Na-ô-mi là một góa phụ, vì ông là bà con xa với gia đình chồng bà. Bô-ô còn biết, Ru-tơ không trở về nhà cha mẹ mình mà quyết định ở lại sống cùng Na-ô-mi. Ông biết Ru-tơ yêu thương Na-ô-mi, sẵn lòng giúp đỡ Na-ô-mi trong lúc tuổi già. Vì thế, ông Bô-ô quyết định giúp đỡ Ru-tơ. Ông bảo Ru-tơ cứ tiếp tục mót lúa trong ruộng của mình, cũng như được uống nước trong bình như các thợ gặt khác. Đến giờ ăn, Bô-ô gọi Ru-tơ: “Đến đây ăn với chúng tôi”. Bô-ô đem bánh và hột mạch rang cho Ru-tơ ăn no nê. Phần còn dư lại, Ru-tơ nghĩ thầm: “Mình sẽ gói đem về cho mẹ. Nhất định mẹ mình rất thích những hột mạch rang nầy”.

Sau đó, Ru-tơ tiếp tục mót lúa. Ông Bô-ô dặn những người giúp việc: “Hãy để cho nàng mót lúa bất cứ nơi đâu. Thỉnh thoảng rút ra ít bông lúa bỏ cho nàng nhặt”. Còn Ru-tơ cứ mãi miết mót nhặt đến chiều tối, Ru-tơ rất vui vì số lúa có được nhiều hơn so với suy nghĩ. Nhờ sự nhân từ của Bô-ô mà Ru-tơ và Na-ô-mi có đủ lương thực để sống trong những ngày khó khăn.

b. Câu chuyện của người thương gia.

Buôn bán là một công việc quan trọng ngày nay. Đó cũng là một công việc quan trọng trong thời đại Kinh Thánh. Những người làm công việc nầy được gọi là thương gia.

Vào thời đại Kinh Thánh, đa số các cửa hiệu trong thành phố đều tập trung tại một khu vực, được gọi là chợ. Các cửa hiệu đều hướng về mặt đường (cho các em xem hình).

Kinh Thánh Tân Ước có nói đến một thương nhân tên là Ly-đi (Mở Kinh Thánh Công vụ 16, đồng thời đưa ra hình 12). Bà Ly-đi có một cửa tiệm buôn bán hàng sắc tía. Vào thời đó, hàng sắc tía rất quí, chỉ có những người giàu có sang trọng mới mặc những áo quần bằng loại vải nầy. Quần áo của vua chúa và những người bà con của họ đều may bằng hàng sắc tía.

Bà Ly-đi buôn bán hàng sắc tía, đương nhiên là rất giàu có. Trong căn nhà rộng lớn bà có rất nhiều người giúp việc. Kinh Thánh còn cho chúng ta biết, bà Ly-đi là người yêu mến Đức Chúa Trời. Cứ mỗi thứ bảy, bà đều cùng một vài phụ nữ cầu nguyện bên bờ sông. Vào một thứ bảy nọ, khi những phụ nữ nầy đang cầu nguyện, sứ đồ Phao-lô đến trò chuyện với họ. Ông phát hiện họ vẫn chưa hiểu biết về Chúa Giê-xu. Phao-lô liền giải thích cho họ biết, Chúa Giê-xu là Con Một của Đức Chúa Trời, Ngài đã chịu chết trên thập tự giá để loài người được tha tội. Tiếp sau đó, Phao-lô cho họ biết Chúa Giê-xu đã từ kẻ chết sống lại và hiện nay đang ngồi bên hữu Đức Chúa Trời để cầu thay cho loài người.

Bà Ly-đi nhận biết những lời Phao-lô nói là thật, bà tin Chúa Giê-xu và trở thành một thành viên trong gia đình của Chúa. Rồi bà mời Phao-lô cùng bạn của ông đến thăm nhà bà và ở với gia đình bà một thời gian để rao giảng Tin Lành.

