Tác giả: andynguyen

BÀI 8.  NĂM CÁI BÁNH VÀ HAI CON CÁ ( GV-HV)

BÀI 8.  NĂM CÁI BÁNH VÀ HAI CON CÁ ( GV-HV)

in ẤU NHI, QUÍ II. 2016 on 6 Tháng Bảy, 2018

 

BÀI 8.  NĂM CÁI BÁNH VÀ HAI CON CÁ  (GV)

I. KINH THÁNH: Ma-thi-ơ 14:13-21; Mác 6:30-44; Giăng 6:1-14

II. CÂU GỐC: “Chúa Giê-xu… phán rằng: Ta thương xót đoàn dân nầy” (Ma-thi-ơ 15:32).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Ngài đã dùng phần ăn nhỏ của cậu bé hóa ra nhiều cho 5000 người ăn.

– Cảm nhận: Chúa là Đấng yêu thương, chăm lo cho mọi người.

– Hành động: Noi gương Chúa Giê-xu, giúp đỡ người thiếu thốn.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

Chia các em ngồi thành hai nhóm bằng nhau. Mỗi nhóm cử ra một em. Hai em đại diện cho hai nhóm sẽ nhận chỉ thị của giáo viên (ví dụ: “Cần 2 đôi dép”, “cần 3 cuốn vở”…), lập tức trở về nhóm mình, tìm và đem lên nộp ngay. Nhóm nào nộp đầy đủ và nhanh nhất là thắng.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

  1. Vào bài.

Các em nhìn xem hình vẽ trong bài học: Người nầy là ai? (Chỉ vào Chúa Giê-xu, để các em trả lời). Đúng, người nầy là Chúa Giê-xu. Trên tay Ngài cầm gì? Đúng rồi, trên tay Chúa Giê-xu cầm bánh và cá.

Các em nghĩ xem, người đứng trước mặt Chúa Giê-xu tay cầm giỏ là ai? Họ là môn đồ của Chúa Giê-xu.

Các em có thấy không? Còn có rất nhiều người ngồi trên cỏ. Họ là những người đến từ nhiều nơi để nghe Chúa giảng dạy. Trong đó có một số người mong muốn được Chúa Giê-xu chữa bệnh cho họ.

Chúa Giê-xu đã làm phép lạ mà con người không thể làm được trong lần nầy. Đó là phép lạ gì? Các em nghe câu chuyện sẽ rõ nhé.

  1. Bài học.

Một ngày nọ, trời rất đẹp, Chúa Giê-xu cùng các môn đồ qua bên kia bờ biển Ga-li-lê và đi lên trên núi cao. Lúc đó cũng có nhiều người đi theo Ngài. Trong số họ có đàn ông, đàn bà, trẻ con, người khỏe, người đau yếu, tàn tật… Họ đến để nghe Ngài giảng đạo và cũng mong được chữa lành bệnh. Chúa Giê-xu dùng lời của Ngài dạy dỗ họ vì Ngài rất yêu thương họ.

Đoàn dân ngồi nghe say sưa đến nỗi không thấy rằng trời đã dần tối rồi. Các môn đồ đến thưa cùng Chúa Giê-xu rằng: “Xin Ngài cho dân chúng ra về vì trời đã tối rồi! Họ chưa ăn gì cả, mà đường về thì xa lắm”. Chúa Giê-xu nói: “Các ngươi phải cho họ ăn!” Họ băn khoăn: “Làm sao chúng tôi có thể tìm đủ thức ăn cho họ tại nơi nầy?” Chúa Giê-xu nhìn họ và mềm mại nói: “Các ngươi cứ thử tìm xem có được bao nhiêu thức ăn?” Môn đồ không còn biết làm gì khác hơn là vâng theo lời Chúa Giê-xu. Họ tìm hỏi hết dân chúng đang ngồi đó, chỉ có được năm cái bánh và hai con cá do một cậu bé dâng lên. Nhưng chỉ bấy nhiêu thức ăn thì làm gì đủ với cả một đoàn dân đông như vậy? Trong lòng các môn đồ thấy bối rối, lo lắng. Chúa Giê-xu hiểu họ, nên phán: “Các ngươi cho dân chúng ngồi từng hàng năm chục hoặc một trăm người”. Nầy các em, Chúa Giê-xu rất thích chúng ta có trật tự và nề nếp. Môn đồ làm theo lời dặn, và xem Chúa Giê-xu giải quyết

khó khăn nầy bằng cách nào. Mọi người thấy Chúa Giê-xu cầm năm cái bánh và hai con cá ngước mắt lên trời, cầu nguyện tạ ơn Đức Chúa Trời và bẻ ra, trao cho môn đồ chia cho đoàn dân. Rất kỳ lạ, cho dù dân chúng cần bao nhiêu, cũng có thể ăn tùy ý, mà bánh và cá vẫn không hết. Thật là kỳ diệu, phải không các em, bởi vì Chúa Giê-xu là Con của Đức Chúa Trời, cho nên Ngài đã làm được như vậy.

Mọi người đều ăn no, Chúa Giê-xu bảo các môn đồ: “Hãy lượm những miếng còn thừa, hầu cho không mất chút nào!” Họ lượm bánh thừa mà đầy đến mười hai giỏ đó các em ạ.

  1. Ứng dụng.

Các em biết không, thức ăn thừa mà còn đựng được mười hai giỏ! Chỉ có Con của Đức Chúa Trời mới làm được điều lạ lùng như vậy mà thôi.

Chúa Giê-xu yêu thương đoàn dân. Ngài biết họ sẽ bị đói nếu ra về trong lúc đó, nên Ngài đã giúp cho họ ăn no nê trước khi trở về nhà. Chúng ta cũng phải noi theo gương Chúa Giê-xu, thấy người nghèo khổ, thiếu thốn… thì cũng nên giúp họ. Các em còn nhỏ các em có thể cho họ ít tiền, hoặc cho họ thức ăn, quần áo cũ… Đó là việc bày tỏ lòng yêu thương người khác. Chúa rất vui và cha mẹ các em cũng rất vui khi thấy các em biết giúp người khác như vậy.

Bài 8.  NĂM CÁI BÁNH VÀ HAI CON CÁ (HV)

 I. KINH THÁNH: Ma-thi-ơ 14:13-21; Mác 6:30-44; Giăng 6:1-14.

I. CÂU GỐC: “Chúa Giê-xu… phán rằng: Ta thương xót đoàn dân nầy” (Ma-thi-ơ 15:32).

 

BÀI 7. CÓ THỂ TRỞ VỀ ĐƯỢC KHÔNG? (GV-HV)

BÀI 7. CÓ THỂ TRỞ VỀ ĐƯỢC KHÔNG? (GV-HV)

in QUÍ II. 2016, THIẾU NHI on 5 Tháng Bảy, 2018

 

BÀI 7. CÓ THỂ TRỞ VỀ ĐƯỢC KHÔNG? (GV)

I. KINH THÁNH: Sáng 30 đến 33:1-16.

II. CÂU GỐC: “Hãy ở với nhau cách nhân từ, đầy dẫy lòng thương xót, tha thứ nhau như Đức Chúa Trời đã tha thứ anh em trong Đấng Christ vậy” (Ê-phê-sô 4:32).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Đã đến lúc Gia-cốp trở về nhà, làm hòa với anh mình sau 20 năm xa cách.

– Cảm nhận: Biết tha thứ và làm hòa với người khác, sẽ được Đức Chúa Trời nhậm lời cầu xin.

– Hành động: Có tinh thần làm hòa và sẵn sàng tha thứ.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY

A. CHUẨN BỊ.

1. Một vài câu hỏi để ôn lại bài trước. Tại sao Gia-cốp phải chạy trốn khỏi nhà? Tâm trạng của ông lúc ra đi như thế nào? Dọc đường, ông thấy gì?…

2. Giấy màu, kéo, hồ… để làm thủ công.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

  1. Vào đề.

(Ôn qua bài học trước).

Gia-cốp rời khỏi nhà ra đi là để trốn Ê-sau. Sau khi Gia-cốp nằm chiêm bao gặp Đức Chúa Trời, thì ông biết rằng con đường phía trước có Đức Chúa Trời gìn giữ, và Ngài hứa ở cùng ông. Đức Chúa Trời thực hiện lời hứa, nên Gia-cốp bình an đi tới Cha-ran.

  1. Bài học.

Trước khi Gia-cốp ra đi, mẹ chàng có hứa rằng hễ khi nào thấy Ê-sau hết giận, thì cho Gia-cốp biết để trở về nhà. Nhưng ngày qua ngày, Gia-cốp không nhận được tin tức gì từ gia đình cả. Tại Cha-ran, Gia-cốp làm thuê cho cậu mình. Sau đó cưới hai cô con gái của cậu, và sanh con. Đức Chúa Trời ban phước cho Gia-cốp khiến ông trở nên giàu có. Trong những năm ở với cậu, tài sản của Gia-cốp tăng dần. Ông có nhiều chiên bò, lạc đà, lừa và đầy tớ, vì thế có nhiều người ganh tị và ghét Gia-cốp.

(1) Gia-cốp trở về nhà cha.

Gia-cốp xa quê hương đã hai mươi năm rồi. Một hôm, các con trai của cậu bày tỏ thái độ ghen ghét và tức giận. Chính lúc nầy, Đức Chúa Trời phán dặn Gia-cốp trở về nhà cha ở Ca-na-an. Về nhà cha tức là phải gặp Ê-sau. Nhưng Ê-sau chưa hết giận và chưa tha thứ cho ông, thì làm sao đây? Tâm trạng của Gia-cốp khi nghe Chúa phán, vừa vui mừng vừa lo sợ. Vui mừng vì được rời khỏi nơi đây, nơi mà Gia-cốp bị cậu lường gạt để bóc lột sức lao động, lo sợ vì phải đối đầu với Ê-sau. Nhưng Đức Chúa Trời hứa sẽ ở cùng, giúp đỡ, nên Gia-cốp cũng vững lòng.

Gia-cốp quyết định trở về quê hương. Ông đem chuyện nầy ra bàn với hai vợ mình là Lê-a và Ra-chên, thì hai bà nói rằng: “Chàng hãy làm theo mọi lời Đức Chúa Trời đã phán dạy” (Sáng 31:16b).

Thế là Gia-cốp âm thầm gói ghém tất cả tài sản mình, cùng vợ con lên đường đi về xứ Ca-na-an, trong khi La-ban cậu mình không có ở nhà. Lúc ra đi, Ra-chên, người vợ mà Gia-cốp yêu thương đã ăn cắp pho tượng thờ trong nhà của cha mình và giấu dưới bành lạc đà. Gia-cốp không hay biết việc làm của Ra-chên.

Ba ngày sau khi Gia-cốp ra đi, La-ban mới biết, và cũng phát hiện pho tượng đã bị đánh cắp, nên càng tức giận hơn. Lập tức, ông cho người nhà của mình đuổi theo Gia-cốp, nhưng trên đường đi, Đức Chúa Trời phán với La-ban không được làm hại Gia-cốp và người nhà của ông.

