Tác giả: andynguyen

BÀI 2. NGƯỜI DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA CỨU THẾ (GV-HV)

BÀI 2. NGƯỜI DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA CỨU THẾ (GV-HV)

in ẤU NHI, QUÍ III. 2016 on 13 Tháng Bảy, 2018

BÀI 2. NGƯỜI DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA CỨU THẾ (GV)

 I. KINH THÁNH: Lu-ca 1:5-25; 3:1-18.

II. CÂU GỐC: “Ta sai sứ giả Ta, người sẽ dọn đường trước mặt Ta” (Ma-la-chi 3:1a).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Đức Chúa Trời chuẩn bị Giăng Báp-tít là người dọn đường cho Chúa Cứu Thế.

– Cảm nhận: Chúa luôn chuẩn bị mọi sự cho cuộc sống của em.

– Hành động: Em tin Chúa luôn chuẩn bị cuộc sống tốt lành cho em.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Chúa Chuẩn Bị Mọi Sự Cho Cuộc Sống Em.

1. Mục đích: Giúp các em biết Chúa chuẩn bị mọi sự tốt nhất cho cuộc sống các em.

2. Chuẩn bị: Giấy màu, giấy trắng, viết chì màu, viết chì.

3. Thực hiện: Giáo viên cho các em biết Chúa chuẩn bị mọi sự cho cuộc sống của em trước khi em sinh ra (Ngài tạo dựng và ban mọi sự cho con người), vậy em biết những điều đó là gì không? Giáo viên cho các em biết mọi thứ các em có như áo quần, đồ ăn là từ Chúa ban.

Cho các em vẽ ra những gì Chúa đã ban cho mình, ví dụ: áo quần, thức ăn, trái cây…

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

1. Vào đề.

Khi một vị chủ tịch nước đến thăm một nước khác, thì phải gửi một viên chức cao cấp đến trước để thảo luận và chuẩn bị nhiều việc như: Sắp xếp chỗ ở, chuẩn bị lễ đón tiếp, lịch tham quan các nơi… Tóm lại, chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng để đón tiếp vị chủ tịch. Trước khi Chúa Giê-xu đến, Đức Chúa Trời cũng sai một người đến để dọn đường cho Ngài. Các em đoán thử người đó là ai? (Các em trả lời). Bài học hôm nay sẽ cho các em biết ông ta là ai nha!

2. Bài học

Tại thành Giê-ru-sa-lem có một thầy tế lễ tên Xa-cha-ri và vợ là Ê-li-sa-bét rất yêu mến và kính sợ Đức Chúa Trời. Ông bà mong ước có một đứa con, họ cầu khẩn với Chúa.

Một hôm, Xa-cha-ri đi vào đền thờ để cầu nguyện. Bỗng thiên sứ của Chúa hiện ra cùng Xa-cha-ri và nói: “Xa-cha-ri, đừng sợ! Vì lời cầu nguyện của ông đã được Đức Chúa Trời nghe rồi. Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sanh một con trai, ông hãy đặt tên là Giăng”. Xa-cha-ri bối rối nói: “Sao tôi biết được điều đó?” Thiên sứ đáp: “Ngươi xin mà còn nghi ngờ nên sẽ bị câm cho đến lúc Giăng sanh ra”. Xa-cha-ri kể điều đó cho vợ nghe và chờ đợi.

Thời gian sau, Giăng ra đời bà con hàng xóm đến thăm. Theo tục lệ, người ta muốn đặt tên đứa trẻ giống họ cha, nhưng bà Ê-li-sa-bét nói: “Không! Phải đặt tên con là Giăng”. Mọi người ngạc nhiên nói: “Trong vòng bà con đâu có ai có tên đó”.

Họ ra dấu hỏi Xa-cha-ri, ông lấy một tấm bảng nhỏ rồi viết: “Tên nó là Giăng”. Mọi người vô cùng ngạc nhiên. Kinh Thánh cho biết khi Xa-cha-ri vừa viết xong, bỗng nhiên ông nói được. Vui mừng, ông ca ngợi Đức Chúa Trời.

Giăng là người khỏe mạnh, sống trong đồng vắng, cuộc sống của ông rất đơn giản, chỉ ăn châu chấu, cây trái và mật ong rừng, mặc áo bằng da lạc đà.

Giăng Báp-tít đến bờ sông Giô-đanh và tuyên bố với dân chúng: “Tôi là người dọn đường cho Chúa Cứu Thế, Ngài là Chiên Con của Đức Chúa Trời, Đấng đến để cất tội lỗi của thế gian”.

3. Ứng dụng.

Giăng Báp-tít là người dọn đường cho Đấng Christ, ông tuyên bố Chúa Giê-xu là Chiên Con của Đức Chúa Trời, đến để cất tội lỗi của thế gian. Các em muốn tin nhận Chúa Giê-xu để Ngài đem em ra khỏi tội lỗi không?

* Chuẩn bị.

– Kéo, keo, viết chì màu, viết chì.

* Thực hiện.

– Cho các em tô màu hình vẽ.