3. Ứng dụng

Hướng dẫn các em trả lời các câu hỏi sau: Bô-ô giúp đỡ Ru-tơ bằng cách nào? Thương nhân Ly-đi làm thế nào để giúp đỡ Phao-lô và bạn của ông? Em có cho rằng Bô-ô và Ly-đi đều thích công việc của mình không? Vì sao?

Trong phần trắc nghiệm, giáo viên dựa vào gợi ý trong tập học viên hướng dẫn các em chia sẻ: Nhận biết công việc của Bô-ô và Ly-đi có giúp em hiểu biết về Kinh Thánh hơn không? Các em sẽ làm gì để giúp đỡ người chung quanh mình? (Những gì được Kinh Thánh chép lại đều là người thật việc thật).

BÀI 1. CÁC CÔNG VIỆC TRONG THỜI ĐẠI KINH THÁNH (HV)

I. KINH THÁNH: Ru-tơ 2:1-17; Công Vụ 16:11-15.

II. CÂU GỐC: “Nàng … lạc ý lấy tay mình mà làm công việc” (Châm

ngôn 31:13).

III. BÀI TẬP.

A. CÁC CÔNG VIỆC XƯA VÀ NAY.

Nối các công việc của Bô-ô và các công việc tương tự hiện nay

lại với nhau. Dùng cách như vậy tìm ra công việc ngày nay tương tự với công việc của Ly-đy ngày xưa.

B. TRẮC NGHIỆM.
Đánh dấu “x” vào hình vẽ không đúng.
– Người mót lúa là người …
– Những ai thường đến mua hàng
sắc tía?
– Dụng cụ mà người nông dân dùng
để gặt lúa.
– Các cửa hiệu trong thời đại Kinh
Thánh …

 

BÀI 13. BÀI ÔN (GV-HV)

BÀI 13. BÀI ÔN (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ III. 2016 on 20 Tháng Bảy, 2018

BÀI 13. BÀI ÔN (GV-HV)

I. KINH THÁNH: Tất cả các đoạn Kinh Thánh đã học trong quí.

II. CÂU GỐC: Tất cả những câu gốc đã học trong quí.

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Qua đời sống của Đa-vít, Đức Chúa Trời đã thực hiện lời hứa của Ngài cho dòng dõi ông.

– Cảm nhận: Sống đẹp lòng Chúa sẽ nhận được phước hạnh Chúa ban.

– Hành động: Em quyết tâm sống đẹp lòng Chúa.

III. ÔN CÂU GỐC.

Chuẩn bị giấy trắng tương ứng với số hiện diện của các em. Giáo viên viết một câu gốc lên mỗi mẫu giấy, nhưng không viết địa chỉ hoặc viết địa chỉ nhưng không viết câu gốc (những câu gốc đã học trong quí). Gọi từng em lên bốc thăm và nói lên địa chỉ hoặc câu gốc còn thiếu. Em nào đáp đúng được thưởng một chiếc kẹo.

IV. PHẦN ÔN BÀI.

Bạn phải nắm vững nội dung của mỗi bài, điểm lại những ý nào nên nhấn mạnh, những ý nào nên lướt.

Bạn ôn bài theo thứ tự. Có thể thay đổi theo các cách ôn sau đây.

  1. Gắn hình (nếu có) của mỗi truyện tích lên bảng. Cho các em nói tên nhân vật, công việc của họ; gợi ý bằng những câu hỏi để giúp các em nhớ hết câu chuyện. Bạn cho các em nói luôn phần ứng dụng. Sau đó bạn sơ lược câu chuyện, nhấn mạnh những điểm chính, nêu lên sự dạy dỗ để các em có thể nắm vững những điều đã học.
  2. Kể lại câu chuyện em thích và nhớ nhất.
  3. Giáo viên nhắc lại đặc điểm của mỗi nhân vật nhưng không dùng tên, chỉ dùng từ “tôi” để hỏi các em: “Tôi là ai?” Ví dụ: “Tôi có một người bạn thân đàn hát rất hay. Tôi là ai?”

