Chuyên mục: ẤU NHI

BÀI 3. LỜI HỨA VỀ CHÚA CỨU THẾ THÀNH HIỆN THỰC (GV-HV)

BÀI 3. LỜI HỨA VỀ CHÚA CỨU THẾ THÀNH HIỆN THỰC (GV-HV)

in ẤU NHI, QUÍ III. 2016 on 13 Tháng Bảy, 2018

BÀI 3. LỜI HỨA VỀ CHÚA CỨU THẾ THÀNH HIỆN THỰC (GV)

 I. KINH THÁNH: Ma-thi-ơ 1:18-2:23; Lu-ca 1,2.

II. CÂU GỐC: “Ta cũng sẽ giáng cho mọi sự lành Ta đã hứa” (Giê-rê-mi 32:42b).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Đức Chúa Trời đã thực hiện lời hứa của Ngài, sai Chúa Giê-xu đến thế gian cứu chuộc tội lỗi loài người.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời là Đấng thành tín, Ngài đã hứa thì Ngài sẽ làm thành.

– Hành động: Tin vào lời hứa của Chúa dù phải chờ đợi.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Trò Chuyện Về Lễ Giáng Sinh.

  1. Mục đích: Giúp các em hiểu bài và hứng thú trong học tập.
  2. Chuẩn bị:

– Giấy màu, viết chì màu, keo, kéo, dây rubăng.

– Vẽ những nét thật mờ vào giấy, như bông hoa, cây thông, hộp quà, cây gậy, ngôi sao, trái châu và những gì có thể treo trên cây Nô-ên.

– Những câu hỏi: Lễ giáng sinh là gì? Có những gì trong ngày Lễ Giáng sinh? Em làm gì trong ngày lễ giáng sinh? Em có được nhận quà trong ngày lễ giáng sinh không? Ngày nay có ai không biết về lễ giáng sinh không?

  1. Thực hiện.

Giáo viên đưa ra câu hỏi cho các em trả lời, và giải thích cho các em biết Đức Chúa Trời hứa ban Chúa Giê-xu đến thế gian từ thời Cựu Ước, và Ngài đã thức hiện lời hứa của Ngài.

– Chia mỗi em một bức vẽ để các em cắt dán và trang trí cho đẹp. Hướng dẫn các em cột hay dán dây rubăng trên ngọn cây thông, hộp quà, bông hoa, để treo lên cây Nô-ên.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

  1. Vào đề.

Các em thân mến! Các em còn nhớ Bài học tuần trước Đức Chúa Trời hứa ban gì cho dân Y-sơ-ra-ên không? (Các em trả lời). Bài học hôm nay sẽ cho các em biết lời hứa ấy được thực hiện như thế nào nha.

  1. Bài học.

Các em nhắm mắt lại! Khi nào cô (thầy) đếm 2,3 các em mở mắt ra! (Trong lúc các em nhắm mắt, mời người đóng vai Ma-ri vào, rồi đếm 2,3 cho các em mở mắt ra để trò chuyện với “Ma-ri”).

– Giáo viên: Chào cô Ma-ri.

– Ma-ri: Chào cô giáo, chào các em (vẫy tay). Biết các em muốn nghe lời hứa về sự giáng sinh của Chúa Giê-xu, cô vội vàng đến giúp các em.

– Giáo viên: Thật tốt quá! Cô có thể cho các em biết ai đã nói với cô về lời hứa ấy được không ạ?

– Ma-ri: Được chứ. Đó là thiên sứ của Đức Chúa Trời.

– Giáo viên: Thưa cô, cô có thể kể cho biết cô gặp thiên sứ trong trường hợp nào? Và thiên sứ đã nói gì với cô?

– Ma-ri: Các em biết không, vì yêu mến Đức Chúa Trời, cô thường xuyên đến nơi thờ phượng Chúa để nghe giảng dạy lời Ngài, cầu nguyện và giúp đỡ những người đau ốm. Mọi người đều khen cô là cô gái dễ thương. Vì thế, có một thanh niên trong làng rất yêu mến Chúa, tên là Giô-sép muốn cưới cô làm vợ. Cô rất vui và mong đợi ngày ấy (mỉm cười).

Một ngày nọ, cô đang cầu nguyện với Đức Chúa Trời tại phòng riêng. Đột nhiên, một thiên sứ xuất hiện và phán với cô: “Hỡi người được ơn, mừng cho cô, Chúa ở cùng cô”. Cô ngạc nhiên! Thiên sứ liền nói: “Này Ma-ri, đừng bối rối! Cô sẽ có thai, sinh một trai và đặt tên là Giê-xu. Con trai đó được xưng là Con của Đấng rất cao”.

– Giáo viên: Cô Ma-ri ơi! Lúc đó cô cảm thấy như thế nào?

– Ma-ri: Cô kinh ngạc lắm! Cô chưa kết hôn, sao có thể có thai và sinh con được? Thấy cô lo lắng, thiên sứ liền trấn an: “Đừng sợ! Đức Thánh Linh sẽ đến trên cô và Con thánh được sinh ra sẽ là Con của Đức Chúa Trời”.

– Giáo viên: Vậy, cô có đồng ý với lời hứa đó không? Và cô đã trả lời với thiên sứ thế nào?

– Ma-ri: Lời hứa đó thật diệu kỳ! Tuy bối rối, nhưng cô tin Đức Chúa Trời luôn hứa ban những điều tốt đẹp cho con cái Ngài. Cô liền trả lời: “Con là tôi tớ Chúa, xin điều đó xảy ra theo ý Ngài.

– Giáo viên: Các em ơi, các em có tin Đức Chúa Trời luôn hứa ban những điều tốt đẹp nhất cho các em không? Tại sao? (Cho các em suy nghĩ trả lời).

– Ma-ri: Vì Đức Chúa Trời yêu thương và ban cho các em những điều tốt đẹp nhất, nên các em hãy tin và trông đợi vào lời hứa của Ngài các em nhé! Bây giờ cô còn nhiều việc phải làm, cô đi đây. Chào tạm biệt các em!

– Giáo viên: Cảm ơn cô Ma-ri nhiều lắm! Nào các em cùng đứng lên và nói: Cảm ơn và xin chào cô Ma-ri, chúc cô đi bình an! (Các em cùng đứng lên vẫy tay chào trong khi cô Ma-ri từ từ đi ra).

  1. Ứng dụng:

Các em thân mến! Trong thời Cựu Ước Đức Chúa Trời đã hứa ban Đấng Cứu Thế xuống thế gian, từ đó đến khi thiên sứ báo tin cho Ma-ri nhận lời hứa đó rất là lâu, nhưng Đức Chúa Trời đã hứa thì Ngài sẽ làm thành. Vậy, lời hứa kỳ diệu của Đức Chúa Trời là gì? Ma-ri trả lời như thế nào? (Cho các em tự do trả lời). Ma-ri tin lời hứa của Đức Chúa Trời. Còn các em có tin lời hứa của Ngài trong Kinh Thánh không? Tại sao

* Chuẩn bị.

– Kéo, keo, viết chì màu, viết chì.

* Thực hiện.

– Cho các em tô màu hình vẽ.