BÀI 2. NGƯỜI DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA CỨU THẾ (HV)

 I. KINH THÁNH: Lu-ca 1: 5-25; 3:1-18.

II. CÂU GỐC: “Ta sai sứ giả Ta, người sẽ dọn đường trước mặt Ta” (Ma-la-chi 3:1a).

III. BÀI HỌC: Đức Chúa Trời chuẩn Giăng Báp-tít là người dọn đường cho Chúa Cứu Thế.

III. BÀI TẬP: Cho các em tô màu hình vẽ.

 

BÀI 1. NO MẤT NGON, GIẬN MẤT KHÔN! (GV-HV)

BÀI 1. NO MẤT NGON, GIẬN MẤT KHÔN! (GV-HV)

in QUÍ III. 2016, THIẾU NHI on 12 Tháng Bảy, 2018

BÀI 1. NO MẤT NGON, GIẬN MẤT KHÔN! (GV)

I. KINH THÁNH: Dân Số Ký 20:1-13.

II. CÂU GỐC: “Ví bằng anh em đương cơn giận, thì chớ phạm tội; chớ căm giận cho đến khi mặt trời lặn” (Ê-phê-sô 4:26).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Môi-se tức giận nên không vâng theo lời phán dạy của Đức Chúa Trời.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời có thể giúp các em chế ngự được cơn giận của mình.

– Hành động: Tìm hiểu xem phải làm gì khi nổi giận để có thái độ, lời nói và hành động xứng hợp là con cái Chúa.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

Tìm trong tạp chí và sách vở những hình mặt nạ người. Thử nhận xét vẻ mặt của những mặt nạ đó (buồn, vui, giận dữ…) Nếu không có thì tự làm bằng giấy bìa cứng (cắt thành hình tròn rồi vẽ nét mặt lên).

B. BÀI HỌC KINH THÁNH

  1. Vào đề

Các em thân mến! Ai cũng có những cảm xúc trong lòng hết, phải không? Có lúc chúng ta vui, có lúc buồn, có lúc giận dữ… Người khác có thể nhìn thấy cảm xúc của chúng ta qua hành động, thậm chí chỉ cần qua nét mặt cũng có thể biết được.

Khi cảm xúc chúng ta trào dâng, như vui quá, giận quá… những lúc đó sẽ ảnh hưởng đến hành động rất nhiều. (Cho các em lần luợt xem những mặt nạ có cảm xúc khác nhau, và tự các em nhận xét về vẻ mặt đó).

Kinh Thánh nói: “Lòng khoái lạc làm cho mặt mày vui vẻ; nhưng tại lòng buồn bã trí liền bị nao sờn” (Châm Ngôn 15:13).

Trong bài học mới nầy, các em biết Kinh Thánh giúp các em kềm chế những cảm xúc đó như thế nào? Dân Y-sơ-ra-ên khi gặp khó khăn đã hành động như thế nào? Đức Chúa Trời đã cho họ bài học gì từ kinh nghiệm đó?

  1. Bài học.

(1) Nguyên nhân dẫn đến sự tức giận.

  1. Không có nước uống.

Khi dân Y-sơ-ra-ên ở trong đồng vắng, họ không thể tìm được nước uống. Bây giờ, các em cùng quan sát đồng vắng, nơi họ đến nhé! (Hướng dẫn các em tìm vị trí của đồng vắng Sin và Ca-đe trên bản đồ). Họ đã đến gần đất hứa mà Chúa ban cho.

Dân Y-sơ-ra-ên dừng lại ở Ca-đe. Bây giờ, họ đang đối diện với một số khó khăn nghiêm trọng, đó là việc không tìm ra nước. Nếu tình trạng nầy kéo dài, thì mọi người và súc vật sẽ chết khát.

Khi dân Y-sơ-ra-ên nhìn thấy những nguồn nước đã khô cạn, họ bắt đầu thốt ra những lời cằn nhằn, tức giận với Môi-se: “Tại sao ông đem chúng tôi vào sa mạc để chết khát? Tại sao ông bắt chúng tôi rời bỏ Ai-cập để vào nơi khô cằn sỏi đá nầy?” Tại sao và tại sao???

Khi Môi-se và A-rôn nghe những lời trách móc của họ, thì rất giận. Thật ra việc không có nước đâu phải do lỗi của hai ông. Hai ông chỉ làm theo lời của Đức Chúa Trời dẫn dắt họ đến vùng đất hứa mà thôi.

Môi-se và A-rôn rời dân sự và đến chầu trước cửa đền tạm. (Các em đã biết rõ đền tạm trong bài học trước rồi!). Hai ông thưa với Đức Chúa Trời về việc không có nước.

Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: “Hãy cầm lấy cây gậy của A-rôn rồi truyền dân chúng tập trung lại. Trước mặt họ, con sẽ bảo vầng đá kia phun nước ra. Con sẽ cho họ và gia súc uống nước từ vầng đá!”.

Chỉ thị của Đức Chúa Trời thật rõ ràng, không có gì khó hiểu hết, phải không các em? Đức Chúa Trời sắp sửa làm một phép lạ kỳ diệu: Môi-se chỉ cần bảo vầng đá thì nuớc sẽ chảy ra từ vầng đá giữa sa mạc khô hạn.

  1. Không kềm chế cảm xúc.

Lúc mới bắt đầu, Môi-se làm đúng lời dặn của Đức Chúa Trời. Ông bảo dân chúng nhóm lại trước một vầng đá, rồi cầm cây gậy của A-rôn trong tay. Môi-se nhìn xuống hội chúng, thấy vẻ mặt giận dữ và lời nói lằm bằm thốt ra từ  miệng họ, ông nổi giận (Đưa hình mặt nạ giận dữ ra). Kinh Thánh thuật lại câu nói của ông: “Hỡi dân phản nghịch! Hãy nghe, chúng ta há dễ khiến nước chảy từ hòn đá nầy ra cho các ngươi được sao?” Sự tức giận khiến ông không kiểm soát được hành động của mình. Môi-se giơ cậy gậy lên cao, đập vào vầng đá hai lần: Bốp… bốp… Ngay lập tức nước từ vầng đá phun ra lai láng, dân chúng sung sướng vội uống lấy uống để, cả súc vật của họ cũng uống nữa.