Cuối cùng, La-ban cũng đã đuổi kịp Gia-cốp nơi ông đóng trại để cho người và súc vật nghỉ ngơi. La-ban rất giận dữ, khi tìm khắp trại mà không thấy các pho tượng đã bị đánh cắp. Thật ra La-ban không chỉ tức giận vì mất các pho tượng, mà còn tức giận về việc cả gia đình Gia-cốp bỏ đi mà không cho ông biết. Sau khi bàn bạc, Gia-cốp và La-ban cùng thỏa thuận lập giao ước với nhau, là hai bên không thù hận nhau nữa. Sáng sớm hôm sau, La-ban từ giã con cháu mình rồi trở về xứ Cha-ran, còn Gia-cốp tiếp tục lên đường về xứ Ca-na-an.

   (2) Gia-cốp chuẩn bị để gặp Ê-sau.

Nếu các em đi xa nhà một thời gian dài, và khi trở về gần đến nhà, thì tâm trạng của các em lúc đó sẽ ra sao? Càng về gần đến nhà, Gia-cốp càng bồi hồi khi nhớ về những kỷ niệm xưa, nhưng không thể không hồi hộp, lo lắng. Cảnh vật có thay đổi, nhưng sự hận thù của Ê-sau có thay đổi không, khi đã 20 mươi năm rồi? Gia-cốp rất mong được trở về nhà, nhưng cũng rất lo sợ khi phải gặp Ê-sau. Vì thế, ông sai người đi trước để gặp Ê-sau, báo tin ông trở về.

Gia-cốp biết rõ một điều là phải làm hòa với anh mình trước, thì mới trở về nhà bình an. Giờ đây, ông đang nóng lòng chờ đợi tin tức của các sứ giả mà mình đã sai đi.

Vài ngày sau, các sứ giả trở về và nói cùng Gia-cốp rằng: “Chúng tôi đã đến Ê-sau, anh của chủ; nầy, người đương đem bốn trăm người đến để rước chủ”.

Không ai dám nghĩ rằng đây là hành động hòa bình. Thật ra, một người đang căm giận mà mang theo bốn trăm người đến, thì thật khinh khủng. Gia-cốp rất run sợ, ông cho là Ê-sau đem bốn trăm người đến để trả mối thù hai mươi năm về trước. Trong khiếp sợ, Gia-cốp làm ba việc:

Việc thứ nhất: Ông chia người nhà, đầy tớ và súc vật thành hai đội. Nếu Ê-sau hãm đánh một trong hai đội, thì đội còn lại có thể chạy thoát được.

Việc thứ hai: Gia-cốp cầu nguyện với Đức Chúa Trời. Ông trình bày với Chúa nỗi sợ hãi và lo âu của mình, cầu xin Ngài bảo vệ.

Việc thứ ba: Gia-cốp chuẩn bị một món quà thật lớn để làm hòa với Ê-sau. Trong đó có: Hai trăm hai mươi con dê, hai trăm hai mươi con chiên, ba chục lạc đà cái có con đang bú, bốn chục bò cái và mười bò đực, hai chục lừa cái và mười lừa con (Ghi trên bảng). Gia-cốp phân chia bầy súc vật ra từng nhóm và giao cho các đầy tớ dẫn đi trước, bầy nầy cách bầy kia một khoảng, dặn kỹ khi gặp Ê-sau thì nói: “Đây là quà của Gia-cốp, gởi dâng cho Ê-sau. Người đang theo sau”.

Khi các đầy tớ mang quà đi rồi, Gia-cốp và gia đình vẫn còn ở lại đó. Ban đêm, ông thao thức không ngủ được, nên đánh thức hai vợ, hai con đòi và mười một người con của mình, dẫn qua rạch Gia-bốc, nơi mà Gia-cốp cho là an toàn. Xong xuôi, một mình ông ở lại trại. Kinh Thánh chép rằng, Gia-cốp vật lộn với một người trong lúc đang cầu nguyện, cho đến gần sáng và bị người đó đánh trẹo xương hông. Lúc nầy ông mới biết đó là thiên sứ của Đức Chúa Trời và cầu xin Ngài ban phước. Sau khi xưng tội, ông được Chúa đổi tên là Y-sơ-ra-ên, có nghĩa “Vật lộn cùng Đức Chúa Trời”. Gia-cốp đã được Đức Chúa Trời tha thứ, bây giờ, ông cần được Ê-sau tha thứ.

 (3) Gia-cốp và Ê-sau gặp nhau.

Buổi sáng hôm sau, Gia-cốp nhìn thấy một đoàn người đông, từ xa đi tới phía mình, thì nhận biết đó là Ê-sau cùng bốn trăm người đi theo. Gia-cốp đi trước và sấp mình xuống đất bảy lần, cho tới khi đến gần anh mình. Điều Gia-cốp không thể ngờ là Ê-sau chạy đến trước và ôm chầm lấy em mình mà hôn, rồi cả hai đều khóc. Thế là mối thù hai mươi năm đã được giải quyết, Ê-sau tha thứ cho người em đã lường gạt mình.

Khi Ê-sau nhìn thấy nhiều người đứng xung quanh, thì hỏi Gia-cốp: “Những người nầy là ai vậy?” Gia-cốp đáp rằng: “Đó là vợ con mà Đức Chúa Trời đã ban cho em”. Đây là lần đầu tiên các con của Gia-cốp gặp bác của mình.

Ê-sau muốn dẫn Gia-cốp và gia đình đi đến chỗ mình cư ngụ, nhưng vì các con của Gia-cốp còn nhỏ và bầy súc vật còn non yếu, không thể đi nhanh được. Do vậy, Ê-sau phải đi về trước. Hai anh em chia tay nhau, không phải ở trong thù hận, mà ở trong sự tha thứ và yêu thương.

  1. Ứng dụng.

Các em thân mến! Nếu Ê-sau không tha thứ, và Gia-cốp không biết nhận lỗi, thì chắc chắn không có cảnh gặp xúc động mà các em mới vừa học trên đây. Chúa muốn các em có tấm lòng nhân hậu, biết yêu thương và tha thứ, không ích kỷ, không giành phần lợi cho riêng mình…, không chỉ đối với người thân trong gia đình, mà còn đối với bạn bè nữa. Khi các em phạm lỗi với người khác, thì sẵn sàng xin lỗi. Muốn có được đức tính đó, các em phải mời Chúa ngự trị trong lòng luôn luôn. Xin Chúa giúp đỡ các em.

BÀI 7.  CÓ THỂ TRỞ VỀ ĐƯỢC KHÔNG?  (HV)

 I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 30 – 33:1-16.

II. CÂU GỐC: “Hãy ở với nhau cách nhân từ, đầy dẫy lòng thương xót, tha thứ nhau như Đức Chúa Trời đã tha thứ anh em trong Đấng Christ vậy” (Ê-phê-sô 4:32).

III. BÀI TẬP.

1. Em hãy làm các bài tính nầy và sau đó điền vào chỗ trống bằng đáp số đã tính toán được, theo thứ tự. Em sẽ có được một câu chuyện hoàn chỉnh.

a. 100 + 100 + 200 =

b. 800 : 2 =

c. 120 + 150 + 40 + 10 + 30 =

d. 10 – 3 =

e. 5 x 4 =

Gia-cốp dẫn cả gia đình đi từ Cha-ran về xứ Ca-na-an, một đường dài thật dài đến (a)____ dặm. Khi về gần đến nhà, Gia-cốp cho người đi trước để dò xét tình hình của Ê-sau. Ê-sau biết Gia-cốp trở về, nên mang theo (b)____ người đến đón. Gia-cốp gởi tặng cho Ê-sau món quà hòa bình, tổng cộng là (c)______ súc vật.

Ngày hôm sau, hai anh em gặp mặt nhau. Gia-cốp vừa đi vừa sấp mình xuống đất (d)_____ lần cho đến khi tới gần Ê-sau. Hai anh em đã ôm hôn nhau. Cuối cùng đã kết thúc sự hận thù kéo dài (e)___ năm.

1. Ai là người nói dối?

“Thanh và Nhã là đôi bạn học cùng một lớp. Hai bạn ấy chơi thân với nhau lắm, nhưng bây giờ thì không còn nữa. Hai bạn không nói chuyện với nhau, vì Thanh cho rằng Nhã đã lừa dối mình.

Nguyên do là tuần trước, Nhã phải nộp bài tập làm văn, nhưng không biết viết như thế nào, liền nhờ Thanh. Thanh vốn giỏi văn, nên viết thay cho bạn. Kết quả, bài tập làm văn của Nhã được thầy giáo khen, và được dán lên bảng cho các bạn trong lớp cùng đọc.

            Nhã rất vui mừng chạy về nhà khoe với bố, mẹ. Mẹ Nhã gọi điện thoại báo cho ông bà ngoại biết và ông bà ngoại hứa sẽ thưởng cho Nhã một con thú nhồi bông thật to. Trong khi đó, Nhã không nói một lời nào để cảm ơn Thanh. Thanh rất bực mình, ghét và không nói chuyện với Nhã nữa”.

 

Theo em, Thanh và Nhã ai đúng ai sai? Nếu là Thanh và Nhã, thì em sẽ xử sự như thế nào? Làm cách nào để hai bạn hòa nhau?

 

BÀI 7.  CÔNG BỐ MẠNG LỆNH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (GV-HV)

BÀI 7.  CÔNG BỐ MẠNG LỆNH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ II. 2016 on 5 Tháng Bảy, 2018

 

BÀI 7.  CÔNG BỐ MẠNG LỆNH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI  (GV)

 I. KINH THÁNH: Xuất Ê-díp-tô ký 20:1-3, 7-10, 12-17.

II. CÂU GỐC: “Trước mặt ta, ngươi chớ có các thần khác” (Xuất Ê-díp-tô ký 20:3).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Mệnh lệnh của Đức Chúa Trời được ghi trong Kinh Thánh.

– Cảm nhận: Là con dân của Chúa, chúng ta phải vâng theo mệnh lệnh của Ngài.

– Hành động: Em hết lòng vâng giữ mệnh lệnh của Đức Chúa Trời.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* “Ai ra lệnh?”

1. Cho các em mở sách học viên bài 7, làm bài tập “Ai ban mạng lệnh?” Hướng dẫn các em trước hết đọc mạng lệnh, sau đó hỏi: Ai ra lệnh? Rồi dùng viết gạch nối lại với nhau cho đúng (Đáp án: Cha (4), mẹ (3), chú tài xế (1), cô giáo (2).

2. Giúp các em suy nghĩ: Ở nhà có qui tắc gì? Ở trường có nội qui gì?

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị thị trợ: Photo lớn hình trong trang tài liệu 10 và 11. Dùng giấy cứng cắt thành hình hai tấm bảng đá (như hình dưới), ghi Mười Điều Răn lên trên).