 

BÀi 12.  ĐỨC CHÚA TRỜI HOÀN THÀNH LỜI HỨA (GV-HV)

BÀi 12.  ĐỨC CHÚA TRỜI HOÀN THÀNH LỜI HỨA (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ III. 2016 on 20 Tháng Bảy, 2018

BÀi 12.  ĐỨC CHÚA TRỜI HOÀN THÀNH LỜI HỨA

I. KINH THÁNH: Lu-ca 1:26-35; 2:1-7.

II. CÂU GỐC: “Ấy là hôm nay tại thành Đa-vít đã sanh cho các ngươi một Đấng Cứu Thế, là Christ, là Chúa” (Lu-ca 2:11).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Lời hứa của Đức Chúa Trời với Đa-vít đã trở thành sự thật. Ngài sai Chúa Giê-xu giáng sinh trong dòng dõi vua Đa-vít.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời luôn giữ lời hứa.

– Hành động: Cảm tạ Đức Chúa Trời đã ban Chúa Cứu Thế như lời Ngài hứa.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A.SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Gợi ý 1: Bối cảnh Kinh Thánh.

1. Mục đích: Giúp các em ôn lại chuyện Chúa Giê-xu giáng sinh ở Bết-lê-hem.

2. Vật liệu: Tập học viên bài 12, một tấm xốp 45 x 30cm làm mô hình, giấy nhám hoặc giấy màu xám làm đường đi, giấy màu xanh làm dòng suối, đất sét làm núi, giấy cứng làm thành Bết-lê-hem và Na-xa-rét, vài sợi kẽm 6 x 15cm để làm người, giấy màu hoặc vải làm quần áo, kéo, keo dán.

3. Thực hiện:

– Giáo viên căn cứ theo tập học viên, bài 12 để làm đường đi, dòng sông, thành Bết-lê-hem, Na-xa-rét, núi.

– Đến lớp, hướng dẫn các em mở tập học viên làm mô hình Chúa Giê-xu giáng sinh. Dán hình đường đi, sông, núi, thành Bết-lê-hem, Na-xa-rét vào tấm xốp. Sau đó giúp các em làm hình người bằng dây kẽm.

– Khi các em làm xong, giáo viên nói: “Ngày xưa, Ma-ri và Giô sép từ thành Na-xa-rét đến Bết-lê-hem theo con đường này. Họ phải vượt qua nhiều đồi núi, lội qua sông”, giáo viên vừa nói vừa cắm hình người bằng kẽm vào mô hình.

– Khuyến khích các em kể lại chuyện Chúa Giê-xu giáng sinh. Có thể vừa kể vừa di chuyển hình người trên mô hình để minh họa. Đến đoạn thiên sứ báo tin cho Ma-ri tại Na-xa-rét, giáo viên đặt câu hỏi: “Chúa Giê-xu giáng sinh tại thành nào?”

* Gợi ý 2: Ráp câu gốc.

1. Mục đích: Giúp các em mau thuộc câu gốc.

2. Vật liệu: Cắt giấy cứng ra thành nhiều tờ hình vuông (3 x 3cm), viết màu, kéo, bì thư (mỗi nhóm một cái).

3. Thực hiện:

– Dùng bút màu ghi câu gốc lên giấy hình vuông (mỗi tờ một chữ) rồi bỏ vào bao thư.

– Chia các em thành nhiều nhóm nhỏ, mỗi nhóm nhận một bao thư, xem nhóm nào xếp nhanh nhất và giải thích được ý nghĩa của câu gốc.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH

(Chuẩn bị thị trợ: Kinh Thánh, mô hình “Bối cảnh Kinh Thánh” trong phần “sinh hoạt đầu giờ”, tập học viên bài 12).