Giờ thì vấn đề nước uống đã được giải quyết, nhưng vấn đề rắc rối lại rơi vào Môi-se và A-rôn. Em nào phát hiện được sự rắc rối đó? (Cho các em trả lời). Hai ông làm sai lời của Đức Chúa Trời. Ngài dặn rằng chỉ cần bảo với vầng đá thì nước sẽ phun ra, nhưng Môi-se đã dùng gậy đập vào hòn đá không chỉ một lần mà tới hai lần. Hành động đó xảy ra không phải Môi-se cố ý mà vì ông nhất thời giận dữ, không làm chủ được hành động của mình.

Đức Chúa Trời muốn Môi-se phải bình tĩnh giải quyết sự việc, có như vậy mới giúp dân chúng hiểu được Môi-se vì tin cậy Đức Chúa Trời nên Ngài thực hiện phép lạ ban cho nguồn nước. Nhưng Môi-se đã để cơn giận bùng lên khiến ông làm sai lời Chúa. Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và A-rôn: “Bởi vì hai ngươi không có tin đến Ta, đặng tôn Ta nên thánh trước mặt dân Y-sơ-ra-ên, vì cớ đó, hai ngươi sẽ không đem hội chúng nầy vào xứ mà Ta đã cho nó đâu” (Dân Số Ký 20:12). Đức Chúa Trời là thánh khiết, không làm vinh hiển danh Ngài là một tội lỗi nghiêm trọng.

Môi-se dẫn dắt dân Y-sơ-ra-ên đã gần bốn mươi năm, bây giờ ông không được bước chân vào đất hứa. Nóng giận là một trong những thất bại của Môi-se. Nói như thế có nghĩa là những người tin Chúa sẽ không biết giận dữ sao? Có người nào mà trong suốt cuộc đời không nổi giận dù chỉ một lần? Các em nên biết nóng giận là bản tính sẵn có của con người, chỉ khác nhau ở chỗ người biết kềm chế, người không biết.

Hãy xem tình cảnh của Môi-se lúc đó, có biện pháp nào giúp ông kềm chế sự nóng giận không? (Cho các em trả lời. Biện pháp tốt nhất là xin Chúa giúp đỡ: “Chúa ơi! Ngài đã làm mọi điều cho dân nầy, nhưng họ lằm bằm làm cho con tức giận quá! Xin giúp con kềm chế sự nóng giận để con làm vinh hiển Danh Ngài”).

Dù Môi-se và A-rôn phạm tội, nhưng Chúa vẫn thực hiện phép lạ như lời hứa. Ngài vẫn ban cho họ nước uống, làm cho họ một lần nữa biết rằng Đức Chúa Trời luôn lo lắng và yêu thương con cái của Ngài.

  1. Ứng dụng.

Trong trường học cũng như trong gia đình, luôn có những việc làm các em nổi giận, phải không? (Cho các em đưa ra dẫn chứng thực tế từ cuộc sống hằng ngày để tham khảo. Ví dụ: Người bạn của em lại nói xấu em với những bạn khác, bạn bè chế giễu khuyết điểm của em, hay em trai của em làm hư bài thủ công mà ngày mai em phải đem nộp, hoặc cô giáo của em đã xử sự không công bằng, chưa hiểu rõ việc gì đã mắng em).

Các em có nghĩ rằng nóng giận cũng là một tội lỗi không? (Các em có thể tham khảo Ê-phê-sô 4:26). Khi nóng giận, các em thường làm gì? Khi làm việc đó, các em cảm thấy mình phạm tội không? Tại sao? (Cho các em trả lời. Giúp các em hiểu rằng, phải nhìn nhận sự giận dữ của mình. Sau đó cầu nguyện xin Chúa giúp mình kềm chế cơn giận và làm một việc gì đó như đọc Kinh Thánh, thu dọn nhà cửa, nghe nhạc… để quên những bực tức trong lòng).

Kinh Thánh dạy chúng ta cách xử sự khi nóng giận. Hãy xem câu gốc của bài nầy.

“Ví bằng anh em đương cơn giận, thì chớ phạm tội; chớ căm giận cho đến khi mặt trời lặn” (Ê-phê-sô 4:26). Nếu các em giận qua ngày mai, các em thấy như thế nào? (Để các em phát biểu ý kiến. Phải giải thích cho các em hiểu rõ là “giận qua ngày mai” sẽ dẫn đến việc càng suy nghĩ cơn giận càng tăng thêm).

Không thể để cơn giận kéo dài mà phải giải quyết dứt khoát càng nhanh càng tốt. Các em có thể tâm sự cùng cha mẹ, cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời về cảm nhận của mình, cầu xin Đức Chúa Trời giúp các em luôn nhớ và làm theo lời Ngài: “Ví bằng anh em đương cơn giận, thì chớ phạm tội; chớ căm giận cho đến khi mặt trời lặn” (Ê-phê-sô 4:26).