BÀI 3.  LỜI HỨA VỀ CHÚA CỨU THẾ THÀNH HIỆN THỰC. (HV)

 I. KINH THÁNH: Ma-thi-ơ 1:18-2:23; Lu-ca 1, 2.

II. CÂU GỐC: “Ta cũng sẽ giáng cho mọi sự lành mà Ta đã hứa ” (Giê-rê-mi 32:42b).

III. BÀI HỌC: Đức Chúa Trời đã thực hiện lời hứa của Ngài, sai Chúa Giê-xu đến thế gian cứu chuộc tội lỗi loài người.

IV. BÀI TẬP: Cho các em tô màu hình vẽ

 

BÀI 2. NGƯỜI DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA CỨU THẾ (GV-HV)

BÀI 2. NGƯỜI DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA CỨU THẾ (GV-HV)

in ẤU NHI, QUÍ III. 2016 on 13 Tháng Bảy, 2018

BÀI 2. NGƯỜI DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA CỨU THẾ (GV)

 I. KINH THÁNH: Lu-ca 1:5-25; 3:1-18.

II. CÂU GỐC: “Ta sai sứ giả Ta, người sẽ dọn đường trước mặt Ta” (Ma-la-chi 3:1a).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Đức Chúa Trời chuẩn bị Giăng Báp-tít là người dọn đường cho Chúa Cứu Thế.

– Cảm nhận: Chúa luôn chuẩn bị mọi sự cho cuộc sống của em.

– Hành động: Em tin Chúa luôn chuẩn bị cuộc sống tốt lành cho em.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Chúa Chuẩn Bị Mọi Sự Cho Cuộc Sống Em.

1. Mục đích: Giúp các em biết Chúa chuẩn bị mọi sự tốt nhất cho cuộc sống các em.

2. Chuẩn bị: Giấy màu, giấy trắng, viết chì màu, viết chì.

3. Thực hiện: Giáo viên cho các em biết Chúa chuẩn bị mọi sự cho cuộc sống của em trước khi em sinh ra (Ngài tạo dựng và ban mọi sự cho con người), vậy em biết những điều đó là gì không? Giáo viên cho các em biết mọi thứ các em có như áo quần, đồ ăn là từ Chúa ban.

Cho các em vẽ ra những gì Chúa đã ban cho mình, ví dụ: áo quần, thức ăn, trái cây…

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

1. Vào đề.

Khi một vị chủ tịch nước đến thăm một nước khác, thì phải gửi một viên chức cao cấp đến trước để thảo luận và chuẩn bị nhiều việc như: Sắp xếp chỗ ở, chuẩn bị lễ đón tiếp, lịch tham quan các nơi… Tóm lại, chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng để đón tiếp vị chủ tịch. Trước khi Chúa Giê-xu đến, Đức Chúa Trời cũng sai một người đến để dọn đường cho Ngài. Các em đoán thử người đó là ai? (Các em trả lời). Bài học hôm nay sẽ cho các em biết ông ta là ai nha!

2. Bài học

Tại thành Giê-ru-sa-lem có một thầy tế lễ tên Xa-cha-ri và vợ là Ê-li-sa-bét rất yêu mến và kính sợ Đức Chúa Trời. Ông bà mong ước có một đứa con, họ cầu khẩn với Chúa.

Một hôm, Xa-cha-ri đi vào đền thờ để cầu nguyện. Bỗng thiên sứ của Chúa hiện ra cùng Xa-cha-ri và nói: “Xa-cha-ri, đừng sợ! Vì lời cầu nguyện của ông đã được Đức Chúa Trời nghe rồi. Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sanh một con trai, ông hãy đặt tên là Giăng”. Xa-cha-ri bối rối nói: “Sao tôi biết được điều đó?” Thiên sứ đáp: “Ngươi xin mà còn nghi ngờ nên sẽ bị câm cho đến lúc Giăng sanh ra”. Xa-cha-ri kể điều đó cho vợ nghe và chờ đợi.

Thời gian sau, Giăng ra đời bà con hàng xóm đến thăm. Theo tục lệ, người ta muốn đặt tên đứa trẻ giống họ cha, nhưng bà Ê-li-sa-bét nói: “Không! Phải đặt tên con là Giăng”. Mọi người ngạc nhiên nói: “Trong vòng bà con đâu có ai có tên đó”.

Họ ra dấu hỏi Xa-cha-ri, ông lấy một tấm bảng nhỏ rồi viết: “Tên nó là Giăng”. Mọi người vô cùng ngạc nhiên. Kinh Thánh cho biết khi Xa-cha-ri vừa viết xong, bỗng nhiên ông nói được. Vui mừng, ông ca ngợi Đức Chúa Trời.

Giăng là người khỏe mạnh, sống trong đồng vắng, cuộc sống của ông rất đơn giản, chỉ ăn châu chấu, cây trái và mật ong rừng, mặc áo bằng da lạc đà.

Giăng Báp-tít đến bờ sông Giô-đanh và tuyên bố với dân chúng: “Tôi là người dọn đường cho Chúa Cứu Thế, Ngài là Chiên Con của Đức Chúa Trời, Đấng đến để cất tội lỗi của thế gian”.

3. Ứng dụng.

Giăng Báp-tít là người dọn đường cho Đấng Christ, ông tuyên bố Chúa Giê-xu là Chiên Con của Đức Chúa Trời, đến để cất tội lỗi của thế gian. Các em muốn tin nhận Chúa Giê-xu để Ngài đem em ra khỏi tội lỗi không?

* Chuẩn bị.

– Kéo, keo, viết chì màu, viết chì.

* Thực hiện.

– Cho các em tô màu hình vẽ.

BÀI 2. NGƯỜI DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA CỨU THẾ (HV)

 I. KINH THÁNH: Lu-ca 1: 5-25; 3:1-18.

II. CÂU GỐC: “Ta sai sứ giả Ta, người sẽ dọn đường trước mặt Ta” (Ma-la-chi 3:1a).

III. BÀI HỌC: Đức Chúa Trời chuẩn Giăng Báp-tít là người dọn đường cho Chúa Cứu Thế.

III. BÀI TẬP: Cho các em tô màu hình vẽ.

 

BÀI 1. LỜI HỨA VỀ CHÚA CỨU THẾ (GV-HV)

BÀI 1. LỜI HỨA VỀ CHÚA CỨU THẾ (GV-HV)

in ẤU NHI, QUÍ III. 2016 on 12 Tháng Bảy, 2018

BÀI 1. LỜI HỨA VỀ CHÚA CỨU THẾ (GV)

 I. KINH THÁNH: Ê-sai 9

II. CÂU GỐC: “Vì có một con trẻ sanh cho chúng ta… Ngài sẽ được xưng là Đấng Lạ lùng, là Đấng Mưu luận, là Đức Chúa Trời Quyền năng, là Cha Đời đời, là Chúa Bình an” (Ê-sai 9:5).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Đức Chúa Trời hứa ban Chúa Giê-xu đến thế gian cứu chuộc tội lỗi loài người.

– Cảm nhận: Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời, Ngài là Chúa Bình An của em.

– Hành động: Tin vào lời hứa của Chúa dù phải chờ đợi.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

1. Mục đích: Giúp các em hiểu Bài và hứng thú trong học tập.

2. Chuẩn bị: Danh xưng (tên) của Chúa Giê-xu.

3. Thực hiện: Cho các em học thuộc các danh xưng của Chúa Giê-xu. Viết các danh xưng của Chúa Giê-xu tấm bìa cứng màu (hình trái tim, trái táo, hình vuông, hình tròn…) để cho các em có thể nhận tên qua màu sắc và hình dáng của hình.

Ví dụ: Hình trái tim tên: Chúa Bình An, hình tròn tên Đấng Mưu Luận…

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

1. Vào đề.

Các em thân mến! Có bao giờ các em được ba mẹ hứa sẽ cho đi du lịch nè, mua cho một một bộ quần áo mới nè, hoặc một con búp bê dễ thương… không? Khi nghe lời hứa của ba mẹ tâm trạng của các em như thế nào? (Cho các em tự do nói lên những lời hứa và tâm trạng của các em). Dân Y-sơ-ra-ên ngày xưa cũng nhận được lời hứa của Đức Chúa Trời về Chúa Cứu Thế. Bài học nầy sẽ cho các em biết dân Y-sơ-ra-ên đã nhận lời hứa như thế nào nha.