  1. Vào đề.

Kinh Thánh là quyển sách Đức Chúa Trời ban cho con người, trong đó ngoài những lời hứa của Đức Chúa Trời còn có mạng lệnh của Ngài. Mạng lệnh là gì? (Cho các em trả lời). Đó là qui tắc phải tuân theo. Mạng lệnh của Đức Chúa Trời là những qui tắc mà Đức Chúa Trời căn dặn con người tuân giữ. Giống như ở nhà chúng ta phải nghe theo mệnh lệnh của ba mẹ, ở trường chúng ta phải vâng theo mệnh lệnh của thầy cô vậy. Ở nhà có nội qui trong nhà; ở trường có nội qui trong trường, chúng ta là con cái, là học sinh thì phải tuân theo. (Có thể cho các em nêu ra một số qui tắc trong gia đình và trong trường học).

Như vậy ai phải vâng giữ mạng lệnh của Đức Chúa Trời? (Cho các em trả lời). Tại sao chúng ta phải tuân theo mạng lệnh của Đức Chúa Trời? Trước hết cô (thầy) sẽ kể cho các em nghe câu chuyện nầy nhé, sau đó các em sẽ hiểu rõ về vấn đề nầy hơn.

  1. Bài học.

Các em còn nhớ Gia-cốp không? Các em có nhớ Đức Chúa Trời ban cho ông một cái tên mới là gì không? (Cho các em trả lời). Đúng rồi, Gia-cốp còn có tên là Y-sơ-ra-ên.

Khi Gia-cốp đã già, trong xứ xảy ra một cơn đói kém rất lớn, ông dời cả gia đình đến Ai-cập ở để tránh nạn đói đang hoành hành tại quê hương. Không ngờ gia tộc của Gia-cốp đã ở tại đó bốn trăm ba mươi năm, con cháu ngày càng đông đúc, dân Ai-cập gọi họ là người “Y-sơ-ra-ên”.

Dân Ai-cập lo sợ khi thấy người Y-sơ-ra-ên ngày càng cường thịnh. Họ bắt người Y-sơ-ra-ên phải làm nô lệ khổ nhọc tại Ai-cập (cho các em xem hình), họ còn giết tất cả những bé trai Y-sơ-ra-ên mới sinh. Các em thấy có bi thảm không? (Dừng lại giây lát). Có cách nào để người Y-sơ-ra-ên thoát ra khỏi cảnh đó? Đây không phải là quê hương của họ! Các em thử nghĩ xem, họ có thể làm gì? (Cho các em trả lời). Họ không thể làm gì hơn ngoài việc cầu xin Đức Chúa Trời giải cứu!

Đức Chúa Trời nghe lời kêu cầu của dân Y-sơ-ra-ên, Ngài sai Môi-se đến xin Pha-ra-ôn cho phép dân Y-sơ-ra-ên rời khỏi đất nước Ai-cập. Nhưng vua Ai-cập không cho họ đi. Mãi đến khi Đức Chúa Trời giáng mười tai vạ xuống Ai-cập, Pha-ra-ôn mới để cho dân Y-sơ-ra-ên ra đi. Thử nghĩ xem, nếu em là người Y-sơ-ra-ên, em có cảm tạ Đức Chúa Trời không? (Cho các em trả lời).

Dân Y-sơ-ra-ên vui mừng đi theo Môi-se trở về Đất Hứa. Đi được khoảng ba tháng, đến chân núi Si-nai, họ dừng lại đóng trại tại đó nghỉ ngơi. Bỗng, họ nghe trên núi có tiếng sấm chớp vang động, họ thấy mây giăng mù mịt và tiếng kèn thổi vang rền. Việc gì xảy ra vậy? (Ngừng một lát, trình bày hình vẽ Đức Chúa Trời ngự trên núi Si-nai). À, thì ra Đức Chúa Trời giáng lâm trên núi để nói chuyện với dân Y-sơ-ra-ên. Đức Chúa Trời bảo Môi-se: “Hãy lên núi, Ta sẽ truyền mạng lệnh của ta cho ngươi, rồi ngươi sẽ truyền lại mạng lệnh của ta cho dân Y-sơ-ra-ên”. Môi-se liền lên núi, Đức Chúa Trời viết Mười Điều Răn lên tấm bảng đá giao cho Môi-se. (Trình bày bảng Mười Điều Răn cho các em đọc lớn, rập ràng).

Nếu các em là người Y-sơ-ra-ên, các em có sẵn lòng vâng theo mạng lệnh của Đức Chúa Trời không? Tại sao? (Cho các em trả lời). Đúng rồi, bởi vì Đức Chúa Trời đã giải cứu dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi ách nô lệ, Ngài luôn thương yêu họ.

Đức Chúa Trời cũng yêu thương chúng ta, cứu chúng ta thoát khỏi tội lỗi. Mạng lệnh của Ngài rất có ích cho chúng ta, giúp chúng ta sống đẹp lòng Ngài. Các em có biết làm thế nào nhận biết mạng lệnh của Đức Chúa Trời không? Đúng rồi, tất cả mạng lệnh của Đức Chúa Trời đều được ghi trong Kinh Thánh (đưa quyển Kinh Thánh lên). Đọc, học Kinh Thánh sẽ giúp các em biết mạng lệnh của Đức Chúa Trời, xin Chúa giúp em luôn biết vâng theo mạng lệnh của Ngài.

  1. Ứng dụng.

Cho các em thảo luận bằng cách trả lời những câu hỏi: Nếu em nhận người khác làm ba mẹ thì ba mẹ em có phản ứng gì? Đức Chúa Trời muốn chúng ta chỉ thờ phượng một mình Ngài, em thấy điều đó có đúng không?

Hướng dẫn các em làm bài tập “Ai đã tuân theo Điều Răn thứ nhất?” Trước hết thảo luận về các hành động trong hình vẽ, sau đó chọn lựa điều nào đúng. Cuối cùng cho các em diễn lại cảnh Môi-se nhận Mười Điều Răn trên núi Si-nai. Một em đóng vai Môi-se, tay cầm bảng Mười Điều Răn, đọc rõ ràng, chậm rãi. Các em khác đóng vai dân Y-sơ-ra-ên chăm chú lắng nghe.

BÀI 7.  CÔNG BỐ MẠNG LỆNH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (HV)

 I. KINH THÁNH: Xuất Ê-díp-tô ký 20:1-3, 7-10, 12-17.

II. CÂU GỐC: “Trước mặt ta, ngươi chớ có các thần khác” (Xuất Ê-díp-tô ký 20:3).

III. BÀI TẬP.

A. AI RA MỆNH LỆNH.

Cha   Không được chạy đùa trên xe.

Mẹ     Ngày mai kiểm tra, về nhà nhớ ôn bài nhé!

Bác tài xế Đến giờ ăn rồi, mau phụ giúp lấy chén dĩa.

Cô giáo    Chưa làm xong bài, không được coi tivi.

B. AI TUÂN THEO ĐIỀU RĂN THỨ NHẤT?

Đến Hội Thánh cùng thờ phượng Chúa với các con cái Chúa.

Thờ cúng tổ tiên.

Cầu nguyện với Đức Chúa Trời.

BÀI 7. CON TRAI CỦA QUAN THỊ VỆ (GV-HV)

BÀI 7. CON TRAI CỦA QUAN THỊ VỆ (GV-HV)

in ẤU NHI, QUÍ II. 2016 on 5 Tháng Bảy, 2018

 

BÀI 7. CON TRAI CỦA QUAN THỊ VỆ (GV)

I. KINH THÁNH: Giăng 4:46-53.

II. CÂU GỐC: “Đức Chúa Giê-xu phán rằng: Hãy đi, con của ngươi sống” (Giăng 4:50).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Chúa Giê-xu có quyền năng giúp con trai của quan thị vệ khỏi chết.

– Cảm nhận: Không có điều gì mà Chúa Giê-xu không làm được.

– Hành động: Tin và nhờ cậy Chúa trong mọi sự.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

Cho các em đóng vai bác sĩ, bệnh nhân. Qua đó nhắc nhở các em khi bệnh, không chỉ xin bác sĩ chữa bệnh mà còn phải không ngừng cầu nguyện, xin Chúa Giê-xu chữa lành cho mình.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

  1. Vào bài.

Các em ơi, có lần nào các em bị bệnh chưa? (Cho các em trả lời. Có nhiều loại bệnh, ví dụ: Những loại bệnh nhẹ như ho, sốt, sổ mũi, giun sán… những loại bệnh nặng như phổi, ruột thừa, đau gan…

Bệnh nhẹ có thể mau được lành, còn bệnh nặng có nhiều lúc nguy hiểm đến tính mạng. Cô tin rằng các em đều nhớ, khi các em bị bệnh, chắc là không vui đâu, phải không? Mẹ bắt các em phải nằm nghỉ trên giường, không được chạy nhảy, không được ăn kẹo, kem hay nhiều thức ăn ngon khác, mà còn phải uống thuốc đúng giờ nữa. Như vậy có em nào thích bị bệnh không? Chắc là không em nào muốn đâu, phải không? Bây giờ cô (thầy) muốn biết các em khi bị bệnh thì như thế nào? (Cho các em phát biểu, nếu giáo viên thấy các em ngại, thì gợi ý cho các em nói chứ đừng trả lời thay, giúp các em tập suy nghĩ và nói lên những suy nghĩ của mình). Câu chuyện hôm nay nói về một cậu bé bị bệnh rất nặng và điều gì sẽ đến với cậu đây? Các em hãy lắng nghe nhé.

  1. Bài học.

Ngày xưa, ở thành Ca-bê-na-um có một ông quan thị vệ (một quan lớn) có một cậu con trai. Ông rất yêu thương người con nầy. Nhưng ông quan thị vệ đang rất lo lắng và buồn vì con trai ông bị bệnh rất nặng và sắp chết. Ông bà rất nôn nóng, tìm thầy thuốc khắp nơi, nhưng cũng không làm cho con mình được hết bệnh.

Một hôm, trên đường đi, ông nghe có hai người Giu-đa nói chuyện. “Nầy bạn, bạn có nghe tin Chúa Giê-xu từ xứ Giu-đê đến Ga-li-lê không?” Người kia hỏi lại: “Chúa Giê-xu là ai? Ngài đến Ga-li-lê để làm gì?”À, bạn không biết Chúa Giê-xu sao? Ngài là Đấng từ Đức Chúa Trời sai đến. Có người tin Ngài là Con Đức Chúa Trời. Ngài đã làm nhiều phép lạ ở các nơi. Nếu bạn muốn gặp thì hãy đi theo tôi”. Người kia vội hỏi: “Phép lạ ra sao, kể cho tôi nghe với”. “Bạn không biết gì sao? Được rồi, để tôi kể cho bạn nghe. Ngài đã biến nước thành rượu, đã chữa lành người mù từ thuở sanh ra…” Quan thị vệ nghe vậy, dường như thấy được ánh sáng chiếu ra trong đêm tối. Lòng ông vui không tả nổi, còn hơn là được nhiều vàng bạc châu báu. Ông lập tức chạy về nhà và nói với vợ: “Bây giờ tôi phải  đi gấp đến Ga-li-lê để tìm Chúa Giê-xu. Tôi tin rằng Ngài sẽ chữa lành bệnh cho con của chúng ta”. Nói xong, ông nhanh chóng ra đi.