Bài 1. NO MẤT NGON, GIẬN MẤT KHÔN (HV)

 I. KINH THÁNH: Dân Số Ký 20:1-13.

II. CÂU GỐC: “Ví bằng anh em đương cơn giận, thì chớ phạm tội; chớ căm giận cho đến khi mặt trời lặn” (Ê-phê-sô 4:26).

III. BÀI TẬP.

1. Có lúc em cũng tức giận.

Trong bài học Kinh Thánh hôm nay, Môi-se đã hết sức tức giận. Có khi nào em cảm thấy mình tức giận như Môi-se không? Ai cũng có lúc nổi giận, vì đó là một trong những bản tính của con người, nhưng có người biết kềm chế và có người không biết kềm chế. Em điền vào phần 1 và phần 2 của bản thăm dò dưới đây.

1. Thể hiện tâm trạng của em.

Tùy theo hoàn cảnh chung quanh mà em có những tâm trạng khác nhau: Vui, buồn, hờn, giận, mơ màng… Đôi khi người khác nhìn vào vẻ mặt cũng có thể đoán được em đang ở trong tâm trạng nào. Em đã từng ở trong tâm trạng phẫn nộ, khiếp sợ, vui vẻ, cô đơn, buồn bã???

Hãy chọn hai hay ba tâm trạng kể trên, rồi vẽ nét mặt diễn tả tâm trạng đó vào các hình người trên. Nếu vẽ thêm tay, chân, thân người thì càng tốt.

3. Thể hiện tâm trạng của em.

Tùy theo hoàn cảnh chung quanh mà em có những tâm trạng khác nhau: Vui, buồn, hờn, giận, mơ màng… Đôi khi người khác nhìn vào vẻ mặt cũng có thể đoán được em đang ở trong tâm trạng nào.

Em đã từng ở trong tâm trạng phẫn nộ, khiếp sợ, vui vẻ, cô đơn, buồn bã???

 

 

 

 

Hãy chọn hai hay ba tâm trạng kể trên, rồi vẽ nét mặt diễn tả tâm trạng đó vào các hình người trên. Nếu vẽ thêm tay, chân, thân người thì càng tốt.

 

 

 

 

 

 4. Suy gẫm câu gốc tuần nầy.

Căm giận là ẩn chứa sự phẫn nộ trong lòng, nhưng chưa bộc phát ra. Nếu em đang căm giận, có nên giữ mãi trong lòng không? Câu Kinh thánh nầy dạy em phải làm gì? Vì sao phải làm như vậy?

……………………………………………………………………………………..

……………………………………………………………………………………..

……………………………………………………………………………………..

Bài 1. NGƯỜI CHĂN CHIÊN (GV-HV)

Bài 1. NGƯỜI CHĂN CHIÊN (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ III. 2016 on 12 Tháng Bảy, 2018

Bài 1. NGƯỜI CHĂN CHIÊN (GV)

 I. KINH THÁNH: Thi Thiên 23:1-3.

II. CÂU GỐC: “Đức Giê-hô-va là Đấng chăn giữ tôi, tôi sẽ chẳng thiếu thốn gì” (Thi Thiên 23:1).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Đa-vít ca ngợi và cảm tạ Đức Chúa Trời đã yêu thương, chăm sóc ông như người chăn yêu thương, chăm sóc chiên.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời yêu thương em vô cùng, Ngài ban cho em đủ mọi nhu cầu trong cuộc sống.

– Hành động: Cám ơn Chúa đã yêu thương và chăm sóc em.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

B. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

Bối cảnh thời đại Kinh Thánh.

1. Vật liệu: Một tấm giấy dày (hoặc bảng), 6 tờ giấy màu cắt thành băng dài, bút màu, keo dán.

2. Thực hiện: Giáo viên vẽ theo mẫu sau đây lên giấy màu, sau đó cắt ra và dán lên bảng (xem hình).

* NGƯỜI CHĂN CHIÊN.

1. Mục đích: Giúp các em biết công việc chăm sóc chiên của người chăn để thấy được chân lý trong Thi Thiên 23:1-3.

2. Vật liệu: Giấy cứng, dây kẽm, xốp hoặc bông gòn, vải trắng, kéo, viết, keo dán, đất sét.

3. Thực hiện:

Giáo viên chuẩn bị trước bốn tờ giấy cứng (xem tập học viên bài 27) và hình người chăn chiên theo chỉ dẫn sau đây:

 

– Giờ học, chia các em thành 4 tổ, mỗi tổ làm một loại đề mục.

* Gợi ý 1: Đồng cỏ và chiên con.

1. Vật liệu: Giấy cứng, 2 dây kẽm dài 7,5cm, 3 dây kẽm dài 10cm, bông gòn, giấy hoặc vải màu xanh, kéo, keo dán, màu.

2. Thực hiện:

– Giáo viên nhìn theo hình mẫu và hướng dẫn các em làm.

– Khi các em làm xong, giáo viên hỏi: Đồng cỏ là gì? Chiên con làm gì ngoài đồng cỏ? Đặt thị cụ vừa làm xong bên cạnh thiệp.

* Gợi ý 2: Con đường.

1. Vật liệu: Giấy cứng, giấy nhám hoặc giấy màu nâu, kéo.

2. Thực hiện:

– Trước hết, dùng bút gạch dưới câu Kinh Thánh Giăng 10:4.

– Hướng dẫn các em cắt giấy màu nâu thành hình con đường, rồi dán vào giấy cứng (xem).

– Hướng dẫn các em cắt giấy màu nâu thành hình con đường, rồi dán vào giấy cứng (xem hình).

– Hỏi các em: Làm thế nào chiên biết được đường đi? Người chăn đi trước hay đi sau chiên? Sau đó hướng dẫn các em đọc Giăng 10:4.