1. Vào đề

Các em thân mến, các em còn nhớ vua Đa-vít yêu mến Đức Chúa Trời nên muốn xây dựng gì cho Ngài?” (Đền thờ). “Tiên tri Na-than báo cho Đa-vít biết điều gì?” (Đức Chúa Trời muốn con của vua Đa-vít sẽ xây dựng đền thờ cho Ngài). Đức Chúa Trời cho Đa-vít biết chương trình đặc biệt của Ngài khi ban cho ông lời hứa kỳ diệu. “Lời hứa ấy là gì?” (Ngài sẽ sai một vị Vua vĩ đại đến thế gian. Vị vua đó được sinh ra từ dòng dõi Đa-vít và sẽ làm vua đời đời).

2. Bài học.

Một hôm, Đức Chúa Trời cho biết Cứu Chúa sắp đến. Trước tiên, Ngài sai thiên sứ báo tin cho Ma-ri, các em còn nhớ đó là tin gì không? (Cho các em trả lời). Tin tức mà thiên sứ báo cho Ma-ri nhắc các em về điều gì? (Lời hứa của Đức Chúa Trời với Đa-vít). Bấy giờ, Ma-ri biết rằng Chúa Cứu Thế sắp đến thế gian và biết mình sẽ là mẹ của Ngài.

Em nào nhớ Ma-ri sống ở đâu? (Na-xa-rét). Con Thánh sinh ra ở đâu? (Bết-lê-hem). Đây là những sự kiện quan trọng vì là lời hứa của Đức Chúa Trời. Bây giờ các em xem sự việc xảy ra như thế nào nha.

Một hôm, Sê-sa Au-gút-tơ ra lệnh phải lập sổ bộ cho cả dân sự. Như vậy, Giô-sép và Ma-ri phải đi đâu để khai tên vào sổ? Họ đến Bết-lê-hem, vì Giô-sép, chồng của Ma-ri là dòng dõi vua Đa-vít nên phải về quê hương của Giô-sép để đăng ký sổ bộ. (Cho các em cùng thực hiện phần “Sinh hoạt đầu giờ 1”, dùng “Bối cảnh Kinh Thánh thuật chuyện).

Đêm đó, Con của Đức Chúa Trời giáng sinh. Ngài được sinh ra từ dòng dõi Đa-vít và ngay tại thành Đa-vít là Bết-lê-hem, ứng nghiệm lời Đức Chúa Trời phán trong Kinh Thánh (cho các em đọc Kinh Thánh Lu-ca 2:11). Hỏi các em vì sao gọi là thành Đa-vít?

Như vậy, Đức Chúa Trời đã hoàn thành lời hứa của mình. Giờ đây, Chúa Giê-xu đang ngự trên trời, nhưng một ngày nào đó Ngài sẽ trở lại và làm Vua đời đời. Đó là lúc lời Đức Chúa Trời hứa với Đa-vít hoàn thành trọn vẹn.

3. Ứng dụng.

Đức Chúa Trời biết tất cả các em đều cần đến Cứu Chúa là Đấng đã gánh lấy tội lỗi. Đó là Chúa Giê-xu và qua Ngài, các em được làm hòa với Đức Chúa Trời, được tha thứ mọi tội lỗi để trở nên con cái Ngài (đọc Kinh Thánh Giăng 1:12). Đức Chúa Trời hứa rằng, Ngài sẽ làm thành những điều đã phán (Ê-xê-chi-ên 36:36). Vì biết Đức Chúa Trời luôn thực hiện lời Ngài hứa nên các em có thể đặt trọn lòng tin nơi lời hứa của Ngài.

– Nếu em nào muốn biết nhiều hơn về Cứu Chúa Giê-xu và sự tha tội của Ngài, mời các em đến nói chuyện với cô (thầy) để có thể hiểu rằng lời hứa của Chúa với các em là chân thật. Sau giờ học, giáo viên có thể trò chuyện với những em chưa tin Chúa.

– Hướng dẫn các em cầu nguyện cảm tạ tình thương của Chúa Cứu Thế đối với các em, xin Đức Chúa Trời tha thứ mọi tội lỗi và cảm tạ về lời hứa của Ngài. Sau cùng, giáo viên cầu nguyện kết thúc.