Từ nơi ông ở phải đi rất xa mới có thể tìm gặp được Chúa. Khi gặp được rồi, thì ông cầu xin Chúa: “Thưa Chúa, con tôi bị bệnh sắp chết rồi. Xin Ngài chữa giùm cho con tôi”. Chúa Giê-xu nhìn người rồi nói: “Hãy đi, con của ngươi sống”.

Quan thị vệ Ca-bê-na-um nghe vậy thì vui lắm và tin lời của Chúa Giê-xu, không chút nghi ngờ, dù chẳng thấy Ngài làm gì cả ngoài một câu nói mà thôi. Lòng tin của ông nơi Chúa thật mạnh mẽ, phải không các em? Chúa Giê-xu cũng ngạc nhiên và khen ông khi thấy lòng tin của ông như vậy.

Ông liền quay trở về nhà. Trên đường về, người đầy tớ của ông chạy đến báo: “Ông chủ, con trai của ông lành bệnh rồi!” Ông mừng rỡ nói: “Chính Chúa Giê-xu chữa lành cho con tôi. Ngài làm cho nó được sống. Cảm tạ Ngài!” “Ba ơi cho con biết Chúa Giê-xu là ai?” Con trai của ông hỏi. “Ngài là Đấng mà Đức Chúa Trời sai đến. Ngài là Con của Đức Chúa Trời. Ngài đã làm nhiều phép lạ. Hôm nay, Ngài đã làm phép lạ cho gia đình chúng ta, làm sao mà chúng ta không tin Ngài”. Ông nói với lòng vui mừng, đầy sự cảm tạ Chúa.

  1. Ứng dụng.

Các em ơi, các em đừng quên Chúa Giê-xu là Con của Đức Chúa Trời. Ngài có thể khiến người chết được sống.

Khi các em bị bệnh, các em nên cầu xin Chúa chữa bệnh cho. Phải nhớ là trong mọi sự, phải nhờ cậy Chúa, bởi vì Chúa là Đấng yêu thương, lo lắng, chăm sóc cho em.

Bài 7.  CON TRAI CỦA QUAN THỊ VỆ (HV)

 I. KINH THÁNH: Giăng 4:46-53

I. CÂU GỐC: “Đức Chúa Giê-xu phán rằng: Hãy đi, con của ngươi sống” (Giăng 4:50).

 

 

BÀI 6. CHÚA LÀ NƠI NƯƠNG NÁU (GV-HV)

BÀI 6. CHÚA LÀ NƠI NƯƠNG NÁU (GV-HV)

in QUÍ II. 2016, THIẾU NHI on 4 Tháng Bảy, 2018

 

BÀI 6. CHÚA LÀ NƠI NƯƠNG NÁU (GV)

I. KINH THÁNH: Sáng 27:41 đến 28:22.

II. CÂU GỐC: “Đức Chúa Trời là nơi nương náu và sức lực của chúng tôi, Ngài sẵn giúp đỡ trong cơn gian truân” (Thi 46:1).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Gia-cốp tuy phạm tội, phải rời khỏi nhà ra đi, nhưng Đức Chúa Trời vẫn ở cùng.

– Cảm nhận: Tình yêu thương của Đức Chúa Trời không hề thay đổi.

– Hành động: Tin Chúa là Đấng yêu thương và là nơi nương náu trong lúc gian truân.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. CHUẨN BỊ.

1. Giấy để cho các em vẽ.

2. Cho các em chỉ vị trí Bê-e-sê-ba trên bản đồ của Kinh Thánh.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

  1. Vào đề.

Ba mẹ các em có yêu thương các em không? Làm thế nào mà các em biết được? Khi gặp phải khó khăn, các em có nhờ cha mẹ giải quyết không? Nếu ở trong gia đình, mọi người biết chia sẻ, an ủi và cùng nhau giải quyết mọi khó khăn, thì gia đình đó thật hạnh phúc, êm ấm, phải không các em?

  1. Bài học.

Gia đình của Y-sác không còn hạnh phúc nữa, bởi sự gian dối của Gia-cốp và Rê-bê-ca. Các em có thể tưởng tượng không khí nặng nề trong gia đình nầy. Người cha rất luyến tiếc sự ra đi của con mình, người mẹ cô đơn, buồn bã, người anh giận dữ vì bị lừa gạt. Gia-cốp cảm thấy cô đơn khi phải rời khỏi nhà ra đi.

            (1) Gia-cốp rời khỏi nhà ra đi.

Đối với hành động lừa dối của Gia-cốp, Ê-sau rất giận dữ, nhất định trong lòng rằng, sau khi cha qua đời sẽ giết Gia-cốp. Hai anh em đã trở thành kẻ thù của nhau.

Khi Rê-bê-ca hay được ý định của Ê-sau, thì rất lo sợ, liền sửa soạn cho Gia-cốp ra đi, chạy trốn Ê-sau.

Rê-bê-ca nói với Gia-cốp: “Con hãy chạy trốn qua nhà cậu con tại Cha-ran và ở đó ít lâu, cho đến khi cơn giận của anh con nguôi đi, thì mẹ sẽ sai người đến đón con về”.

Thế là Gia-cốp ra đi với tâm trạng đau thương, và cô đơn. Chặng đường thật dài và gian khổ; phải vượt qua đồng vắng hoang vu, xuyên qua sa mạc lớn giữa Bê-e-sê-ba và Cha-ran. Lúc đó, không có xe cũng chẳng có ngựa, Gia-cốp chỉ đi bộ mà thôi và tối đến thì ngủ ngoài trời. Từ nhỏ đến lớn, Gia-cốp luôn sống trong sự cưng chiều và sự bảo bọc của mẹ, còn bây giờ một mình phải đối diện với bao khó khăn. Có lẽ trong lúc nầy, Gia-cốp cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết, cần được an ủi, cần có chỗ để nương dựa.

            (2) Đức Chúa Trời là nơi nương náu.

Không có một người nào có thể giúp đỡ Gia-cốp, chỉ có Đức Chúa Trời mà thôi, nhưng Chúa có còn yêu thương Gia-cốp khi ông phạm tội không? Chúng ta chờ xem nhé!

Ban ngày đi đường mệt mỏi, tối đến Gia-cốp lấy một hòn đá bằng phẳng làm gối và ngủ thiếp đi. Trong giấc ngủ, ông nằm mơ thấy một cái thang lạ lùng, bắc từ dưới đất lên đến tận trời. Gia-cốp thấy các thiên sứ của Đức Chúa Trời đi lên đi xuống trên thang đó. Đức Chúa Trời ngự trên đầu cầu thang và phán: “Ta là Đức Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, tổ phụ ngươi, cũng là Đức Chúa Trời của Y-sác. Ta sẽ cho ngươi và dòng dõi ngươi đất mà ngươi đương nằm ngủ đây”.

Gia-cốp không biết kế hoạch đã sắm sẵn của Chúa đối với ông. Những gì mà Đức Chúa Trời hứa ban cho Áp-ra-ham, Y-sác, thì Ngài cũng hứa ban cho Gia-cốp. Nhưng rất tiếc, ông đã dùng mưu kế để đoạt lấy. Nếu ông yên lặng chờ đợi, chắc chắn Đức Chúa Trời cũng sẽ thực hiện lời hứa của Ngài đối với ông và tình cảm anh em trong gia đình sẽ tốt đẹp hơn.

Đức Chúa Trời cho Gia-cốp hiểu rằng Ngài vẫn yêu thương và đoái xem hoàn cảnh của ông trong lúc nầy. “Ta ở cùng ngươi, ngươi đi đâu, sẽ theo gìn giữ đó, và đem ngươi về xứ nầy; vì ta không bao giờ bỏ ngươi cho đến khi ta làm xong những điều ta đã hứa cùng ngươi” (Sáng 28:15).

Gia-cốp thức giấc, và ông nhận biết Đức Chúa Trời vẫn ở cùng, yêu thương ông, dù ông đã phạm tội. Trước khi ngủ, Gia-cốp cảm thấy cô đơn và thấy Đức Chúa Trời rất cách xa mình. Nhưng giờ đây, ông biết Chúa vẫn là nơi nương náu cho ông. Dù vẫn phải tiếp tục chạy trốn Ê-sau, phải đi đến Cha-ran một mình, nhưng sự nhận biết nầy an ủi ông rất nhiều và khích lệ đức tin của ông.

Các em thân mến! Tại sao lúc ban đầu Gia-cốp cảm thấy cô đơn? Tại sao ông cảm thấy Đức Chúa Trời lìa xa mình? (Cho các em trả lời). Gia-cốp thấy mình có tội, không làm đẹp lòng Đức Chúa Trời. Khi phạm tội, chúng ta thường cảm thấy Đức Chúa Trời không yêu chúng ta nữa. Khi nghĩ đến tội của mình, thì không dám nói chuyện với Chúa. Thật ra, Đức Chúa Trời ghét tội lỗi, nhưng lòng nhân từ của Ngài không lìa bỏ chúng ta. Ngài yêu chúng ta đến cùng. Đức Chúa Trời biết Gia-cốp cô đơn, nên Ngài hiện ra trong giấc chiêm bao để an ủi và cho ông biết chính Ngài là nơi nương náu của ông.

            (3) Bê-tên

Để ghi nhớ nơi đặc biệt nầy, nơi mà Gia-cốp đã gặp Đức Chúa Trời, ông lấy hòn đá đã gối đầu, dựng đứng lên làm cây trụ và đặt nơi đây là Bê-tên, có nghĩa là đền hay là nhà của Đức Chúa Trời.

Kể từ lúc gặp Chúa, Gia-cốp đã thay đổi. Lúc trước là ích kỷ, sử dụng bất cứ thủ đoạn nào để đạt được mục đích của mình. Giờ đây, Gia-cốp cầu xin Đức Chúa Trời: “Nếu Đức Chúa Trời ở cùng tôi, gìn giữ tôi trong lúc đi đường, cho bánh ăn, áo mặc, và nếu tôi trở về bình an đến nhà cha tôi, thì Đức Giê-hô-va sẽ là Đức Chúa Trời tôi. Hòn đá đã dựng làm trụ đây sẽ là đền Đức Chúa Trời, và tôi sẽ nộp lại cho Ngài một phần mười mọi của cải mà Ngài sẽ cho tôi” (câu 20-22). Lời cầu xin của Gia-cốp chứng tỏ lòng ông biết ơn Chúa vì Ngài là nơi nương náu của ông đúng lúc.