* Gợi ý 3: Đồi và suối nước.

1. Vật liệu: Giấy cứng, giấy màu xanh dương, bông gòn, kéo, đá nhỏ, chì màu, keo dán.

2. Thực hiện: Làm theo hướng dẫn trong hình (xem hình).

– Hỏi các em: Người chăn phải làm thế nào để cho chiên con uống nước? (Người chăn làm một cái máng riêng để chiên con có thể thoải mái uống nước). Có thể đập bể máng với một viên đá nhỏ không? (Không, vì máng làm bằng đá rất cứng).

* Gợi ý 4: Giếng và máng nước.

1. Vật liệu: Giấy cứng, đất sét, đá nhỏ.

2. Thực hiện:

– Dùng đá nhỏ xây giếng và máng nước lên một tờ giấy cứng (xem hình).

– Hỏi các em: Người chăn làm gì khi chiên khát nước? (Người chăn đến bên giếng, múc nước đổ vào máng cho chiên con uống).

B. BÀI HỌC KINH THÁNH

(Chuẩn bị thị cụ: Kinh Thánh, hình trong phần “Sinh hoạt đầu giờ” (xem phụ lục), tập học viên bài 1).

  1. Bài Ca Người Chăn Chiên.

Các em biết không, Thi thiên là một sách ở giữa Kinh Thánh (mở Kinh Thánh ra), gồm có 150 bài thơ. Các em sẽ nhận biết về Chúa nhiều hơn khi học Thi Thiên. Hôm nay chúng ta sẽ cùng xem Thi Thiên 23. (Giáo viên đọc cả đoạn rồi hướng dẫn các em đọc câu 1. Có thể mở tập học viên đọc câu gốc bài 1).

Thi Thiên 23 được gọi là “Bài Ca Của Người Chăn”. Chúa Giê-xu phán: “Ta là người chăn hiền lành”. (Hỏi các em ý nghĩa của câu nầy). Ngài yêu thương và chăm sóc các em như người chăn chăm sóc chiên của mình vậy.

  1. Người Chăn Đáp Ứng Nhu Cầu Của Chiên.

(Cho các em đọc Thi Thiên 23:2). Thế nào là đồng cỏ xanh tươi? (Cho các em xem hình 1 hoặc “Gợi ý 1” trong “Sinh Hoạt Đầu Giờ”).

Vào thời ấy, trong xứ không có nhiều đồng cỏ xanh tươi như vậy (cho các em xem hình 2), nên người chăn rất vất vả khi tìm kiếm đồng cỏ xanh tươi cho chiên ăn. Nếu bị đói khát, sợ hãi hoặc ruồi muỗi quấy nhiễu, chiên không thể nào ngủ yên được. Vì thế, ngoài việc lo thức ăn, nước uống, người chăn phải canh chừng để cho chiên được yên ổn. Suối nước đã ít lại khó tìm, mùa nắng lại khô cạn. Theo các em thì ngoài sông suối ra, tìm nước ở đâu cho đàn chiên uống? (Cho các em xem hình giếng và máng nước). Lúc gặp dòng suối chảy mạnh, người chăn thận trọng khi cho chiên uống vì sợ dòng nước chảy xiết khiến chiên hoảng sợ, té xuống và bị nước cuốn trôi.

  1. Người Chăn Dẫn Dắt Chiên.

(Đọc Thi Thiên 23:3). Lúc chiên đi lạc đường, người chăn lặn lội tìm kiếm. Khi tìm được chiên thì người chăn bồng chiên lên và đem về nhà. “Ngài bổ lại linh hồn tôi”, nghĩa là Ngài tha thứ mọi tội lỗi và cho chúng ta được an nghỉ khi mệt mỏi. (Đọc Thi Thiên 23:3a, cho các em mô tả lại sự việc xảy ra trong hình). Làm thế nào chiên biết đường đi? (Người chăn dẫn dắt).

  1. Ứng dụng.

Em có thể mô tả tình yêu thương của người chăn đối với chiên không? Đức Giê-hô-va là Đấng chăn giữ chúng ta. Ngài ban cho chúng ta mọi nhu cầu và dẫn dắt chúng ta như người chăn dẫn dắt chiên mình.

– Nhu cầu hằng ngày của các em là gì? (Thức ăn, quần áo, gia đình, nhà cửa…). Là người chăn, Đức Chúa Trời dùng cách gì để cung cấp mọi nhu cầu cho các em? (Ngài ban cho thực vật và động vật làm thức ăn, áo quần và những vật liệu khác. Ngài ban cho các em cha mẹ và những người yêu thương các em). Hướng dẫn các em học câu gốc và cùng cầu nguyện cảm tạ Đức Chúa Trời đã cung cấp mọi sự.

– Đức Chúa Trời dạy dỗ các em bằng cách nào? (Qua Kinh Thánh, cha mẹ, thầy cô và những người chung quanh…).

– Hướng dẫn các em hoàn tất bài tập, sau đó khuyến khích các em chia sẻ lại những điều đã học được trong tuần nầy.

V. PHỤ LỤC.

* Thị cụ: Sổ tay “Bài ca người chăn chiên”.

1. Vật liệu: 6 tờ giấy, bút màu, bút chì, bấm sách.

2. Thực hiện: Trước tiên, giáo viên xếp đôi 6 tờ giấy, bấm thành quyển sách. Sau đó vẽ theo các hình dưới đây và chép vào các câu Kinh Thánh liên quan (xem hình).