2. Bài học.

Ngày xưa dân Y-sơ-ra-ên phạm tội và bị đày đi làm phu tù cho dân ngoại, họ phải làm việc ngoài đồng án và nhiều việc cực nhọc khác nữa. Nên lòng họ lúc nào cũng trông ngóng có một ai đó đến giải cứu họ ra khỏi cảnh tôi mọi (xiềng xích của nô lệ). Đức Chúa Trời dùng điều đó dạy họ rằng, nếu họ ở trong hoàn cảnh làm tôi mọi cho con người mà họ còn cực khổ như vậy thì ở trong cảnh nô lệ của tội lỗi suốt đời (xiềng xích của tội lỗi) còn khốn khổ hơn nhiều, vì tội lỗi sẽ dẫn họ đến sự chết đời đời, nên họ cần được cứu, và Ngài hứa sẽ sai chính Chúa Cứu Thế xuống thế gian để cứu họ ra khỏi xiềng xích của tội lỗi.

Một trong số lời hứa đó từ tiên tri Ê-sai, ông được Đức Chúa Trời cho biết Chúa Cứu Thế thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Các em còn nhớ vua Đa-vít không? (Cho các em trả lời). Đa-vít là vị vua của dân Y-sơ-ra-ên. Tiên tri Ê-sai còn nói trước một loạt tên gọi của Chúa Cứu Thế: “Ngài sẽ được xưng là Đấng Lạ lùng, là Đấng Mưu luận, là Đức Chúa Trời Quyền năng, là Cha Đời đời, là Chúa Bình an”. Những danh xưng này là tên của Chúa Giê-xu. Các em cùng đọc lại các tên của Ngài nha (Cho các em cùng đọc lại).

Từ đó dân Y-sơ-ra-ên luôn luôn chờ đợi Chúa Cứu Thế đến để giải cứu họ. Theo các em điều họ chờ đợi có thật hay không? (Các em trả lời). Muốn biết có hay không các em cùng chờ xem vào tuần sau nha.

3. Ứng dụng.

Các em thân mến! Đức Chúa Trời luôn yêu thương con người trong đó có các em. Nên Ngài đã hứa ban Chúa Giê-xu xuống thế gian để cứa mọi người. Qua đó các em có thấy Chúa của mình là Đấng lạ lùng không? Các em có tin vào lời hứa của Đức Chúa Trời không? (Các em trả lời).

* Chuẩn bị.

– Kéo, keo, viết chì màu, viết chì.

* Thực hiện.

– Cho các em tô màu hình vẽ.

Bài 1. LỜI HỨA VỀ CHÚA CỨU THẾ ( HV)

I. KINH THÁNH: Ê-sai 9

II. CÂU GỐC: “Vì có một con trẻ sanh cho chúng ta… Ngài sẽ được xưng là Đấng Lạ lùng, là Đấng Mưu luận, là Đức Chúa Trời Quyền Năng, là Cha Đời đời, là Chúa Bình An” (Ê-sai 9:11).

III. BÀI HỌC: Đức Chúa Trời hứa ban Chúa Giê-xu đến thế gian cứu chuộc tội lỗi loài người.

1. BÀI TẬP: Cho các em tô màu hình vẽ.

 

 

Bài 12. CHÚA SỐNG LẠI (GV-HV)

Bài 12. CHÚA SỐNG LẠI (GV-HV)

in ẤU NHI, QUÍ II. 2016 on 10 Tháng Bảy, 2018

Bài 12. CHÚA SỐNG LẠI (GV)

 I. KINH THÁNH: Lu-ca 24:1-32.

II. CÂU GỐC: “Đấng cứu chuộc tôi vẫn sống” (Gióp 19:25).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Chúa Giê-xu đã chết, sau đó sống lại và sẽ sống mãi.

   – Cảm nhận: Chúa Giê-xu sống thì Ngài cũng có thể ban sự sống đời đời cho những ai tin Ngài.

  – Hành động: Vui mừng và nói về sự sống lại của Chúa cho bạn bè.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

Cho các em hát và chơi trò chơi, bày tỏ lòng vui mừng.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

  1. Vào bài.

Các em có thấy người chết lần nào chưa? Khi chết thì như thế nào? (Cho các em trả lời). Không còn nhúc nhích, cử động được, không ăn uống, không mở mắt, chạy nhảy, nói năng… gì được, phải không? Các em có thấy người chết sống lại bao giờ chưa? Chắc là chưa. Khó có ai trên đất nầy chết đi mà sống lại được. Nhưng có một người đã sống lại đó các em ạ. Sự sống lại của người nầy thật là cần thiết cho mọi người. Các em có muốn biết người đó là ai không? Các em hãy theo dõi câu chuyện nhé.

  1. Bài học.

Các em biết Chúa Giê-xu đã bị bắt bớ, bị đánh đập, bị đóng đinh trên cây thập tự và Ngài đã chết.

Sau khi chết, Chúa Giê-xu đã được chôn trong ngôi mộ bằng đá. Những người yêu thương Chúa rất buồn. Vì vậy, ngay ngày đầu tiên trong tuần, có mấy người đàn bà đem thuốc thơm đến mộ để xức cho xác của Chúa.

Khi đi đến gần ngôi mộ, họ vô cùng sửng sốt vì thấy cánh cửa mộ to chắc, nặng nề, đã bị ai đẩy qua một bên. (Giáo viên cho các em biết rõ ngôi mộ thời Chúa Giê-xu là đục từ trong một tảng đá lớn, thành như một cái hang, ngoài cửa hang có một tảng đá rất lớn che lại. Khi có người chết, người ta chỉ cần cho xác chết vào bên trong, lăn tảng đá chặn cửa lại). Họ vội đi vào bên trong mộ, nhưng không thấy xác Chúa Giê-xu đâu cả!

“Đã xảy ra chuyện gì?” Họ hỏi lẫn nhau, “Vì sao xác Chúa Giê-xu lại không có ở đây?” Bỗng nhiên có hai vị thiên sứ, mặc áo sáng láng hiện ra. Họ sợ hãi, úp mặt xuống đất, nhưng thiên sứ nói rằng: “Sao các ngươi tìm Giê-xu ở đây làm gì? Ngài đã sống lại rồi như lời Ngài đã phán với các ngươi”. Lúc đó, họ nhớ lại lời Chúa Giê-xu đã từng phán: “Sau ba ngày, Ngài sẽ sống lại”. Họ vui mừng lắm, không còn buồn rầu nữa, nhanh chóng trở về thành Giê-ru-sa-lem, báo cho những người môn đồ khác biết rằng Chúa Giê-xu đã sống lại!” Thế là mọi người vui mừng, loan truyền tin từ người nầy sang người khác, nơi nầy đến nơi kia. Ai nấy đều hân hoan, phấn khởi.