BÀI 12. ĐỨC CHÚA TRỜI HOÀN THÀNH LỜI HỨA

I. KINH THÁNH: Lu-ca 1:26-35; 2:1-7.

II. CÂU GỐC: “Ấy là hôm nay tại thành Đa-vít đã sanh cho các ngươi một Đấng Cứu Thế, là Christ, là Chúa” (Lu-ca 2:11).

III. BÀI TẬP.

A. CON RỐI: CÂU CHUYỆN CHÚA GIÊ-XU GIÁNG SINH.

Nhân vật: Ma-ri, Giô-sép, em bé Giê-xu, thiên sứ, con lừa. (Dùng dây kẽm, giấy màu hoặc vải để làm con rối như hình vẽ).

Nội dung

 

Ít lâu sau…

 

Thế là Ma-ri và Giô-sép rời Na-xa-rét đến Bết-lê-hem. Tại đó, Con Đức Chúa Trời giáng sinh, đúng như lời Ngài đã hứa.

 

 

 

B. MÔ HÌNH TRUYỆN KINH THÁNH

1. Làm mô hình truyện Kinh Thánh, tượng trưng đường từ Na-xa-rét đến Bết-lê-hem.

– Dùng giấy nhám hoặc giấy màu xám làm đường đi.

 

– Dùng giấy màu xanh dương làm dòng suối.

 

 

– Dùng đất sét làm núi.

 

 

– Dùng giấy cứng làm thành, cắm lên đất sét hay cát.

 

Tặng thiệp này cho bạn và mời tham dự lớp Trường Chúa Nhật, hoặc đặt lên bàn để nhắc mình luôn cảm tạ Đức Chúa Trời.

IV. PHỤ LỤC.

CẢM ƠN.

1. Ai đã giúp đỡ hoặc đối xử tốt với em?

………………………………………………………………………………………….

2. Người ấy đã làm gì cho em? ………………………………………..

– Em có cần cảm ơn người đó không?

– Em có yêu thương người đó không?

* Dưới đây là một vài cách bày tỏ lòng biết ơn.

THIỆP CẢM ƠN.

– Cắt một tờ giấy cứng.

– Viết vài lời cảm ơn.

– Dùng bút màu hoặc giấy màu trang trí cho đẹp.

CÂY CẢM ƠN.

Tìm một cành cây khô, cắm vào đất hoặc xốp. Làm một tấm thiệp, một mặt ghi tên người nhận, một mặt ghi vài lời cảm ơn.

Xỏ chỉ treo lên cành cây. Đặt trong nhà, trong lớp Trường Chúa Nhật hay tặng cho người đã giúp mình.

 

TRỒNG CÂY.

* Vật liệu:

– Một vỏ hộp hoặc lon rỗng.

– Đất và nước.

– Giấy hoa.

– Keo dán, kéo.

* Cách làm:

a. Dán giấy hoa chung quanh hộp.

2. Đổ đất vào, gieo hạt giống hoặc trồng cây.

3. Tưới nước.

4. Tặng người đã giúp đỡ hoặc đối xử tốt với em.

 

 

BẢNG THÀNH TÍCH

Những hình dưới đây ghi lại thành tích của em trong lớp học Trường Chúa Nhật. Mỗi hình chia làm hai phần: A – Hiện diện, B – Câu gốc.

Tuần nào em có đi học Trường Chúa Nhật, tô màu phần A, thuộc câu gốc, tô màu phần B. Hãy cố gắng lên để những búp bê của em có nhiều sắc màu đẹp đẽ.

Tên của em……………..……………………………………………………………

 

LỜI GÓP Ý CỦA GIÁO VIÊN.

 

Giáo viên……………………….

BÀI 11.  LỜI HỨA ĐƯỢC THỰC HIỆN (GV-HV)

BÀI 11.  LỜI HỨA ĐƯỢC THỰC HIỆN (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ III. 2016 on 19 Tháng Bảy, 2018

BÀI 11.  LỜI HỨA ĐƯỢC THỰC HIỆN (GV)

I. KINH THÁNH: Lu-ca 1:26 – 56.

II. CÂU GỐC: “Phước cho người đã tin, vì lời Chúa truyền cho sẽ được ứng nghiệm” (Lu-ca 1:45).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Ma-ri tin cậy và hết lòng cảm tạ Chúa khi thiên sứ báo tin bà sẽ làm mẹ của Chúa Giê-xu.