 

* Hình phụ trợ.

1. Vật liệu: 2 tờ giấy trắng cứng, bút màu, bút chì.

2. Cách làm: Giáo viên vẽ hình lên giấy cứng theo mẫu (1) và (2) rồi tô màu (xem hình).

Bài 1.  NGƯỜI CHĂN CHIÊN (HV)

I. KINH THÁNH: Thi Thiên 23:1-3.

II. CÂU GỐC: “Đức Giê-hô-va là Đấng chăn giữ tôi, tôi sẽ chẳng thiếu thốn gì” (Thi Thiên 23:1).

III. BÀI TẬP.

A. CHÚNG TA CÙNG LÀM.

* Người chăn chăm sóc chiên như thế nào?

  1. Đồng Cỏ Và Chiên Con.

Đồng cỏ là một vùng đất rộng mênh mông, mọc đầy cỏ xanh tươi tốt (Dùng giấy hoặc vải màu xanh lá cây để làm đồng cỏ.)

 

 

 

 

 

Làm mấy con chiên đặt lên đồng cỏ; đọc Thi Thiên 23: “Bài ca chăn chiên”. Tìm xem chiên làm gì trên đồng cỏ. Em có làm cho con chiên của mình được như vậy không?

  1. Đường Đi.

Dùng giấy màu nâu hoặc giấy nhám làm mấy con đường.

 

 

 

 

  1. Khe Núi, Thung Lũng Và Dòng Suối.

Dùng giấy màu xanh dương làm dòng suối chảy ra sông lớn. Dùng đất sét làm núi rồi dán giấy màu xanh lên cho suối chảy từ triền núi xuống thung lũng, bên bờ suối có những hòn sỏi nhỏ.

 

 

 

 

  1. Giếng Và Máng Nước.

Dùng đất sét làm một cái giếng và máng nước (làm từng viên gạch xếp lên nhau). Đây là nơi người chăn cho chiên uống nước.

 

 

 

B. CHÚA GIÊ-XU LÀ NGƯỜI CHĂN HIỀN LÀNH.

  1. Chúa dạy em phải đối xử với người khác như thế nào?

Viết những điều Chúa dạy em vào đây:

 

 

 

  1. Đọc những câu Kinh Thánh dưới đây và làm theo.

– Đánh dấu X vào ô vuông trước câu Kinh Thánh em đã làm theo.

“Hỡi kẻ làm con cái, hãy vâng phục cha mẹ mình trong Chúa, vì điều đó là phải lắm” (Ê-phê-sô 6:1).

“Các ngươi hãy yêu nhau cũng như Ta đã yêu các ngươi” (Giăng 15:12).

“Hãy yêu kẻ thù mình, làm ơn cho kẻ ghét mình” (Lu-ca 6:27).

BÀI 1. LỜI HỨA VỀ CHÚA CỨU THẾ (GV-HV)

BÀI 1. LỜI HỨA VỀ CHÚA CỨU THẾ (GV-HV)

in ẤU NHI, QUÍ III. 2016 on 12 Tháng Bảy, 2018

BÀI 1. LỜI HỨA VỀ CHÚA CỨU THẾ (GV)

 I. KINH THÁNH: Ê-sai 9

II. CÂU GỐC: “Vì có một con trẻ sanh cho chúng ta… Ngài sẽ được xưng là Đấng Lạ lùng, là Đấng Mưu luận, là Đức Chúa Trời Quyền năng, là Cha Đời đời, là Chúa Bình an” (Ê-sai 9:5).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Đức Chúa Trời hứa ban Chúa Giê-xu đến thế gian cứu chuộc tội lỗi loài người.

– Cảm nhận: Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời, Ngài là Chúa Bình An của em.

– Hành động: Tin vào lời hứa của Chúa dù phải chờ đợi.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

1. Mục đích: Giúp các em hiểu Bài và hứng thú trong học tập.

2. Chuẩn bị: Danh xưng (tên) của Chúa Giê-xu.

3. Thực hiện: Cho các em học thuộc các danh xưng của Chúa Giê-xu. Viết các danh xưng của Chúa Giê-xu tấm bìa cứng màu (hình trái tim, trái táo, hình vuông, hình tròn…) để cho các em có thể nhận tên qua màu sắc và hình dáng của hình.

Ví dụ: Hình trái tim tên: Chúa Bình An, hình tròn tên Đấng Mưu Luận…

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

1. Vào đề.

Các em thân mến! Có bao giờ các em được ba mẹ hứa sẽ cho đi du lịch nè, mua cho một một bộ quần áo mới nè, hoặc một con búp bê dễ thương… không? Khi nghe lời hứa của ba mẹ tâm trạng của các em như thế nào? (Cho các em tự do nói lên những lời hứa và tâm trạng của các em). Dân Y-sơ-ra-ên ngày xưa cũng nhận được lời hứa của Đức Chúa Trời về Chúa Cứu Thế. Bài học nầy sẽ cho các em biết dân Y-sơ-ra-ên đã nhận lời hứa như thế nào nha.