Dù vậy, trong số họ cũng có hai môn đồ không tin lắm. Họ vẫn còn buồn rầu vì việc Chúa Giê-xu đã chết. Họ không biết tiếp tục ở lại Giê-ru-sa-lem để làm gì, nên quyết định trở về quê. Trên đường về, hai người vừa đi vừa trò chuyện mê mãi đến nỗi không biết có người đang đến gần mình. Người lạ (đó là Chúa Giê-xu) hỏi: “Các ông nói chuyện gì cùng nhau vậy?” Họ trả lời: “Chúng tôi đương nói về việc của Chúa Giê-xu. Ông chắc là người ở xa mới đến nên không biết việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày vừa qua?”. Chúa Giê-xu hỏi lại: “Việc gì vậy? Xin các ông kể cho tôi nghe với”. Họ đáp: “Đó là việc Chúa Giê-xu bị bắt, bị đóng đinh trên cây gỗ. Ngài đã chết rồi. Nhưng khi còn sống, Ngài đã báo trước sau ba ngày, Ngài sẽ sống lại”. Chúa Giê-xu hỏi họ: “Thế các ông có tin điều đó không?” Họ bối rối thưa: “Chúng tôi cũng không biết nữa, vì sáng sớm hôm nay có vài người đàn bà đến báo tin là không thấy xác Ngài trong mộ và có thiên sứ hiện ra bảo rằng Ngài đã sống lại rồi”. Từ lúc đó Chúa Giê-xu bắt đầu giảng dạy lời của Đức Chúa Trời cho họ, giúp cho họ hiểu được lời Chúa và tin vào những lời báo trước của Ngài.

Cứ đi cùng nhau như vậy cho đến gần ngôi làng của họ. Họ mời Chúa Giê-xu ở lại cùng dự bữa ăn. Chúa Giê-xu vui vẻ nhận lời. Ngài lấy bánh ra, cầu nguyện, rồi bẻ ra mà đưa cho họ. Hành động nầy của Chúa khiến họ thấy thật là quen thuộc. Họ nhớ đến hình ảnh Chúa Giê-xu trước đây và như chợt tỉnh ra, họ nhận biết chính là Chúa Giê-xu đang ở trước mặt mình. Nhưng lúc đó, Chúa Giê-xu liền biến đi, không ở với họ nữa. Hai môn đồ nầy vui mừng lắm vì chính họ được thấy Chúa, cùng ngồi ăn với Ngài, nghe lời Ngài dạy dỗ… Bây giờ họ không còn buồn bã nữa, vội quay trở lại thành Giê-ru-sa-lem, báo cho mọi người biết rằng, Chúa thật đã sống lại.

  1. Ứng dụng.

Các em có thấy vui mừng khi biết Chúa Giê-xu sống lại và đến bây giờ Ngài vẫn đang sống không? Ngài là Con của Đức Chúa Trời, không có việc gì Ngài không làm được. Chúa cũng sẽ ban sự sống cho những ai tin Ngài. Đó là điều khiến chúng ta vui mừng lắm, phải không các em? Chúa Giê-xu muốn các em tin Ngài là Con Đức Chúa Trời, tin Ngài đã sống lại, đang sống và chắc chắn sẽ trở lại đón chúng ta vào ở với Ngài trong nước thiên đàng.

Bài 12.  CHÚA SỐNG LẠI (HV)

 I. KINH THÁNH: Lu-ca 24:1-32.

II. CÂU GỐC: “Đấng cứu chuộc tôi vẫn sống” (Gióp 19:25).

BÀI 11.  CỠI LỪA VÀO THÀNH (GV-HV)

BÀI 11.  CỠI LỪA VÀO THÀNH (GV-HV)

in ẤU NHI, QUÍ II. 2016 on 9 Tháng Bảy, 2018

 

BÀI 11.  CỠI LỪA VÀO THÀNH (GV)

 I. KINH THÁNH: Ma-thi-ơ 21:1-11, 15-16; Mác 11:1-11; Lu-ca 19:29-40; Giăng 12:12-19.

II. CÂU GỐC: “Hãy ca tụng Đức Chúa Trời ngươi” (Thi 147:12).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Khi Chúa Giê-xu cỡi lừa vào thành cũng có nhiều trẻ em ca hát chúc tụng Ngài, hoan nghênh Ngài.

– Cảm nhận: Hát thánh ca là ca ngợi Đức Chúa Trời.

– Hành động: Dùng bài hát, thơ ca để ca ngợi Đức Chúa Trời bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

Cho các em hát những bài hát đã được tập, với tinh thần tôn vinh ca ngợi Chúa.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

  1. Vào bài.

Các em thân mến, mỗi lần đến lớp Trường Chúa nhật, giáo viên thường dạy các em hát, các em có thích không? Các em có biết ca hát là để làm gì không? Là để ca ngợi Đức Chúa Trời, để làm chúng ta vui vẻ. Chúa rất thích nghe các em hát. Các em biết không, trẻ thơ đã có lần làm cho Chúa Giê-xu cảm thấy thật là vui đó các em. Đó là dịp nào, các em hãy theo dõi câu chuyện để biết nhé.

  1. Bài học.

Một hôm, Chúa Giê-xu cùng các môn đồ đi vào thành Giê-ru-sa-lem. Các em tưởng tượng xem, Chúa Giê-xu đi bằng gì vào trong thành? (Cho các em trả lời). Chúa Giê-xu cỡi một con lừa con. Có em nào thấy con lừa chưa? Đây là hình con lừa (cho các em xem hình). Chúa Giê-xu đã cỡi lừa vào trong thành.

Khi dân chúng trong thành biết Chúa Giê-xu sắp vào thành, họ liền chạy ra đón rước Ngài. Nhiều người cởi áo mình trải ra trên đất để Chúa đi qua, cũng có nhiều người bẻ nhánh cây trải ra trên đường để đón Chúa, hoặc cầm trên tay phất lên để hoan nghênh Chúa. Họ cùng la lớn lên rằng: “Hô-sa-na! Hô-sa-na! (Nghĩa là “Đáng chúc tụng cho Đấng nhân danh Chúa mà đến”). Cả thành đều náo nức, rộn ràng chào đón Chúa Giê-xu.

Các em xem hình vẽ: Ngoài Chúa Giê-xu, các môn đồ và nhiều người lớn, còn có ai nữa? (Để các em trả lời). Đúng rồi, còn có một số trẻ em cũng như các em vậy. Các em rất vui mừng vì được tận mắt nhìn thấy Chúa Giê-xu. Miệng của các em ca hát, chúc tụng Chúa Giê-xu, tay các em cũng cầm nhánh cây hoan nghinh Chúa.

Chúa Giê-xu thấy nhiều người chào đón như vậy, Ngài rất vui và thỏa lòng vì ngay cả những trẻ em cũng ca hát, chúc tụng Ngài rất sốt sắng, hết lòng.

Nhưng lúc ấy, trong lòng Chúa cũng biết rằng chỉ vài ngày nữa thôi, người ta sẽ bắt Ngài, đánh Ngài và đem đóng đinh trên thập tự giá. Nhưng Chúa Giê-xu vì yêu thương các em, yêu thương cô (thầy), yêu thương tất cả mọi người nên Ngài chịu những điều đó để có thể cứu chúng ta khỏi sự hình phạt của tội lỗi và khỏi sự chết.

  1. Ứng dụng.

Các em thân mến, Chúa yêu thương các em như vậy, các em có yêu mến Chúa không? Các em có thích hát ca ngợi Chúa không? Chúa rất thích nghe các em hát ca ngợi Ngài. Vì vậy, các em không chỉ hát khi đến nhà thờ, ở trong lớp Trường Chúa nhật thôi mà còn có thể hát bất cứ nơi đâu, bất cứ khi nào để Chúa vui lòng, các em nhé.