– Cảm nhận: Vì yêu thương các em nên Đức Chúa Trời sai Con Một của Ngài đến thế gian làm Cứu Chúa các em.

– Hành động: Các em có thể cầu nguyện, ca hát hoặc vẽ tranh để bày tỏ niềm tin và lòng biết ơn Chúa.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ

* Làm thiệp (dùng để kẹp vào sách).

1. Mục đích: Giúp các em ôn lại lời của Đức Chúa Trời. Trong Kinh Thánh Cựu ước, Ngài hứa ban cho chúng ta Cứu Chúa, và lời hứa đó đã được thực hiện trong Tân ước.

2. Vật liệu: Tập học viên bài 11, giấy bìa màu, giấy bìa trắng (kích cỡ tùy ý, có thể làm nhỏ để làm thẻ ngăn sách), bút chì, bút màu, keo dán.

3. Thực hiện: Cho các em mở tập học viên bài 11, đọc phần bài học và làm bài tập.

Sau đó, cho các em làm thiệp. Trước tiên, viết lại câu Kinh thánh (nói về lời hứa của Đức Chúa Trời và sự thành tựu của lời hứa đó) trên giấy bìa trắng, dán lên hai mặt của giấy bìa màu. Có thể vẽ hình ảnh tuỳ thích vào chỗ trống để trang trí.

Sau khi làm xong, hỏi các em: “Phần đầu của Kinh thánh gọi là gì?” (Cựu ước). “Phần sau của Kinh Thánh gọi là gì?” (Tân ước). “Trong Cựu ước Đức Chúa Trời đã hứa những gì?” và “Đức Chúa Trời đã thực hiện lời hứa đó như thế nào?” (Xem hai câu Kinh thánh viết trên tấm thiệp) “Sách nào trong Kinh thánh cho chúng ta biết những điều ấy?”

A. BÀI HỌC KINH THÁNH

(Chuẩn bị: Kinh Thánh, con rối giấy thiên sứ và Ma-ri, sân khấu bằng hộp giấy (xem phụ lục).

  1. Vào đề

Tuần trước, các em đã biết Đức Chúa Trời hứa với Đa-vít một điều kỳ diệu. Khi Đa-vít đang làm vua, điều ấy chưa xảy ra, nhưng ông có tin rằng Đức Chúa Trời sẽ thực hiện lời hứa đó không? Đa-vít thể hiện đức tin mình như thế nào? (Cảm tạ Chúa về lời hứa của Ngài). Em nào còn nhớ câu gốc trong Ê-xê-chi-ên 36:36 không? (Cho các em đọc chung). Bây giờ mời các em lắng nghe câu chuyện hôm nay, xem Đức Chúa Trời thực hiện lời Ngài hứa với Đa-vít như thế nào?

  1. Bài học.

Hàng mấy trăm năm trôi qua, người ta trông đợi lời hứa của Đức Chúa Trời trở thành hiện thực. Ngài thường nhắc đến vị vua sẽ đến thế gian, nhưng chẳng hề nói khi nào điều đó được thực hiện. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời cho biết vị vua đó sẽ sinh ra tại Bết-lê-hem, nơi sinh trưởng của Đa-vít.

Cho đến một hôm, Đức Chúa Trời đã báo tin đặc biệt nầy cho Ma-ri, cô gái dịu hiền vừa mới hứa hôn với Giô-sép, một thanh niên thuộc dòng dõi vua Đa-vít… và mọi việc xảy ra như sau… (dùng sân khấu hộp giấy và đặt nhân vật bằng con rối khi thích hợp).