  1. Ứng dụng.

Các em thân mến! Cuộc đời của Gia-cốp cho chúng ta một bài học rất hay về tình yêu thương của Chúa. Dù Gia-cốp phạm tội nhưng Chúa vẫn yêu thương ông. Nhiều lúc chúng ta phạm tội với Chúa, và có tâm trạng giống như Gia-cốp: Cô đơn, cảm thấy Chúa cách xa, không còn yêu thương chúng ta nữa. Những lúc như thế, các em nên nhớ rằng tình yêu thương của Ngài đối với các em không thay đổi. Ngài luôn dang rộng đôi tay để đón chờ các em quay trở lại với Chúa bất cứ lúc nào. Khi nào các em cảm thấy buồn, thất vọng, bạn bè xa lánh… nên nhớ rằng Chúa Giê-xu là nơi nương náu êm dịu nhất. Các em cùng đọc câu gốc tuần nầy nhé! (Cho các em chia sẻ kinh nghiệm Chúa là nguồn an ủi, che chở em trong lúc hoạn nạn).

BÀI 6. CHÚA LÀ NƠI NƯƠNG NÁU (HV)          

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 27:41 – 28:22.

I. CÂU GỐC: “Đức Chúa Trời là nơi nương náu và sức lực của chúng tôi, Ngài sẵn giúp đỡ trong cơn gian truân” (Thi Thiên 46:1).

III. BÀI TẬP

 

  1. Bốn hình ảnh trên diễn tả hai anh em đang giận nhau. Em hãy suy gẫm và viết ra câu chuyện:

………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………2. Kinh Thánh cho em biết nhiều cách làm cho những người trong gia đình sống yêu thương, vui vẻ. Mời em đọc kỹ các câu Kinh Thánh sau đây và ghi ra bí quyết trên đường kẻ của các hình sau.

“Hết thảy anh em phải đồng lòng đầy thương xót và tình yêu anh em, có lòng nhân từ và đức khiêm nhường. Đừng lấy ác trả ác, cũng đừng lấy rủa sả trả rủa sả; trái lại, phải chúc phước, ấy vì điều đó mà anh em được gọi để hưởng phước lành. Vả, ai muốn yêu sự sống và thấy ngày tốt lành, thì phải giữ gìn miệng lưỡi, đừng nói điều ác và lời gian giảo” (1Phi-e-rơ 3:8-10).

 

 

  1. Kinh nghiệm của em.

Có nhiều bạn cùng lứa tuổi với em không tin nhận Chúa, nên không biết sự an ủi của Ngài. Em đã tin nhận Chúa, em có thể làm chứng cho các bạn ấy biết, Chúa thật sự là nơi nương náu của em trong lúc cô đơn, sợ hãi được không? Em hãy viết tiếp phần sau của câu gợi ý.

a. Khi ở trong bóng tối, em cũng sợ hãi.

Nhưng em………………………………………………………………..

………………………………………………………………………………..

………………………………………………………………………………..

b. Khi buồn, cô đơn, em……………………………………………….

……………………………………………………………………………….. ………………………………………………………………………………..

c. Khi bị bạn bè chế nhạo, em………………………………………

……………………………………………………………………………….. ………………………………………………………………………………..

d. Sau khi gây gổ với anh trai, em………………………………..

……………………………………………………………………………….. ………………………………………………………………………………..

e. Khi nằm trên giường bệnh, em………………………………..

……………………………………………………………………………….. ………………………………………………………………………………..

BÀI 6. KINH THÁNH BÀY TỎ Ý MUỐN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (GV-HV)

BÀI 6. KINH THÁNH BÀY TỎ Ý MUỐN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ II. 2016 on 4 Tháng Bảy, 2018

 

BÀI 6.  KINH THÁNH BÀY TỎ Ý MUỐN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (GV)

I. KINH THÁNH: Lu-ca 9:49-56; 1Giăng 3:11

II. CÂU GỐC: “Lời Chúa là ngọn đèn cho chân tôi, ánh sáng cho đường lối tôi” (Thi Thiên 119:105).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Kinh Thánh bày tỏ ý muốn của Đức Chúa Trời.

– Cảm nhận: Ý muốn lớn nhất của Đức Chúa Trời đối với con người là sự yêu thương.

– Hành động: Em sống yêu thương như Lời Chúa dạy.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Hình dấu tay.

  1. Chuẩn bị: Mực đóng dấu.
  2. Thực hiện: Trước hết cho các em dùng một ngón tay (ngón nào cũng được) ấn mạnh vào mực đóng dấu, rồi in vào chỗ trống trong bài tập (sách học viên). Dấu tay sẽ thành hình của cái đầu, vẽ nét mặt lên hình dấu tay, và phải biểu hiện được một tâm trạng. Ví dụ: Vui, giận, buồn…

Nếu có thời gian, có thể cho các em chia sẻ hình vẽ của mình thuộc loại khuôn mặt gì?

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị thị cụ: Dùng đậu phộng làm con rối ngón tay, vẽ khuôn mặt giận và cười (như hình dưới), dùng giấy bìa cứng cắt hình trái tim, viết chữ “yêu thương” lên trên).

  1. Vào đề.

Chào các bạn! (Đưa con rối lên). Các bạn quen tôi không? (Cho các em trả lời). Tôi xin tự giới thiệu, tôi là Giăng, một trong mười hai sứ đồ của Chúa Giê-xu. Để tôi kể chuyện đời tôi cho các bạn nghe nhé.

  1. Bài học.

Gia đình tôi sống ở vùng biển Ga-li-lê, cha tôi là một người đánh cá tài giỏi, tôi và anh của tôi là Gia-cơ cùng theo phụ giúp cha đánh cá.

Một hôm, Chúa Giê-xu đến vùng biển Ga-li-lê nầy. Từ xa tôi thấy Phi-e-rơ và Anh-rê đang thả lưới bắt cá, Chúa Giê-xu đi ngang qua nói gì với họ, họ liền bỏ lưới theo Ngài. Chúa Giê-xu và hai anh đó đi về phía chúng tôi, tôi và anh tôi đang vá lưới. Chúa Giê-xu gọi: “Các con hãy theo ta, ta sẽ cho các con trở nên tay đánh lưới người”. Tôi và anh tôi ngạc nhiên nhìn nhau, gật đầu, phấn khởi đi theo Chúa Giê-xu.

Chúa Giê-xu thật là một người thầy vĩ đại, Ngài dạy dỗ suốt ngày không mệt mỏi. Ngoài ra, Ngài cũng nói về những chân lý của Nước Đức Chúa Trời thật là hấp dẫn. Nhưng khi Ngài nói đến: “Hãy yêu kẻ thù nghịch và cầu nguyện cho kẻ bắt bớ các ngươi”, thì tôi thấy thật là khó! Ai có thể làm được?

Tôi nhớ có lần tôi và các anh em khác thấy một người nhân danh Chúa Giê-xu mà trừ quỉ, liền ngăn cản: “Anh không phải là môn đồ của Chúa Giê-xu, sao nhân danh Chúa mà trừ quỉ?” Việc ấy khiến tôi rất đắc ý nên kể lại cho thầy mình là Chúa Giê-xu nghe, nhưng Ngài lại bảo: “Đừng cấm họ, vì họ không nghịch với các con là thuận cùng các con”. Tôi ngạc nhiên vô cùng khi nghe Ngài nói như vậy.

Lại có một lần, Chúa Giê-xu dẫn chúng tôi đi lên Giê-ru-sa-lem, trên đường đi ngang qua làng Sa-ma-ri. Tôi lấy làm lạ, vì sao Chúa Giê-xu lại đi con đường nầy? Bởi người Sa-ma-ri và người Giu-đa không ưa nhau. Chúng tôi không bao giờ đi vào nơi họ ở. Thật như tôi nghĩ, chúng tôi đi vào làng, gõ cửa từng nhà, nhưng không ai tiếp đón chúng tôi. Tôi rất tức giận! Tôi và anh tôi tính nóng như lửa, thầy gọi chúng tôi là “con trai của sấm sét”. Chúng tôi nói với thầy: “Thưa Thầy, xin hãy khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy họ”, không ngờ thầy lại trách chúng tôi: “Ta đến để cứu người, chứ không phải lấy đi mạng sống của con người”. (Cho các em xem hình trong sách học viên).

Sau đó Chúa Giê-xu nói, Ngài phải rời xa chúng tôi, Ngài dặn chúng tôi phải yêu thương lẫn nhau, như vậy người khác sẽ biết chúng tôi là môn đồ của Ngài. Lúc đó tôi chưa hiểu, tại sao Chúa Giê-xu lại phải rời xa chúng tôi! Chỉ đến khi Chúa Giê-xu bị đóng đinh trên cây thập tự, chịu chết và ba ngày sau sống lại, tôi mới hiểu Chúa Giê-xu chịu chết vì con người, do sự yêu thương của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời thương yêu tất cả mọi người trên thế gian nầy, Ngài sai Con Một của Ngài là Chúa Giê-xu xuống thế gian để con người không bị hư mất mà được sự sống đời đời. (Mở Kinh Thánh Giăng 3:16 đọc cho các em nghe).

Từ đó tôi hoàn toàn thay đổi, tôi đã học được bài học rất quan trọng qua Chúa Giê-xu, đó là…………………… (Để cho các em nói). Đúng rồi, đó là sự yêu thương. (Giơ cao hình trái tim có chữ “tình yêu thương” lên). Đây là ý muốn lớn nhất của Đức Chúa Trời. Tôi phải ghi lại lời dạy quí báu nầy. Tôi đã viết sách Tin Lành Giăng, thư Giăng 1, 2, 3 và sách Khải huyền. Vậy bây giờ các bạn nhớ tên tôi chưa? Tôi là…………………… Cho các em nói), đúng rồi tôi là Giăng, rất vui vì được làm quen các bạn. Xin chào các bạn. Hẹn gặp lại nhé!

  1. Ứng dụng.

Cho các em ôn bài bằng cách hỏi: (Đưa con rối ngón tay lên). Người nầy là ai? Ai là thầy của ông ấy? Ông đã viết ra những cuốn sách gì? Ý muốn lớn nhất của Đức Chúa Trời đối với con người là gì?

Sau đó phát cho mỗi em một tờ giấy thủ công màu đỏ, một cây kéo, cho các em cắt hình trái tim dán vào quyển Kinh Thánh trong bài tập ý muốn của Đức Chúa Trời, cũng có thể viết chữ “Sự yêu thương” lên hình trái tim.

Giáo viên cầu nguyện: “Lạy Cha yêu dấu! Chúng con cảm tạ Cha vì Ngài đã nhắc nhở Giăng ghi lại ý muốn của Cha trong Kinh Thánh. Cảm tạ Cha vì Ngài đã yêu thương chúng con và dạy chúng con phải thương yêu lẫn nhau. Xin giúp chúng con sống yêu thương để xứng đáng là con cái Ngài. Con cầu nguyện nhân danh Chúa Giê-xu. Amen”.