Bài 11. CỠI LỪA VÀO THÀNH (HV)

 I. KINH THÁNH: Ma-thi-ơ 21:1-11, 15-16; Mác 11:1-11; Lu-ca 19:29-40; Giăng 12:12-19.

II. CÂU GỐC: “Hãy ca tụng Đức Chúa Trời ngươi” (Thi 147:12)

 

BÀI 10. DẠY NGƯỜI CẦU NGUYỆN (GV-HV)

BÀI 10. DẠY NGƯỜI CẦU NGUYỆN (GV-HV)

in ẤU NHI, QUÍ II. 2016 on 9 Tháng Bảy, 2018

 

BÀI 10. DẠY NGƯỜI CẦU NGUYỆN (GV)

I. KINH THÁNH: Ma-thi-ơ 6:5-13; Mác 1:35; Giăng 14:12-14; 16:24-27.

I. CÂU GỐC: “Hãy cầu xin đi, các ngươi sẽ được” (Giăng 16:24).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Chúa Giê-xu dạy chúng ta cách cầu nguyện đẹp lòng Đức Chúa Trời.

– Cảm nhận: Chúa rất vui khi nghe lời cầu nguyện của chúng ta, nhất là của trẻ thơ.

– Hành động: Mỗi ngày đều thưa chuyện với Cha trên trời.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

Cho các em xếp thành vòng tròn; cùng hát bài “Cầu nguyện buổi tối”, tiếng hát sẽ nhỏ dần, cuối cùng, giáo viên hướng dẫn các em cầu nguyện theo từng câu.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

  1. Vào bài.

Các em thân mến, các em có biết nói chuyện không nào? Nói chuyện với ba mẹ, anh chị em, thầy cô, bạn bè… Dĩ nhiên là biết rồi, phải không? Ngày nào, các em cũng nói chuyện với những người đó, nhất là với ba mẹ của mình.

Cầu nguyện cũng vậy đó các em. Cầu nguyện là nói chuyện với Cha trên trời. Hôm nay, các em sẽ học biết phải cầu nguyện như thế nào nhé.

  1. Bài học.

Khi Chúa Giê-xu còn ở trên đất nầy, các môn đồ thấy Chúa Giê-xu thường hay đi riêng ra một nơi, có lúc thì sáng sớm, có lúc thì buổi tối, có lúc cả đêm khuya nữa và Ngài cho biết là để cầu nguyện. Các môn đồ không biết cầu nguyện là như thế nào và nói những gì.

Một hôm nọ, ông Phi-e-rơ thưa cùng Chúa Giê-xu: “Thưa thầy, bây giờ trời đã tối lắm rồi mà thầy cũng mệt mỏi, hay là thầy đến nhà con nghỉ lại đêm nay vậy”. Chúa Giê-xu vui vẻ nhận lời mời của ông. Ngài cùng các môn đồ đến nhà Phi-e-rơ để ngủ lại đêm đó.

Sáng sớm hôm sau, khi bên ngoài có tiếng lao xao, mọi người mới thức dậy, nhưng họ không thấy Chúa Giê-xu đâu cả. Họ tiếp tục tìm Chúa và cuối cùng, họ thấy Chúa Giê-xu đang ở một nơi yên tĩnh trên núi. Lúc đó, họ mới biết từ mờ sáng, Ngài đã thức dậy đi tìm nơi cầu nguyện với Cha trên trời.

Đợi khi Ngài cầu nguyện xong, các môn đồ hỏi Chúa: “Thưa thầy, thầy có thể dạy cho chúng con cầu nguyện không?” Chúa Giê-xu vui vẻ đáp: “Được, các con hãy đến đây, Ta sẽ dạy cho các con cầu nguyện”. Các môn đồ liền ngồi xuống chung quanh Chúa Giê-xu. Ngài bảo họ: “Khi các con cầu nguyện, phải nhớ là các con đang nói chuyện với Cha trên trời. Ngài rất thích nghe các con nói chuyện với Ngài. Ngài cũng rất vui lòng giúp đỡ khi các con cầu xin. Vì vậy, các con cứ nói những điều gì trong lòng mong ước”. Ngừng một chút, Chúa Giê-xu tiếp tục: “Khi cầu nguyện, trước hết, các con phải cảm tạ Cha các con ở trên trời. Khi phạm lỗi lầm, hãy cầu xin được tha thứ và xin Ngài giúp các con không sai phạm nữa”.

Kế đó, Chúa Giê-xu dạy họ học thuộc bài cầu nguyện chung mà ngày nay chúng ta và các con cái của Chúa thường hay đọc: “Lạy Cha chúng tôi ở trên trời. Danh Cha được tôn thánh…” (Ma-thi-ơ 6:5-13). Các em có biết bài cầu nguyện nầy không? (Cho các em trả lời).

  1. Ứng dụng.

Các em ơi, cầu nguyện là nói chuyện với Cha ở trên trời. Các môn đồ đã học để biết cầu nguyện như thế nào, còn các em, các em có muốn được cầu nguyện với Ngài không? Mỗi ngày, các em nên cầu nguyện vào lúc vừa thức dậy và mỗi tối trước khi đi ngủ. Ngoài ra, các em còn cầu nguyện cảm tạ Chúa trước mỗi bữa ăn nữa. Cô (thầy) mong rằng kể từ hôm nay, em nào cũng nói chuyện với Cha trên trời mỗi ngày nhé.

Bài 10.  DẠY NGƯỜI CẦU NGUYỆN (HV)

 I. KINH THÁNH: Ma-thi-ơ 6:5-13; Mác 1:35; Giăng 14:12-14; 16:24-27.

II. CÂU GỐC: “Hãy cầu xin đi, các ngươi sẽ được” (Giăng 16:24).

BÀI 9. ĐI BỘ TRÊN MẶT BIỂN ( GV-HV)

BÀI 9. ĐI BỘ TRÊN MẶT BIỂN ( GV-HV)

in ẤU NHI, QUÍ II. 2016 on 6 Tháng Bảy, 2018

 

BÀI 9. ĐI BỘ TRÊN MẶT BIỂN  (HV)

I. KINH THÁNH: Ma-thi-ơ 14:22-33

II. CÂU GỐC: “Chúa Giê-xu liền phán:… Ta đây, đừng sợ” (Ma-thi-ơ 14:27).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Chúa Giê-xu đi bộ trên mặt biển và giúp các môn đồ trong cơn sóng gió.

– Cảm nhận: Có Chúa Giê-xu, lòng luôn được bình yên.

– Hành động: Tin và nhờ cậy nơi Ngài.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

Lấy ghế xếp thành vòng tròn (ít hơn số em chơi 1 ghế), tất cả các em đứng dậy, vừa hát bài “Đừng sợ, hãy tin” vừa đi theo vòng tròn làm động tác như chèo thuyền; khi có lệnh ngừng hát, mỗi em phải giành một ghế ngồi; em nào không có chỗ ngồi, bị để riêng ra chờ phạt, trò chơi lại tiếp tục và cứ mỗi lần như vậy lại bớt đi 1 ghế.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

* Chuẩn bị: Xếp một cái thuyền bằng giấy (hoặc dùng cái thuyền đồ chơi trẻ em), một thau nước nhỏ.

  1. Vào bài.

Các em nhìn xem, cái nầy là gì? (Cho xem chiếc thuyền). Đúng rồi, đây là chiếc thuyền, còn cái nầy? (Chỉ vào thau nước). Đúng, đây là thau nước. Bây giờ chúng ta xem như thau nước nầy là biển nhé. Các em chú ý xem, khi nước yên lặng thì chiếc thuyền trôi đi bình thường, nhưng nếu có gió mạnh (dùng miệng thổi mạnh lên mặt nước, dùng tay làm cho nước xao động mạnh), sóng lớn, các em thấy chiếc thuyền thế nào? Chiếc thuyền như muốn lật úp lại. Hôm nay, cô và các em sẽ cùng nghe qua câu chuyện Kinh thánh kể về các môn đồ của Chúa Giê-xu khi đang ở trên thuyền. Điều gì sẽ đến với họ và họ sẽ như thế nào, các em lắng nghe để biết nhé.