Hôm ấy, Ma-ri đang bận rộn với công việc hằng ngày, thình lình một thiên sứ hiện ra trước mặt làm Ma-ri hoảng hốt. Thiên sứ nói: “Xin chào mừng cô, người được ơn của Chúa! Chúa ở với cô”. Ma-ri không hiểu ý của thiên sứ, lại càng không biết vì sao thiên sứ xuất hiện trước mặt mình nên rất sợ hãi. Thiên sứ liền trấn an cô: “Hỡi Ma-ri, đừng sợ, vì cô được ơn trước mặt Đức Chúa Trời. Cô sắp có thai, sẽ sinh một con trai, và đặt tên là Giê-xu. Con trai đó rất cao trọng, sẽ được xưng là con Đức Chúa Trời”. Ma-ri ngạc nhiên hỏi: “Tôi chưa lập gia đình, làm sao có con được?” Thiên sứ trả lời: “Đức Thánh Linh sẽ giáng trên cô, chẳng việc gì Đức Chúa Trời không làm được”.

Ma-ri liền thưa: “Tôi là tôi tớ Chúa, sẵn sàng vâng theo ý muốn Chúa. Xin Chúa thực hiện mọi điều Ngài nói”.

Thiên sứ đi rồi, để lại trong lòng Ma-ri một cảm giác khó tả, vừa vui mừng vừa lo sợ. Vì Cứu Chúa do Đức Chúa Trời hứa ban sẽ đến thế gian và cô được chọn làm mẹ sinh ra Đấng ấy.

Ma-ri muốn báo tin mừng nầy cho một người bà con tên là Ê-li-sa-bét, hiện đang sống cách đây khá xa. Thế là Ma-ri vội vã thu xếp hành lý lên đường. Sau khi băng đồng vượt núi, trải qua một đoạn đường rất xa, Ma-ri đã đến nơi. Vì đã lâu không có dịp thăm viếng nhau, nên khi gặp mặt họ mừng rỡ vô cùng.

Ê-li-sa-bét nói với Ma-ri: “Cô là người hạnh phúc nhất trong giới phụ nữ! Thai trong lòng cô là phước hạnh lớn lao”. Ma-ri ca ngợi Đức Chúa Trời: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, tâm thần tôi mừng rỡ trong Đức Chúa Trời, là Cứu Chúa tôi… Bởi Đấng toàn năng đã làm các việc lớn cho tôi. Danh Ngài là thánh” (Lu-ca 1:46, 47, 49).

  1. Ứng dụng.

* Hướng dẫn các em mở tập học viên bài 11 và tìm trong bốn hình vẽ: (1) Thiên sứ báo cho Ma-ri biết tin mừng gì? (2) Ma-ri ca ngợi Đức Chúa Trời như thế nào? Nếu còn thời gian, có thể mời hai em đóng vai thiên sứ, Ma-ri và một em đứng bên làm người dẫn chuyện.

* “Đoạn Kinh Thánh hôm nay báo cho các em một tin lành, đó là tin gì? Xin mời một em nói tin lành nầy cho các bạn khác nghe”.

* Mời các em nghe câu Kinh Thánh sau đây (1Giăng 4:10) để biết vì sao Đức Chúa Trời sai con Ngài đến thế gian “…Ngài đã yêu chúng ta, và sai con Ngài làm của lễ chuộc tội chúng ta”.

* “Tại sao Đức Chúa Trời sai Con Ngài đến thế gian? Chúa Giê-xu trở thành Chúa Cứu Thế của các em có ý nghĩa gì?” Chú ý nghe câu trả lời và quan sát phản ứng của các em khác để giáo viên có thể sửa đổi những suy nghĩ sai lệch và giúp các em hiểu rõ tình yêu thương của Đức Chúa Trời. Hãy cầu nguyên cho các em. Đức Thánh Linh sẽ giúp bạn nhận biết nhu cầu thuộc linh của các em.

Những em được nuôi dưỡng trong một gia đình Tin Lành từ nhỏ đã học tập yêu mến Chúa, trong lòng các em đã chuẩn bị để tiếp nhận Cứu Chúa, thì bạn nên khích lệ để các em nầy quyết định. Còn những em mới nghe đến Tin Lành của Chúa Giê-xu thì chưa nên hối thúc vội.