BÀI 6. KINH THÁNH BÀY TỎ Ý MUỐN CỦA ĐỨC CHA TRỜI (HV)

I. KINH THÁNH: Lu-ca 9:49-56; 1Giăng 3:11

II. CÂU GỐC: “Lời Cha là ngọn đèn cho chân tôi, ánh sáng cho đường lối tôi”

(Thi Thin 119:105).

III. BÀI TẬP.

A. HÌNH DẤU TAY.

Em in hình dấu ngón tay của mình vào đây (như là khuôn mặt) rồi vẽ nét mặt vào

………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

 

B. Ý MUỐN CỦA ĐỨC CHA TRỜI.

Ý muốn lớn nhất của Đức Cha Trời đối với con người là gì? Em cắt trái tim bằng giấy màu đỏ dán vào trong hình quyển Kinh Thánh dưới đây.

C. GIĂNG ĐÃ VIẾT NHỮNG SÁCH GÌ?

Hãy tìm trong những gợi ý phía dưới, sau đó tô màu

Thư Giăng 1, 2, 3.  Tin Lành Giăng    Ma-thi-ơ

Mác   Khải huyền  Lu-ca

BÀI 6. NGƯỜI MÙ ĐƯỢC GẶP CHÚA (GV-HV)

BÀI 6. NGƯỜI MÙ ĐƯỢC GẶP CHÚA (GV-HV)

in ẤU NHI, QUÍ II. 2016 on 4 Tháng Bảy, 2018

 

BÀI 6.  NGƯỜI MÙ ĐƯỢC GẶP CHÚA  (GV)

 I. KINH THÁNH: Giăng 9:1-41.

II. CÂU GỐC: “Chúa Giê-xu đã… mở mắt cho người đó” (Giăng 9:14).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Chúa Giê-xu chữa lành cho người bị mù từ thuở mới sinh.

 – Cảm nhận: Không khinh thường những người bị tàn tật nhưng tìm cách giúp đỡ họ.

 – Hành động: Cảm tạ Chúa vì đã cho em có đôi mắt sáng, đẹp.

VI. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

Mời một em ra ngồi trên ghế trong vòng tròn, lấy khăn che mắt lại, sau đó, mời một em khác ra nói một câu, để em bị che mắt đoán xem bạn nầy là ai; nếu nói đúng, em bị bịt mắt sẽ về chỗ, em kia thay thế. Cứ vậy, trò chơi lại tiếp tục.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

  1. Vào bài.

Một hôm mẹ thấy Mai dùng tay dụi mắt và nói: “Mẹ ơi, mẹ ơi! Mắt con đau lắm!” Mẹ liền bảo: “Con đừng lấy tay dụi vào mắt như vậy, sẽ làm đau mắt thêm đấy. Con nói cho mẹ biết, có phải là cát hay bụi đã vào mắt con không?” Mai vẫn còn thấy khó chịu trong mắt, nên khóc: “Mẹ ơi, lúc nãy con đến vườn hoa chơi cát, có lẽ cát đã vô mắt. Mẹ ơi, đau lắm, con phải làm thế nào đây?” “Con đừng bối rối, hãy nháy mắt lên, xuống. Sau đó, nhắm mắt lại, hạt cát sẽ ra theo nước mắt, con ạ”.

Các em có khi nào bị rơi cái gì vào mắt chưa? Khó chịu lắm, phải không? (Dừng lại một lúc cho các em trả lời). Người bị mù còn khó chịu hơn thế gấp nhiều lần. Hôm nay, chúng ta sẽ nghe câu chuyện về một người bị mù từ thuở mới sinh.

  1. Bài học.

Kinh Thánh cho chúng ta biết có một người kia bị mù từ lúc mới sinh ra. Như vậy, người nầy chưa hề nhìn thấy một điều gì cả. Đối với người, chỉ có một màu đen thôi. Bây giờ các em thử nhắm mắt lại nhé (cho các em nhắm mắt khoảng vài giây). Các em có thấy gì không? Nếu phải nhắm hoài như vậy các em có thấy khó chịu không? Người mù nầy chỉ thấy một màu tối tăm như vậy từ khi được sinh ra. Mỗi ngày, người phải ngồi bên lề đường để ăn xin.

Một hôm, khi đang ngồi ngoài đường để xin ăn, ông nghe thấy tiếng bước chân nhiều người đi tới, tiếng nói lao xao, mỗi lúc một gần hơn. Bỗng ông nghe có tiếng bước chân của một người đến gần mình. Người nầy không nói gì, chỉ dùng một chất vừa ướt vừa dẻo sệt, bôi vào mắt ông. Ông ngạc nhiên và định hỏi là ai và đang làm gì thì nghe tiếng người đó nói: “Ngươi hãy đến ao Si-lô-ê và rửa sạch đi!” Ông không biết người nầy là ai, nhưng ông vâng lời ngay. Đến ao Si-lô-ê, ông lấy nước rửa mắt (sau nầy ông mới biết đó là chất bùn đã được đắp lên mắt mình). Các em biết không, ông vui mừng không thể tả được, bởi vì một việc lạ lùng đã xảy ra! Mắt ông đã nhìn thấy được! Bây giờ ông mới biết cảnh vật chung quanh mình đẹp biết bao! Bầu trời trong xanh, bông hoa rực rỡ sắc màu, người ta thì lớn nhỏ, đẹp xấu, trắng đen, cao thấp… đủ hết! Các em phải cảm ơn Chúa vì các em có cặp mắt sáng, thấy được mọi sự. “Tôi thấy được rồi! Tôi thấy được rồi!” Người mù la lớn lên và chạy một mạch về nhà.

Nhiều người thấy ông, thì liền hỏi: “Có phải anh chính là người bị mù, mỗi ngày ngồi bên lề đường ăn xin đó không?” “Phải, chính là tôi đây. Tôi chính là người mù từ thuở mới sinh và ăn xin mỗi ngày bên lề đường đây”, người trả lời. “Sao lại có việc như vậy? Anh mau nói cho chúng tôi biết ai đã chữa lành đôi mắt của anh”. “Tôi không biết người đó là ai, nhưng người đã lấy bùn xức lên mắt tôi và bảo tôi đi rửa ở ao Si-lô-ê. Tôi làm y theo lời thì được sáng mắt”. Mọi người lấy làm lạ khi nghe người nầy kể.

Nhiều ngày sau, người nầy gặp Chúa Giê-xu mới biết Ngài chính là Đấng đã chữa lành cho mình. Ông biết ơn và cảm tạ Chúa. Ông nhận biết Chúa Giê-xu là Con của Đức Chúa Trời và tin Ngài, sấp mình xuống trước mặt Chúa mà thờ lạy. Từ đó, ông nói việc lạ lùng Chúa đã làm cho nhiều người khác biết.

  1. Ứng dụng.

Các em ạ, mỗi người trong chúng ta phải cảm tạ Chúa vì đã cho chúng ta có đôi mắt sáng, nhìn thấy mọi sự. Chúng ta cũng noi gương Chúa Giê-xu, không khinh thường những người bị bịnh tật, nghèo nàn… nhưng sẵn lòng giúp đỡ họ khi họ cần đến, các em nhé.

Bài 6. NGƯỜI MÙ ĐƯỢC GẶP CHÚA (HV)

I. KINH THÁNH: Giăng 9:1-41

II. CÂU GỐC: “Chúa Giê-xu đã… mở mắt cho người đó” (Giăng 9:14).

BÀI 5. NGƯỜI EM GIAN DỐI (GV-HV)

BÀI 5. NGƯỜI EM GIAN DỐI (GV-HV)

in QUÍ II. 2016, THIẾU NHI on 19 Tháng Tư, 2018

BÀI 5. NGƯỜI EM GIAN DỐI (GV)

 

I. KINH THÁNH: Sáng 25:19-34; 27:1-40.

II. CÂU GỐC: “… Mỗi người trong anh em phải chừa sự nói dối, hãy nói thật với kẻ lân cận mình, vì chúng ta làm chi thể cho nhau” (Ê-phê-sô 4:25).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Sự gian dối làm cho gia đình phân rẽ, anh em ghét nhau.

– Cảm nhận: Tội lỗi phải được xưng ra, ăn năn, cầu xin Chúa tha thứ.

– Hành động: Sống chân thật.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. CHUẨN BỊ.

1. Sưu tầm một số hình ảnh về sự sinh hoạt trong gia đình.

2. Chuẩn bị giấy phát cho các em vẽ hoặc viết ra những câu chuyện nhỏ về gia đình mình, như là:

a. Số người trong gia đình.

b. Nghề nghiệp mỗi người.

c. Người nào vui tính hoặc hay giận nhất?

d. Có nuôi súc vật không? Những con gì?

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

1. Vào đề.

(Thực hiện phần chuẩn bị số 2. Cho cả lớp xem những bức tranh mà các em vẽ, hoặc đọc những điều các em đã viết về gia đình).

Mỗi chúng ta là một thành viên quan trọng trong gia đình, dù gia đình chúng ta lớn hay nhỏ. Vì thế, mỗi việc làm của các em đều ảnh hưởng đến mọi người trong gia đình. Ví dụ như em bịnh, thì ba, mẹ, anh, chị… đều lo lắng. Em học giỏi, mọi người đều mừng, em có nhiều tật xấu, mọi người đều đau khổ… Các em sẽ được thấy rõ điều nầy qua cuộc sống của một gia đình mà Kinh Thánh đã ghi lại. Các em cùng nghe nhé!

2. Bài học.

(1) Gia đình của Y-sác.

Y-sác và Rê-bê-ca kết hôn với nhau, nhưng hai mươi năm sau, họ mới có hai con trai sinh đôi là Ê-sau và Gia-cốp.

Ê-sau và Gia-cốp lớn lên trở thành những chàng thanh niên khỏe mạnh. Tuy là hai anh em sinh đôi, nhưng giữa họ có rất nhiều điểm khác biệt về tính tình và ngoại hình. Ê-sau ưa hoạt động, suốt ngày săn bắn ở ngoài đồng. Gia-cốp thích sống yên lặng, quanh quẩn trong trại, phụ giúp mẹ việc bếp núc hoặc chăn chiên trên những cánh đồng yên ả. Cánh tay của Ê-sau có nhiều lông, còn Gia-cốp thì không có.

(2) Quyền trưởng nam.

Dù là sinh đôi, nhưng Ê-sau chào đời trước, nên chàng là con trưởng nam của Y-sác. Theo tục lệ, con trưởng nam được hưởng gia tài gấp đôi, đặc biệt là thừa kế phước lành Đức Chúa Trời ban cho cha mình. Ê-sau được hưởng tất cả quyền lợi đó. Một hôm nọ, Ê-sau đi săn ở ngoài đồng về, thấy Gia-cốp đang nấu canh. Mùi canh bốc lên thơm quá, Ê-sau vừa mệt vừa đói, liền xin: “Em cho anh ăn canh đậu đó với, vì anh mệt mỏi quá”. Gia-cốp nghĩ ngay đến quyền trưởng nam nên nói: “Anh hãy bán quyền trưởng nam cho em đi, thì em sẽ cho anh ăn”.