  1. Bài học.

Một lần nọ, Chúa Giê-xu bảo các môn đồ chèo thuyền đi trước qua bờ biển bên kia, còn Ngài ở lại, đi lên núi để cầu nguyện.

Các môn đồ vâng lời Chúa, chèo thuyền đi được một lúc xa, trời càng lúc càng tối dần. Họ vừa đi vừa trò chuyện vui vẻ. Bỗng nhiên, gió từ đâu thổi đến ào ào, làm cho nước đánh mạnh vào hông thuyền. Chiếc thuyền chao nghiêng, nước tràn vào và những đợt sóng to cứ dồn dập kéo đến, khiến họ quá sợ hãi. Lúc ấy, các môn đồ nhớ đến Chúa Giê-xu, nhớ đến những phép lạ Ngài làm và họ kêu to lên: “Chúa Giê-xu ơi, xin Ngài đến cứu chúng con. Chúng con sắp chết rồi!” Họ lo lắng, sợ hãi lắm khi chung quanh trời tối mịt mà sóng gió vẫn chưa yên. Giữa lúc đó, bỗng họ thấy bóng ai lướt đi trên mặt biển, càng lúc càng đến gần họ. Hình ảnh kỳ lạ ấy càng khiến họ sợ hãi thêm. Họ la lớn: “Ôi, ma, ma, anh em ơi!” Nhưng khi vừa la lên như vậy, thì một giọng nói quen thuộc, nhỏ nhẹ cất lên: “Ta đây, các con đừng sợ!” Các em có đoán ra được là giọng nói của ai không? (Cho các em trả lời). À, đúng rồi, đó là giọng nói của Chúa Giê-xu. Các môn đồ mừng không các em? Có lẽ ban đầu họ còn nghi ngờ, nhưng khi đã biết chắc là Chúa Giê-xu rồi thì mừng lắm. Ngài biết họ đang gặp nguy hiểm, đang lo lắng, sợ hãi, nên vội đến để cứu giúp họ đúng lúc.

Các môn đồ mừng đón Chúa Giê-xu lên thuyền. Khi đó, Chúa cũng làm cho sóng gió ngừng, mặt biển trở nên yên lặng như trước. Các môn đồ quỳ lạy Chúa và nói: “Ngài thật là Con của Đức Chúa Trời vì Ngài đã làm những điều lạ lùng!”

  1. Ứng dụng.

Các em ơi, có lúc nào các em sợ hãi chưa? Ví dụ như ở trong bóng tối một mình, đi lạc hay gặp thú dữ… Khi đó, các em làm gì? (Cho các em trả lời – giáo viên nhắc lại những cách giải quyết của các em và hướng dẫn thêm). Các em có khi nào cầu nguyện với Chúa Giê-xu trong những lúc đó không? Các em nên nhớ Chúa Giê-xu của chúng ta là Con của Đức Chúa Trời. Ngài có quyền năng làm được mọi sự. Các em kêu cầu với Chúa, Ngài sẽ giúp đỡ, bảo vệ, vì Ngài rất yêu thương các em.

Bài 9. ĐI BỘ TRÊN MẶT BIỂN (HV)

I. KINH THÁNH: Ma-thi-ơ 14:22-33.

II. CÂU GỐC: “Chúa Giê-xu liền phán:… Ta đây, đừng sợ” (Ma-thi-ơ 14:27).

BÀI 8.  NĂM CÁI BÁNH VÀ HAI CON CÁ ( GV-HV)

BÀI 8.  NĂM CÁI BÁNH VÀ HAI CON CÁ ( GV-HV)

in ẤU NHI, QUÍ II. 2016 on 6 Tháng Bảy, 2018

 

BÀI 8.  NĂM CÁI BÁNH VÀ HAI CON CÁ  (GV)

I. KINH THÁNH: Ma-thi-ơ 14:13-21; Mác 6:30-44; Giăng 6:1-14

II. CÂU GỐC: “Chúa Giê-xu… phán rằng: Ta thương xót đoàn dân nầy” (Ma-thi-ơ 15:32).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Ngài đã dùng phần ăn nhỏ của cậu bé hóa ra nhiều cho 5000 người ăn.

– Cảm nhận: Chúa là Đấng yêu thương, chăm lo cho mọi người.

– Hành động: Noi gương Chúa Giê-xu, giúp đỡ người thiếu thốn.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

Chia các em ngồi thành hai nhóm bằng nhau. Mỗi nhóm cử ra một em. Hai em đại diện cho hai nhóm sẽ nhận chỉ thị của giáo viên (ví dụ: “Cần 2 đôi dép”, “cần 3 cuốn vở”…), lập tức trở về nhóm mình, tìm và đem lên nộp ngay. Nhóm nào nộp đầy đủ và nhanh nhất là thắng.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

  1. Vào bài.

Các em nhìn xem hình vẽ trong bài học: Người nầy là ai? (Chỉ vào Chúa Giê-xu, để các em trả lời). Đúng, người nầy là Chúa Giê-xu. Trên tay Ngài cầm gì? Đúng rồi, trên tay Chúa Giê-xu cầm bánh và cá.

Các em nghĩ xem, người đứng trước mặt Chúa Giê-xu tay cầm giỏ là ai? Họ là môn đồ của Chúa Giê-xu.

Các em có thấy không? Còn có rất nhiều người ngồi trên cỏ. Họ là những người đến từ nhiều nơi để nghe Chúa giảng dạy. Trong đó có một số người mong muốn được Chúa Giê-xu chữa bệnh cho họ.

Chúa Giê-xu đã làm phép lạ mà con người không thể làm được trong lần nầy. Đó là phép lạ gì? Các em nghe câu chuyện sẽ rõ nhé.

  1. Bài học.

Một ngày nọ, trời rất đẹp, Chúa Giê-xu cùng các môn đồ qua bên kia bờ biển Ga-li-lê và đi lên trên núi cao. Lúc đó cũng có nhiều người đi theo Ngài. Trong số họ có đàn ông, đàn bà, trẻ con, người khỏe, người đau yếu, tàn tật… Họ đến để nghe Ngài giảng đạo và cũng mong được chữa lành bệnh. Chúa Giê-xu dùng lời của Ngài dạy dỗ họ vì Ngài rất yêu thương họ.

Đoàn dân ngồi nghe say sưa đến nỗi không thấy rằng trời đã dần tối rồi. Các môn đồ đến thưa cùng Chúa Giê-xu rằng: “Xin Ngài cho dân chúng ra về vì trời đã tối rồi! Họ chưa ăn gì cả, mà đường về thì xa lắm”. Chúa Giê-xu nói: “Các ngươi phải cho họ ăn!” Họ băn khoăn: “Làm sao chúng tôi có thể tìm đủ thức ăn cho họ tại nơi nầy?” Chúa Giê-xu nhìn họ và mềm mại nói: “Các ngươi cứ thử tìm xem có được bao nhiêu thức ăn?” Môn đồ không còn biết làm gì khác hơn là vâng theo lời Chúa Giê-xu. Họ tìm hỏi hết dân chúng đang ngồi đó, chỉ có được năm cái bánh và hai con cá do một cậu bé dâng lên. Nhưng chỉ bấy nhiêu thức ăn thì làm gì đủ với cả một đoàn dân đông như vậy? Trong lòng các môn đồ thấy bối rối, lo lắng. Chúa Giê-xu hiểu họ, nên phán: “Các ngươi cho dân chúng ngồi từng hàng năm chục hoặc một trăm người”. Nầy các em, Chúa Giê-xu rất thích chúng ta có trật tự và nề nếp. Môn đồ làm theo lời dặn, và xem Chúa Giê-xu giải quyết

khó khăn nầy bằng cách nào. Mọi người thấy Chúa Giê-xu cầm năm cái bánh và hai con cá ngước mắt lên trời, cầu nguyện tạ ơn Đức Chúa Trời và bẻ ra, trao cho môn đồ chia cho đoàn dân. Rất kỳ lạ, cho dù dân chúng cần bao nhiêu, cũng có thể ăn tùy ý, mà bánh và cá vẫn không hết. Thật là kỳ diệu, phải không các em, bởi vì Chúa Giê-xu là Con của Đức Chúa Trời, cho nên Ngài đã làm được như vậy.