* “Đức Chúa Trời biết cô, các em và mọi người trên thế gian nầy đều cần một Cứu Chúa, vì tội lỗi của chúng ta đáng chịu hình phạt. Vì yêu thương chúng ta nên Đức Chúa Trời sai Con Ngài đến thế gian để cứu chúng ta. Nhờ Kinh Thánh và các sinh hoạt hằng tuần trong lớp giúp các em mỗi ngày một hiểu biết sâu sắc về tình yêu thương của Đức Chúa Trời hơn”.

* (Mời các em xem hình vẽ cuối cùng). Ma-ri sau khi nghe Tin Lành đã ca ngợi Đức Chúa Trời bằng cách nào? (Ma-ri thuật lại sự vĩ đại của Đức Chúa Trời).

* Sau khi nghe Tin Lành, các em có thể ca ngợi Chúa bằng cách nào?” Cho các em chọn và điền vào chỗ trống trong tập học viên (làm thơ, viết lời cầu nguyện hoặc vẽ một bức tranh – nếu không đủ thời gian, có thể cho các em mang về nhà làm).

* Giáo viên hướng dẫn cầu nguyện kết thúc.

IV. PHỤ LỤC.

* Con rối và sân khấu bằng giấy.

A. CON RỐI GIẤY BÌA: Thiên sứ và Ma-ri.

1. Vật liệu: Giấy bìa trắng, bút chì màu, que kem, băng keo, kéo.

2. Thực hiện: Vẽ phóng to hình mẫu lên giấy rồi tô màu lên. Sau đó, dán que kem lên mặt sau con rối bằng băng keo.

B. SÂN KHẤU RỐI BẰNG GIẤY.

1. Vật liệu: Một cái hộp giấy, hai sợi dây, bút màu, dao, băng keo, kéo.

2. Thực hiện: Úp hộp giấy ngang, dùng mặt bên làm sân khấu, buộc hai sợi dây ở bốn góc, cắt đường khe vừa đủ cắm que kem qua mặt sân khấu (xem hình).

Lật nắp hộp lên, vẽ bối cảnh thích hợp với câu chuyện để làm phông sân khấu (xem hình). Khi sử dụng, đeo hai sợi dây lên vai, để sân khấu trước bụng. Lúc kể chuyện, tuần tự cắm các nhân vật con rối lên sân khấu.

BÀI 11.  LỜI HỨA ĐƯỢC THỰC HIỆN (HV)

I. KINH THÁNH: Lu-ca 1:26 – 56.

II. CÂU GỐC: “Phước cho người đã tin, vì lời Chúa truyền cho sẽ được ứng nghiệm” (Lu-ca 1:45).

III. BÀI TẬP

A. TÔ MÀU

 

Ma-ri! Đừng sợ, vì tôi báo cho cô một tin mừng.

 

Ma-ri đến thăm Ê-li-sa-bét.

B. ĐIỀN VÀO CHỖ TRỐNG.

1. Mở mục lục của Kinh Thánh và điền chữ “Tân” hoặc “Cựu” vào trong ô trống.

Phần thứ nhất của Kinh Thánh gọi là ………..…. ƯỚC

Phần thứ hai của Kinh Thánh gọi là ………… ƯỚC .

– TÂN ƯỚC cho chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời đã giữ đúng lời hứa ban Con Ngài là Chúa GIÊ-XU cho chúng ta.

– CỰU ƯỚC cho chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời hứa ban Chúa Cứu Thế.

2. Bài nầy cho các em biết một ……………..lành và qua đó các em biết …………………………… yêu thương các em vô cùng.

C. EM LÀM GÌ ĐỂ CA NGỢI CHÚA?

*  CA HÁT                 *  VẼ TRANH                        * CẦU NGUYỆN

Chọn một trong ba điều trên rồi viết bài hát, lời cầu nguyện hoặc vẽ tranh vào khoảng trống dưới đây.