Quyền trưởng nam đại diện cho vinh dự và giàu có, nhưng trong lúc đang đói cồn cào như thế nầy, thì quyền trưởng nam đối với Ê-sau không còn giá trị gì nữa. Ê-sau liền đổi quyền trưởng nam cho Gia-cốp, để lấy một bát canh đậu đỏ.

(3) Hành động gian dối.

Thời gian trôi qua, Y-sác ngày càng già đi, mắt đã mù lòa, đến nỗi không nhìn thấy hai con trai của mình, chỉ còn cách nghe giọng nói, hoặc sờ vào tay của họ để nhận biết.

Một ngày kia, Y-sác cho gọi Ê-sau đến và dặn: “Cha đã già rồi, không biết sống chết ngày nào. Bây giờ, con hãy đi ra ngoài đồng săn thịt rừng và làm món mà cha vẫn thích. Ăn xong, cha sẽ chúc phước cho con trước khi chết”. Các em biết không, sự chúc phước của người cha rất quan trọng. Khi người cha chúc phước cho con trai mình yêu thương, thì không thể thay đổi được. Sự chúc phước nầy khác với việc người con trưởng thừa kế tài sản, mà đó là sự chúc phước thuộc linh, theo lời hứa Đức Chúa Trời ban cho Áp-ra-ham.

Khi Y-sác căn dặn Ê-sau, thì Rê-bê-ca nghe được và nói lại với Gia-cốp. Rê-bê-ca muốn Y-sác chúc phước cho Gia-cốp, chứ không phải cho Ê-sau. Bà suy nghĩ cách để giúp cho Gia-cốp nhận được sự chúc phước nầy. Bà gọi Gia-cốp lại và bảo: “Con hãy làm theo lời mẹ biểu. Hãy bắt hai con dê con mập, mẹ sẽ làm thịt và nấu món cha con vẫn thích. Con giả làm Ê-sau bưng vào mời cha ăn, để người chúc phước cho con”.

Nghe kế hoạch của mẹ, Gia-cốp cũng lo lắng vì giữa chàng với anh trai có sự khác biệt nhau. Cha tuy mù lòa nhưng có thể nhận ra giọng nói hoặc sờ vào cánh tay để phân biệt. Thấy con trai lo lắng, Rê-bê-ca có một mưu kế khác. Bà lấy quần áo của Ê-sau cho Gia-cốp mặc, lấy da dê con bao quanh tay và cổ của Gia-cốp (Vì cánh tay của Ê-sau có lông), rồi Gia-cốp bưng thức ăn đến trước mặt cha.

Khi Gia-cốp nói mình là Ê-sau, mời cha ăn thịt thú rừng đã săn được, thì Y-sác ngạc nhiên lắm, hỏi: “Sao con đi săn được mau thế?” Gia-cốp nói dối: “Nhờ Đức Chúa Trời giúp đỡ, nên con săn được mau”.

Trong lòng Y-sác sinh nghi, bảo con mình đến gần để rờ thử có phải là Ê-sau không? Khi Y-sác sờ vào da dê con ở tay và cổ thì nói rằng: “Tiếng nói thì của Gia-cốp, còn hai tay thì của Ê-sau. Con có thật là Ê-sau không vậy?” Gia-cốp vội đáp rằng: “Dạ, con thật là Ê-sau mà!”  

Muốn cho chắc chắn, Y-sác ôm con hôn để ngửi mùi mồ hôi quen thuộc của Ê-sau. Đúng là mùi của Ê-sau, vì Gia-cốp mặc quần áo của Ê-sau. Y-sác nghĩ chắc chắn là Ê-sau, nên sau khi ăn xong đã chúc phước. Y-sác chúc phước cho Gia-cốp mà tưởng rằng mình chúc phước cho Ê-sau. Gia-cốp đi ra thì một lát sau, Ê-sau bưng thức ăn đến cho cha. Khi biết Gia-cốp đã gian dối, lừa cha để cướp lấy phước lành của mình, thì Ê-sau khóc, cay đắng, và thù ghét Gia-cốp đến nỗi muốn giết chết em mình. Chắc chắn rằng từ đó trở về sau, tình cảm những người trong gia đình không còn như xưa nữa.

3. Ứng dụng.

Các em thân mến! Gia-cốp và mẹ đã gian dối, khiến tình cảm gia đình bị sứt mẻ. Dù hai mẹ con biết rõ Đức Chúa Trời chọn lựa Gia-cốp ngay khi còn trong bụng mẹ, nhưng không tin cậy mà lo sợ, nên đã gian dối. Nếu Rê-bê-ca và Gia-cốp đem những suy nghĩ của mình trình bày với chồng, với cha, thì sự việc có lẽ sẽ khác. Các em có nhận thấy làm như vậy là tốt hơn so với nói dối, và lừa gạt không?

Có khi nào lời nói, việc làm của các em đã ảnh hưỏng đến những người thân trong gia đình không? Lời nói dối khi bị phát hiện sẽ làm cho người khác khó chịu, tức giận, và có cảm giác bị lừa dối. Nếu các em đã làm những việc nầy, thì xin Chúa tha thứ và nhờ cậy Chúa để biết sống chân thật, không những với người thân trong gia đình, mà với bạn bè và mọi người chung quanh. Người biết sống chân thật luôn được mọi người yêu mến và tin tưởng, nhưng trên hết là được Đức Chúa Trời ban phước. Mời các em đọc câu gốc tuần nầy.

 

 

BÀI 5. NGƯỜI EM GIAN DỐI (HV)

 

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 25:19-34; 27:1-40.

II. CÂU GỐC: “Như vậy, mỗi người trong anh em phải chừa sự nói dối, hãy nói thật với kẻ lận cận mình, vì chúng ta làm chi thể cho nhau” (Ê-phê-sô 4:25).

III. BÀI TẬP.

1. Em hãy liệt kê sự khác nhau giữa Ê-sau và Gia-cốp.

Ê-SAU:

1. Ngoại hình:……………………………………………………………….

2. Cá tính:……………………………………………………………………

3. Nghề nghiệp:…………………………………………………………….

4. Tính xấu:………………………………………………………………….


GIA-CỐP:

1. Ngoại hình:…………………………………………………………………..

2. Cá tính:………………………………………………………………………..

3. Nghề nghiệp:…………………………………………………………………

4. Tính xấu:……………………………………………………………………..

2. Lưới tội lỗi.

Dưới đây là một lưới nhện, tượng trưng cho lưới tội lỗi. Em hãy nối liền các tội lỗi mà Gia-cốp và Rê-bê-ca đã phạm, theo thứ tự.

3. Hãy vẽ những người trong gia đình em và viết một đôi nét về tính tình đặc biệt của họ.

 

 

 

 

 

BÀI 5. LỜI HỨA CỨU CHÚA GIÁNG SINH (GV-HV)

BÀI 5. LỜI HỨA CỨU CHÚA GIÁNG SINH (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ II. 2016 on 18 Tháng Tư, 2018

BÀI 5. LỜI HỨA CỨU CHÚA GIÁNG SINH (GV)

 

I. KINH THÁNH: Ê-sai 7:14; Ma-thi-ơ 1:18-25.

I. CÂU GỐC: “Vì Đấng đã hứa cùng chúng ta là thành tín” (Hê-bơ-rơ 10:23).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Lời hứa của Đức Chúa Trời được thực hiện.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời luôn làm thành lời hứa của Ngài.

– Hành động: Em tin vào lời hứa của Đức Chúa Trời.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Cắt hình giáng sinh.

1. Chuẩn bị một số thiệp giáng sinh cũ, trong đó phải có Giô-sép, Ma-ri, thiên sứ và Hài Nhi Giê-xu.

2. Phát cho mỗi em một tấm thiệp cũ, cho các em chọn nhân vật, đồ vật mình thích và cắt ra, nhưng phải có các nhân vật: Giô-sép, Ma-ri, Hài Nhi Giê-xu và thiên sứ; số lượng tùy ý. Có thể trao đổi thiệp giáng sinh. Giáo viên lưu ý, trong các hình được cắt ra, phải chọn hình Giô-sép, Ma-ri, thiên sứ, Hài Nhi Giê-xu, để lại mỗi thứ một hình, khi dạy bài sẽ sử dụng.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Chuẩn bị: Phấn, bảng, hình: Giô-sép, thiên sứ, Ma-ri, Hài Nhi Giê-xu được cắt ra trong phần “Sinh hoạt đầu giờ”).

 1. Vào đề.

Mỗi năm, cứ đến tháng mười hai, người ta lại nhộn nhịp chuẩn bị giáng sinh, người ta gởi thiệp chúc mừng giáng sinh, đi chơi giáng sinh, tặng quà giáng sinh, thế em có biết vì sao người ta vui mừng không? (Cho các em trả lời). Đúng rồi, vui mừng vì Chúa Giê-xu giáng sinh. Nhưng có nhiều người vui chơi, chúc mừng nhau trong dịp giáng sinh mà không biết vì sao lại chúc mừng! Chúa Giê-xu giáng sinh thật là một điều kỳ diệu. Cô (thầy) sẽ kể cho các em nghe để biết sự kỳ diệu đó như thế nào nhé.

2. Bài học.

Hơn hai nghìn năm trước, dân Do-thái bị người La-mã cai trị, cuộc sống rất khốn khổ. Họ mong muốn Đức Chúa Trời ban cho một Đấng Cứu Thế như Ngài đã hứa. (Viết chữ “Chúa Cứu Thế” lên bảng).

Lúc ấy tại làng Na-xa-rét có một chàng thanh niên làm nghề thợ mộc tên là Giô-sép (dán hình Giô-sép trong phần “Sinh hoạt đầu giờ” lên bảng), rất tốt bụng và hiền lành. Nhưng hiện tại Giô-sép rất buồn, anh không hiểu vì sao một sự việc như vậy lại xảy ra? Hàng trăm nghìn câu hỏi cứ lẩn quẩn trong đầu anh mà không có lời giải đáp. Tại sao Giô-sép lại buồn phiền như vậy? Thì ra, Giô-sép vừa biết Ma-ri đã có thai! Ma-ri là ai? Đó là vị hôn thê của Giô-sép. Giô-sép và Ma-ri đã đính hôn, nhưng chưa cưới. Giô-sép tự hỏi: Tại sao Ma-ri lại có thai? Đứa con trong bụng Ma-ri từ đâu mà đến? Mình có nên làm đám cưới với Ma-ri không? Hay là bãi bỏ hôn ước? Nhưng làm như vậy có khiến cho cô ấy bị tổn thương không?