Mọi người đều ăn no, Chúa Giê-xu bảo các môn đồ: “Hãy lượm những miếng còn thừa, hầu cho không mất chút nào!” Họ lượm bánh thừa mà đầy đến mười hai giỏ đó các em ạ.

  1. Ứng dụng.

Các em biết không, thức ăn thừa mà còn đựng được mười hai giỏ! Chỉ có Con của Đức Chúa Trời mới làm được điều lạ lùng như vậy mà thôi.

Chúa Giê-xu yêu thương đoàn dân. Ngài biết họ sẽ bị đói nếu ra về trong lúc đó, nên Ngài đã giúp cho họ ăn no nê trước khi trở về nhà. Chúng ta cũng phải noi theo gương Chúa Giê-xu, thấy người nghèo khổ, thiếu thốn… thì cũng nên giúp họ. Các em còn nhỏ các em có thể cho họ ít tiền, hoặc cho họ thức ăn, quần áo cũ… Đó là việc bày tỏ lòng yêu thương người khác. Chúa rất vui và cha mẹ các em cũng rất vui khi thấy các em biết giúp người khác như vậy.

Bài 8.  NĂM CÁI BÁNH VÀ HAI CON CÁ (HV)

 I. KINH THÁNH: Ma-thi-ơ 14:13-21; Mác 6:30-44; Giăng 6:1-14.

I. CÂU GỐC: “Chúa Giê-xu… phán rằng: Ta thương xót đoàn dân nầy” (Ma-thi-ơ 15:32).

 

BÀI 7. CON TRAI CỦA QUAN THỊ VỆ (GV-HV)

BÀI 7. CON TRAI CỦA QUAN THỊ VỆ (GV-HV)

in ẤU NHI, QUÍ II. 2016 on 5 Tháng Bảy, 2018

 

BÀI 7. CON TRAI CỦA QUAN THỊ VỆ (GV)

I. KINH THÁNH: Giăng 4:46-53.

II. CÂU GỐC: “Đức Chúa Giê-xu phán rằng: Hãy đi, con của ngươi sống” (Giăng 4:50).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Chúa Giê-xu có quyền năng giúp con trai của quan thị vệ khỏi chết.

– Cảm nhận: Không có điều gì mà Chúa Giê-xu không làm được.

– Hành động: Tin và nhờ cậy Chúa trong mọi sự.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

Cho các em đóng vai bác sĩ, bệnh nhân. Qua đó nhắc nhở các em khi bệnh, không chỉ xin bác sĩ chữa bệnh mà còn phải không ngừng cầu nguyện, xin Chúa Giê-xu chữa lành cho mình.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

  1. Vào bài.

Các em ơi, có lần nào các em bị bệnh chưa? (Cho các em trả lời. Có nhiều loại bệnh, ví dụ: Những loại bệnh nhẹ như ho, sốt, sổ mũi, giun sán… những loại bệnh nặng như phổi, ruột thừa, đau gan…

Bệnh nhẹ có thể mau được lành, còn bệnh nặng có nhiều lúc nguy hiểm đến tính mạng. Cô tin rằng các em đều nhớ, khi các em bị bệnh, chắc là không vui đâu, phải không? Mẹ bắt các em phải nằm nghỉ trên giường, không được chạy nhảy, không được ăn kẹo, kem hay nhiều thức ăn ngon khác, mà còn phải uống thuốc đúng giờ nữa. Như vậy có em nào thích bị bệnh không? Chắc là không em nào muốn đâu, phải không? Bây giờ cô (thầy) muốn biết các em khi bị bệnh thì như thế nào? (Cho các em phát biểu, nếu giáo viên thấy các em ngại, thì gợi ý cho các em nói chứ đừng trả lời thay, giúp các em tập suy nghĩ và nói lên những suy nghĩ của mình). Câu chuyện hôm nay nói về một cậu bé bị bệnh rất nặng và điều gì sẽ đến với cậu đây? Các em hãy lắng nghe nhé.

  1. Bài học.

Ngày xưa, ở thành Ca-bê-na-um có một ông quan thị vệ (một quan lớn) có một cậu con trai. Ông rất yêu thương người con nầy. Nhưng ông quan thị vệ đang rất lo lắng và buồn vì con trai ông bị bệnh rất nặng và sắp chết. Ông bà rất nôn nóng, tìm thầy thuốc khắp nơi, nhưng cũng không làm cho con mình được hết bệnh.

Một hôm, trên đường đi, ông nghe có hai người Giu-đa nói chuyện. “Nầy bạn, bạn có nghe tin Chúa Giê-xu từ xứ Giu-đê đến Ga-li-lê không?” Người kia hỏi lại: “Chúa Giê-xu là ai? Ngài đến Ga-li-lê để làm gì?”À, bạn không biết Chúa Giê-xu sao? Ngài là Đấng từ Đức Chúa Trời sai đến. Có người tin Ngài là Con Đức Chúa Trời. Ngài đã làm nhiều phép lạ ở các nơi. Nếu bạn muốn gặp thì hãy đi theo tôi”. Người kia vội hỏi: “Phép lạ ra sao, kể cho tôi nghe với”. “Bạn không biết gì sao? Được rồi, để tôi kể cho bạn nghe. Ngài đã biến nước thành rượu, đã chữa lành người mù từ thuở sanh ra…” Quan thị vệ nghe vậy, dường như thấy được ánh sáng chiếu ra trong đêm tối. Lòng ông vui không tả nổi, còn hơn là được nhiều vàng bạc châu báu. Ông lập tức chạy về nhà và nói với vợ: “Bây giờ tôi phải  đi gấp đến Ga-li-lê để tìm Chúa Giê-xu. Tôi tin rằng Ngài sẽ chữa lành bệnh cho con của chúng ta”. Nói xong, ông nhanh chóng ra đi.

Từ nơi ông ở phải đi rất xa mới có thể tìm gặp được Chúa. Khi gặp được rồi, thì ông cầu xin Chúa: “Thưa Chúa, con tôi bị bệnh sắp chết rồi. Xin Ngài chữa giùm cho con tôi”. Chúa Giê-xu nhìn người rồi nói: “Hãy đi, con của ngươi sống”.

Quan thị vệ Ca-bê-na-um nghe vậy thì vui lắm và tin lời của Chúa Giê-xu, không chút nghi ngờ, dù chẳng thấy Ngài làm gì cả ngoài một câu nói mà thôi. Lòng tin của ông nơi Chúa thật mạnh mẽ, phải không các em? Chúa Giê-xu cũng ngạc nhiên và khen ông khi thấy lòng tin của ông như vậy.