2. Bài học.

Ngày xưa dân Y-sơ-ra-ên phạm tội và bị đày đi làm phu tù cho dân ngoại, họ phải làm việc ngoài đồng án và nhiều việc cực nhọc khác nữa. Nên lòng họ lúc nào cũng trông ngóng có một ai đó đến giải cứu họ ra khỏi cảnh tôi mọi (xiềng xích của nô lệ). Đức Chúa Trời dùng điều đó dạy họ rằng, nếu họ ở trong hoàn cảnh làm tôi mọi cho con người mà họ còn cực khổ như vậy thì ở trong cảnh nô lệ của tội lỗi suốt đời (xiềng xích của tội lỗi) còn khốn khổ hơn nhiều, vì tội lỗi sẽ dẫn họ đến sự chết đời đời, nên họ cần được cứu, và Ngài hứa sẽ sai chính Chúa Cứu Thế xuống thế gian để cứu họ ra khỏi xiềng xích của tội lỗi.

Một trong số lời hứa đó từ tiên tri Ê-sai, ông được Đức Chúa Trời cho biết Chúa Cứu Thế thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Các em còn nhớ vua Đa-vít không? (Cho các em trả lời). Đa-vít là vị vua của dân Y-sơ-ra-ên. Tiên tri Ê-sai còn nói trước một loạt tên gọi của Chúa Cứu Thế: “Ngài sẽ được xưng là Đấng Lạ lùng, là Đấng Mưu luận, là Đức Chúa Trời Quyền năng, là Cha Đời đời, là Chúa Bình an”. Những danh xưng này là tên của Chúa Giê-xu. Các em cùng đọc lại các tên của Ngài nha (Cho các em cùng đọc lại).

Từ đó dân Y-sơ-ra-ên luôn luôn chờ đợi Chúa Cứu Thế đến để giải cứu họ. Theo các em điều họ chờ đợi có thật hay không? (Các em trả lời). Muốn biết có hay không các em cùng chờ xem vào tuần sau nha.

3. Ứng dụng.

Các em thân mến! Đức Chúa Trời luôn yêu thương con người trong đó có các em. Nên Ngài đã hứa ban Chúa Giê-xu xuống thế gian để cứa mọi người. Qua đó các em có thấy Chúa của mình là Đấng lạ lùng không? Các em có tin vào lời hứa của Đức Chúa Trời không? (Các em trả lời).

* Chuẩn bị.

– Kéo, keo, viết chì màu, viết chì.

* Thực hiện.

– Cho các em tô màu hình vẽ.

Bài 1. LỜI HỨA VỀ CHÚA CỨU THẾ ( HV)

I. KINH THÁNH: Ê-sai 9

II. CÂU GỐC: “Vì có một con trẻ sanh cho chúng ta… Ngài sẽ được xưng là Đấng Lạ lùng, là Đấng Mưu luận, là Đức Chúa Trời Quyền Năng, là Cha Đời đời, là Chúa Bình An” (Ê-sai 9:11).

III. BÀI HỌC: Đức Chúa Trời hứa ban Chúa Giê-xu đến thế gian cứu chuộc tội lỗi loài người.

1. BÀI TẬP: Cho các em tô màu hình vẽ.

 

 

BÀI 13. BÀI ÔN (GV-HV)

BÀI 13. BÀI ÔN (GV-HV)

in QUÍ II. 2016, THIẾU NHI on 10 Tháng Bảy, 2018

BÀI 13. BÀI ÔN (GV)

Cảm ơn Chúa đã giúp đỡ bạn truyền đạt cho các em xong loạt bài nầy. Bạn có thỏa lòng với việc giảng dạy của mình không? Các em của bạn có tiến bộ hơn trong sự nhận biết Chúa không? Trước khi qua loạt bài mới, bạn cho các em ôn lại những điều các em đã học trong ba tháng qua.

I. CÁCH ÔN: Có thể dùng những cách ôn trước.

Vì loạt bài nầy có nhiều nhân vật, đi theo đó là những tình tiết hay. Nên bạn có thể cho các em đóng kịch. Nhưng lần nầy các em không được chọn lựa, mà cử đại diện bốc thăm. Dĩ nhiên, bạn phải chuẩn bị thăm trước. Nhóm nào bốc thăm nhân vật nào, thì phải đóng kịch nhân vật đó. Cho các em thời gian chuẩn bị ngắn. Bạn khuyến khích các em tinh thần tập thể, đoàn kết, sáng tạo… Dầu vậy, bạn đừng quên cho các em nói lên sự dạy dỗ mà các em nhận được qua bài học đó, hoặc có những hành động cụ thể. Sau đó, cho các em làm bài khảo sát.

BÀI 13.  BÀI ÔN (HV)

BÀI KHẢO SÁT.

Em khoanh tròn câu đúng nhất.

1. Lót ở thành phố nào?

a. Ca-na-an.

b. Giê-ru-sa-lem.

c. Sô-đôm.

2. Vì sao Đức Chúa Trời giải cứu Lót, khi Ngài hủy diệt thành phố tội lỗi?

a. Áp-ra-ham cầu thay.

b. Chúa thương xót.

c. Cả hai đều đúng.

3. Y-sác ra đời sau 25 năm chờ đợi, cho em biết Đức Chúa Trời là Đấng như thế nào?

a. Chu đáo.

b. Thành tín.

c. Chữa lành.

4. Thử thách lớn nhất trong cuộc đời của Áp-ra-ham là gì?

a. Dâng Y-sác làm của lễ.

b. Ra khỏi quê hương.

c. Chia đất cho Lót.

5. Vì sao Áp-ra-ham xuất sắc vượt qua thử thách?

a. Có đức tin nơi Chúa.

b. Là người lãnh đạo.

c. Ông mạnh mẽ.

6. Ê-li-ê-se đã dựa vào điều gì để chọn vợ cho Y-sác?

a. Sự khôn ngoan của mình.

b. Cầu xin Chúa dẫn dắt.

c. Kinh nghiệm.