Mệt mỏi vì phải suy nghĩ quá nhiều, Giô-sép ngủ thiếp đi. Trong giấc mơ, Giô-sép thấy thiên sứ nói cùng mình rằng: “Hỡi Giô-sép, đừng lo buồn, cũng đừng ngại cưới Ma-ri làm vợ. Vì cô ấy chịu thai bởi Thánh Linh. Ma-ri sẽ sinh một con trai, hãy đặt tên là Giê-xu, vì Ngài sẽ cứu dân mình ra khỏi tội lỗi”. Sự việc nầy xảy ra đúng như lời tiên tri của Ê-sai: “Một gái đồng trinh sẽ chịu thai và đặt tên là Em-ma-nu-ên”. Ngày xưa Đức Chúa Trời hứa ban một Đấng Cứu Thế, ngày nay Ngài dùng Ma-ri để thực hiện lời hứa của Ngài.

Các em có biết ai vừa nói với Giô-sép không? (Cho các em trả lời). Đúng rồi, là thiên sứ! (Dán hình thiên sứ lên bảng). Thiên sứ là sứ giả của Đức Chúa Trời, được Đức Chúa Trời sai đến để nói chuyện với con người. Sau khi nghe thiên sứ nói những lời đó, đố em, phản ứng của Giô-sép như thế nào? (Cho các em trả lời). Giô-sép không còn buồn phiền mà rất phấn khởi, bởi vì Cứu Chúa mà người Do-thái hằng trông đợi đã đến! Và Giô-sép sẽ là cha nuôi của Ngài.

Giô-sép làm theo lời thiên sứ, cưới Ma-ri làm vợ. Sau đó, Ma-ri sinh một con trai, Giô-sép đặt tên là “Giê-xu”. (Dán hình Ma-ri và Hài Nhi Giê-xu lên bảng).

Việc Đức Chúa Trời làm thật là kỳ diệu phải không các em? Lời hứa của Ngài nhất định được thực hiện. Đức Chúa Trời hứa ban Chúa Cứu Thế, và Ngài đã làm thành lời hứa của Ngài. Ngoài lời hứa nầy, Kinh Thánh còn ghi lại rất nhiều lời hứa của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời là Đấng thành tín, những lời Ngài hứa, chắc chắn Ngài sẽ thực hiện. Các em có tin không? (Cho các em trả lời).

3. Ứng Dụng.

Cho các em mở sách học viên bài 5 và hướng dẫn các em hoàn tất bài tập phần A.

Sau đó, giáo viên đọc những lời hứa trong Kinh Thánh dưới đây (khi đọc nhớ cầm Kinh Thánh trên tay). Mỗi lần đọc xong một lời hứa, giáo viên hỏi các em: Em có tin Đức Chúa Trời sẽ thực hiện lời hứa nầy không? Tại sao?

a. “Ta ở cùng ngươi, ngươi đi đâu sẽ theo gìn giữ đó” (Sáng Thế Ký 28:15).

b. “Dầu núi dời, dầu đồi chuyển, nhưng lòng nhân từ ta đối với ngươi chẳng dời khỏi ngươi” (Ê-sai 54:10).

c. “Hãy xin, sẽ được, hãy tìm, sẽ gặp; hãy gõ cửa, sẽ mở cho” (Ma-thi-ơ 7:7).

d. “Hãy tôn kính cha mẹ ngươi, hầu cho ngươi được phước và sống lâu trên đất” (Ê-phê-sô 6:2,3).

e. “Vì ai kêu cầu danh Chúa thì sẽ được cứu” (Rô-ma 10:13).

Trong bài tập phần B, hướng dẫn các em điền vào chỗ trống cho hợp nghĩa. Cuối cùng giáo viên cầu nguyện kết thúc.

 

 

BÀI 5. LỜI HỨA CỨU CHÚA GIÁNG SINH (HV)

 

I. KINH THÁNH: Ê-sai 7:14; Ma-thi-ơ 1:18-25.

II. CÂU GỐC: “Vì Đấng đã hứa cùng chúng ta là thành tín” (Hê-bơ-rơ 10:23).

III. BÀI TẬP.

A. KINH THÁNH CHÉP.

Chọn những sự việc Kinh Thánh từng ghi lại, dán giấy cắt dán quyển “Kinh Thánh” vào đó.

  1. Ê-sai từng nói tiên tri về Chúa Giê-xu giáng sinh.
  2. Chúa Giê-xu thật đã giáng sinh.
  3. Đi lên mặt trăng.
  4. Đức Chúa Trời dựng nên trời đất.

B. ĐIỀN VÀO CHỖ TRỐNG.

Em xem gợi ý, tìm từ thích hợp điền vào chỗ trống.

…………………………… ghi lại …………………………………. của Đức Chúa Trời. Những lời Ngài hứa, chắc chắn sẽ ………………………………………. bởi vì Đức Chúa Trời là Đấng ……………………………….

* Gợi ý: Kinh Thánh      Thành tín       Thực hiện        Lời hứa   Đức Chúa Trời

BÀI 5. CHÚA LÀM PHÉP LẠ TRONG TIỆC CƯỚI (GV-HV)

BÀI 5. CHÚA LÀM PHÉP LẠ TRONG TIỆC CƯỚI (GV-HV)

in ẤU NHI, QUÍ II. 2016 on 12 Tháng Ba, 2018

BÀI 5. CHÚA LÀM PHÉP LẠ TRONG TIỆC CƯỚI

KINH THÁNH: Giăng 2:1-11.

CÂU GỐC: “Chúa giúp đỡ tôi” (Hê-bơ-rơ 13:6)

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Chúa Giê-xu là Con của Đức Chúa Trời, nên Ngài có quyền năng đặc biệt, biến nước thành rượu.

– Cảm nhận: Chúa Giê-xu là Đấng giúp đỡ chúng ta trong mọi khó khăn.

– Hành động: Noi gương tốt của Chúa Giê-xu, lấy lòng yêu thương giúp đỡ người khác những gì mình có thể làm.

PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

– Chia các em ra làm 3 nhóm: Một nhóm làm người hầu, làm theo lời Chúa Giê-xu dặn đổ nước; một nhóm làm kẻ coi bàn tiệc, đem rượu cho khách; một nhóm làm khách đến dự tiệc.

– Dùng 6 cái ca nhựa làm 6 cái ché đá.

– Cho các em diễn giống như câu chuyện Kinh Thánh.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

1. Vào đề.

Chuông cửa reo lên. A! Ba đi làm về. Trên tay của ba ngoài cái xách tay còn có một tấm thiệp mời màu đỏ (đưa tấm thiệp mời cho các em xem).

Thông nhìn thấy thiệp mời liền hỏi ba “Ai mời mình dự tiệc vậy ba? Con và em có được đi dự không?” Ba mỉm cười nhìn Thông, nói: “Con thử đoán xem, người này là họ hàng và thường xuyên đến thăm chúng ta”. Mai, em của Thông, nhanh chóng giành trả lời: “Con biết, đây là đám cưới của dì Lệ, mời nhà mình đi dự  tiệc”. “Mai, con đoán đúng rồi”, ba gật gù nói, “Thứ bảy tuần này, đám cưới được tổ chức tại nhà thờ vào buổi chiều và buổi tối đãi tiệc. Các con cũng được mời dự nữa đó”. “A, thích quá!” Thông và Mai reo to lên.

Được dự lễ cưới là chuyện rất vui, đặc biệt là hai em thích dự lễ cưới tại nhà thờ.

Các em ơi, các em có theo cha mẹ đi dự lễ cưới lần nào chưa? Các em có nhớ bài hát nào trong đám cưới không? Có nhớ chú rể và cô dâu đãi tiệc ở đâu không? Chắc là có một số điều các em khó quên trong ngày vui đó, phải không?

2. Bài học.

Hôm nay cô (thầy) sẽ kể cho các em nghe câu chuyện Chúa Giê-xu cũng đã đi dự một tiệc cưới.

Một ngày nọ, tại thành Ca-na xứ Ga-li-lê, Chúa Giê-xu và bà Mari – mẹ của Ngài – được mời đi dự một tiệc cưới. Các môn đồ của Chúa cũng đi nữa.

Trong lúc mọi người đang ăn uống vui vẻ thì rượu lại hết. Các em biết không, thời bấy giờ, trong tiệc cưới, rượu là thức uống quan trọng lắm. Đang vui vẻ mà lại hết rượu thì mất vui. Mẹ của Chúa Giê-xu biết rằng Ngài có thể giúp được họ trong lúc nầy, nên bà liền đi tìm Chúa. Khi gặp rồi, bà nói nhỏ với Chúa Giê-xu là đã hết rượu trong tiệc cưới.

Chúa đã biết việc đó trước khi nghe bà  nói. Bà  biết rằng Chúa Giê-xu là Đấng có quyền và sẵn sàng giúp đỡ, nên nói với những người hầu bàn: “Ngài bảo gì, phải làm như vậy”.

Này các em, các em thử đoán xem, Chúa Giê-xu sẽ làm gì để giúp họ? (Dừng một chút cho các em trả lời). Chúa đã làm một việc rất lạ lùng. Chúa không đưa tiền để những người hầu bàn đi mua rượu, Ngài cũng không có rượu sẵn để cho họ, nhưng Ngài bảo họ múc nước đổ đầy vào 6 cái ché đá (ché đá là những đồ dùng để chứa nước). Sau khi họ làm xong, Chúa Giê-xu bảo họ: “Bây giờ các ngươi hãy múc ra, đem dọn lên bàn tiệc!” Họ vâng lời Chúa. Ồ, một điều kỳ lạ đã xảy ra! Nước trong những cái ché đá đó bây giờ đã biến thành rượu, mà lại là rượu ngon nữa! Những người dự tiệc vui lắm khi được chủ nhà đãi họ một loại rượu ngon đến như thế.

Những người nhìn thấy Chúa Giê-xu làm phép lạ không nhiều, nhưng họ cũng biết việc làm của Ngài là việc con người không thể làm được, còn các môn đồ thì tin Ngài chính là Con của Đức Chúa Trời, vì chỉ có như vậy, Chúa Giê-xu mới hóa nước thành rượu được.

3. Ứng dụng.

Các em ơi, Chúa Giê-xu không chỉ giúp cho những người ngày xưa thôi mà còn giúp cho chúng ta bây giờ nữa. Vì vậy, nếu có sự khó khăn nào, ví dụ như bị bệnh, sợ hãi… các em nên kêu cầu cùng Chúa, Ngài sẵn lòng giúp đỡ các em. Các em cũng nên noi gương Chúa Giê-xu giúp đỡ người khác khi họ cần, các em nhé.

 

Bài 5. CHÚA LÀM PHÉP LẠ TRONG TIỆC CƯỚI (HV)

I. KINH THÁNH: Giăng 2:1-11.

II. CÂU GỐC: “Chúa giúp đỡ tôi” (Hê-bơ-rơ 13:6)