Ông liền quay trở về nhà. Trên đường về, người đầy tớ của ông chạy đến báo: “Ông chủ, con trai của ông lành bệnh rồi!” Ông mừng rỡ nói: “Chính Chúa Giê-xu chữa lành cho con tôi. Ngài làm cho nó được sống. Cảm tạ Ngài!” “Ba ơi cho con biết Chúa Giê-xu là ai?” Con trai của ông hỏi. “Ngài là Đấng mà Đức Chúa Trời sai đến. Ngài là Con của Đức Chúa Trời. Ngài đã làm nhiều phép lạ. Hôm nay, Ngài đã làm phép lạ cho gia đình chúng ta, làm sao mà chúng ta không tin Ngài”. Ông nói với lòng vui mừng, đầy sự cảm tạ Chúa.

  1. Ứng dụng.

Các em ơi, các em đừng quên Chúa Giê-xu là Con của Đức Chúa Trời. Ngài có thể khiến người chết được sống.

Khi các em bị bệnh, các em nên cầu xin Chúa chữa bệnh cho. Phải nhớ là trong mọi sự, phải nhờ cậy Chúa, bởi vì Chúa là Đấng yêu thương, lo lắng, chăm sóc cho em.

Bài 7.  CON TRAI CỦA QUAN THỊ VỆ (HV)

 I. KINH THÁNH: Giăng 4:46-53

I. CÂU GỐC: “Đức Chúa Giê-xu phán rằng: Hãy đi, con của ngươi sống” (Giăng 4:50).

 

 

BÀI 6. NGƯỜI MÙ ĐƯỢC GẶP CHÚA (GV-HV)

BÀI 6. NGƯỜI MÙ ĐƯỢC GẶP CHÚA (GV-HV)

in ẤU NHI, QUÍ II. 2016 on 4 Tháng Bảy, 2018

 

BÀI 6.  NGƯỜI MÙ ĐƯỢC GẶP CHÚA  (GV)

 I. KINH THÁNH: Giăng 9:1-41.

II. CÂU GỐC: “Chúa Giê-xu đã… mở mắt cho người đó” (Giăng 9:14).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Chúa Giê-xu chữa lành cho người bị mù từ thuở mới sinh.

 – Cảm nhận: Không khinh thường những người bị tàn tật nhưng tìm cách giúp đỡ họ.

 – Hành động: Cảm tạ Chúa vì đã cho em có đôi mắt sáng, đẹp.

VI. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

Mời một em ra ngồi trên ghế trong vòng tròn, lấy khăn che mắt lại, sau đó, mời một em khác ra nói một câu, để em bị che mắt đoán xem bạn nầy là ai; nếu nói đúng, em bị bịt mắt sẽ về chỗ, em kia thay thế. Cứ vậy, trò chơi lại tiếp tục.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

  1. Vào bài.

Một hôm mẹ thấy Mai dùng tay dụi mắt và nói: “Mẹ ơi, mẹ ơi! Mắt con đau lắm!” Mẹ liền bảo: “Con đừng lấy tay dụi vào mắt như vậy, sẽ làm đau mắt thêm đấy. Con nói cho mẹ biết, có phải là cát hay bụi đã vào mắt con không?” Mai vẫn còn thấy khó chịu trong mắt, nên khóc: “Mẹ ơi, lúc nãy con đến vườn hoa chơi cát, có lẽ cát đã vô mắt. Mẹ ơi, đau lắm, con phải làm thế nào đây?” “Con đừng bối rối, hãy nháy mắt lên, xuống. Sau đó, nhắm mắt lại, hạt cát sẽ ra theo nước mắt, con ạ”.

Các em có khi nào bị rơi cái gì vào mắt chưa? Khó chịu lắm, phải không? (Dừng lại một lúc cho các em trả lời). Người bị mù còn khó chịu hơn thế gấp nhiều lần. Hôm nay, chúng ta sẽ nghe câu chuyện về một người bị mù từ thuở mới sinh.

  1. Bài học.

Kinh Thánh cho chúng ta biết có một người kia bị mù từ lúc mới sinh ra. Như vậy, người nầy chưa hề nhìn thấy một điều gì cả. Đối với người, chỉ có một màu đen thôi. Bây giờ các em thử nhắm mắt lại nhé (cho các em nhắm mắt khoảng vài giây). Các em có thấy gì không? Nếu phải nhắm hoài như vậy các em có thấy khó chịu không? Người mù nầy chỉ thấy một màu tối tăm như vậy từ khi được sinh ra. Mỗi ngày, người phải ngồi bên lề đường để ăn xin.

Một hôm, khi đang ngồi ngoài đường để xin ăn, ông nghe thấy tiếng bước chân nhiều người đi tới, tiếng nói lao xao, mỗi lúc một gần hơn. Bỗng ông nghe có tiếng bước chân của một người đến gần mình. Người nầy không nói gì, chỉ dùng một chất vừa ướt vừa dẻo sệt, bôi vào mắt ông. Ông ngạc nhiên và định hỏi là ai và đang làm gì thì nghe tiếng người đó nói: “Ngươi hãy đến ao Si-lô-ê và rửa sạch đi!” Ông không biết người nầy là ai, nhưng ông vâng lời ngay. Đến ao Si-lô-ê, ông lấy nước rửa mắt (sau nầy ông mới biết đó là chất bùn đã được đắp lên mắt mình). Các em biết không, ông vui mừng không thể tả được, bởi vì một việc lạ lùng đã xảy ra! Mắt ông đã nhìn thấy được! Bây giờ ông mới biết cảnh vật chung quanh mình đẹp biết bao! Bầu trời trong xanh, bông hoa rực rỡ sắc màu, người ta thì lớn nhỏ, đẹp xấu, trắng đen, cao thấp… đủ hết! Các em phải cảm ơn Chúa vì các em có cặp mắt sáng, thấy được mọi sự. “Tôi thấy được rồi! Tôi thấy được rồi!” Người mù la lớn lên và chạy một mạch về nhà.

Nhiều người thấy ông, thì liền hỏi: “Có phải anh chính là người bị mù, mỗi ngày ngồi bên lề đường ăn xin đó không?” “Phải, chính là tôi đây. Tôi chính là người mù từ thuở mới sinh và ăn xin mỗi ngày bên lề đường đây”, người trả lời. “Sao lại có việc như vậy? Anh mau nói cho chúng tôi biết ai đã chữa lành đôi mắt của anh”. “Tôi không biết người đó là ai, nhưng người đã lấy bùn xức lên mắt tôi và bảo tôi đi rửa ở ao Si-lô-ê. Tôi làm y theo lời thì được sáng mắt”. Mọi người lấy làm lạ khi nghe người nầy kể.

Nhiều ngày sau, người nầy gặp Chúa Giê-xu mới biết Ngài chính là Đấng đã chữa lành cho mình. Ông biết ơn và cảm tạ Chúa. Ông nhận biết Chúa Giê-xu là Con của Đức Chúa Trời và tin Ngài, sấp mình xuống trước mặt Chúa mà thờ lạy. Từ đó, ông nói việc lạ lùng Chúa đã làm cho nhiều người khác biết.

  1. Ứng dụng.

Các em ạ, mỗi người trong chúng ta phải cảm tạ Chúa vì đã cho chúng ta có đôi mắt sáng, nhìn thấy mọi sự. Chúng ta cũng noi gương Chúa Giê-xu, không khinh thường những người bị bịnh tật, nghèo nàn… nhưng sẵn lòng giúp đỡ họ khi họ cần đến, các em nhé.

Bài 6. NGƯỜI MÙ ĐƯỢC GẶP CHÚA (HV)

I. KINH THÁNH: Giăng 9:1-41

II. CÂU GỐC: “Chúa Giê-xu đã… mở mắt cho người đó” (Giăng 9:14).