7. Vì sao Ê-sau thù ghét Gia-cốp?

a. Không hợp tính tình.

b. Cùng cha khác mẹ.

c. Gia-cốp lừa dối.

8. Hậu quả của sự thù ghét là gì?

a. Giết nhau.

b. Chạy trốn.

c. Không gặp nhau cho đến chết.

9. Sau 20 năm xa cách, tình cảm giữa Ê-sau và Gia-cốp có gì thay đổi?

a. Tha thứ nhau.

b. Làm hòa với nhau.

c. Cả hai đều đúng.

10. Nguyên nhân nào các anh ganh ghét Giô-sép?

a. Được cha yêu thương.

b. Kể những giấc mơ lạ.

c. Cả hai đều đúng.

12. Hành động ganh ghét của các anh biểu lộ như thế nào?

a. Bán Giô-sép làm nô lệ.

b. Chê bai.

c. Nói xấu.

12. Điều gì chứng tỏ Giô-sép được Chúa ở cùng khi cuộc sống hoàn toàn thay đổi?

a. Mọi việc làm đều tốt.

b. Mọi người tin tưởng và yêu mến.

c. Cả hai đều đúng.

13. Nhờ đâu Giô-sép ra khỏi ngục?

a. Giải nghĩa giấc mơ cho vua.

b. Vượt ngục.

c. Hết hạn tù.

14. Sau khi ra khỏi ngục, Giô-sép được vua ban cho chức vụ gì?

a. Phò mã.

b. Tể tướng.

c. Đại tướng.

15. Kế hoạch của Đức Chúa Trời đối với Giô-sép là gì?

a. Muốn ông chịu khổ.

b. Giàu có.

c.  Giúp đỡ gia đình qua cơn đói kém.

16. Vì sao Giô-sép tha thứ cho các anh?

a. Không cố chấp.

b. Nhận biết ý muốn của Chúa.

c. Yêu thương các anh.

d. Câu b, c đúng.

17. Gia đình Giô-sép được đoàn tụ và họ sinh sống tại đâu?

a. Tại Ai-cập.

b. Tại Si-chem.

c. Tại Ca-na-an.

18. Hoạn nạn mà Gióp chịu là gì?

a. Tài sản mất, con cái chết, bản thân bệnh.

b. Tài sản mất, bạn thân lìa bỏ.

c. Con chết, vợ trách móc.

19. Vì sao Gióp đứng vững trong hoạn nạn?

a. Yêu mến và kính sợ Chúa.

b. Được vợ an ủi.

c. Cả hai đều đúng.

20. Đức Chúa Trời ban cho Gióp những gì, sau khi ông vượt qua hoạn nạn?

a. Tài sản, con cái, sự sống.

b. Quyền thế.

c. Nhiều vợ.

 

 

 

 

BÀI 13.  BÀI ÔN (GV-HV)

BÀI 13.  BÀI ÔN (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ II. 2016 on 10 Tháng Bảy, 2018

BÀI 13.  BÀI ÔN (GV-HV)

 I. KINH THÁNH: Tất cả các đoạn Kinh Thánh đã học trong quí.

II. CÂU GỐC: Tất cả các câu gốc đã học trong quí.

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em

– Biết: Đức Chúa Trời là Đấng thành tín, lời hứa của Ngài được ứng nghiệm trong Kinh Thánh.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời luôn làm thành lời hứa của Ngài.

– Hành động: Em hết lòng tin cậy nơi Đức Chúa Trời, vì Ngài là Đấng thành tín.

IV. ÔN CÂU GỐC.

Chuẩn bị một số giấy trắng (số giấy tương ứng với số các em). Viết lên mỗi tờ giấy một câu gốc nhưng không viết địa chỉ, hoặc viết địa chỉ nhưng không viết câu gốc (những câu gốc đã học trong quí). Xếp giấy lại, cho các em lần lượt lên rút một tờ giấy và nói lên địa chỉ hoặc câu gốc còn thiếu. Em nào đáp đúng được thưởng một chiếc kẹo.

V. ÔN BÀI.

  1. Dùng thị trợ: Dùng những hình vẽ đã sử dụng khi dạy bài học để ôn bài sẽ có hiệu quả hơn. Bạn nên cùng các em hát xen vào lúc ôn bài để tạo sự hứng thú cho các em.
  2. Dùng những câu gợi ý cách gián tiếp: Giúp các em đoán ra nhân vật.

Ví dụ:

a. Tôi được Đức Chúa Trời hứa sẽ ở cùng, gìn giữ, bảo vệ tôi bất cứ nơi nào. Vậy tôi là ai?

b. Tôi được mẹ và bà ngoại dạy Kinh Thánh từ bé. Tôi rất ham thích học Kinh Thánh. Vậy tôi là ai?

 

TRANG TÀI LIỆU 1

 

TRANG TÀI LIỆU 2

 

TRANG TÀI LIỆU 3

 

TRANG TÀI LIỆU 4

 

TRANG TÀI LIỆU 5

 

TRANG TÀI LIỆU 6

 

TRANG TÀI LIỆU 7

 

TRANG TÀI LIỆU 8

 

TRANG TÀI LIỆU 9

 

TRANG TÀI LIỆU 10

 

TRANG TÀI LIỆU 11

 

TRANG TÀI LIỆU 12

 

TRANG TÀI LIỆU 13

 

TRANG TÀI LIỆU 14

 

TRANG TÀI LIỆU 15

 

TRANG TÀI LIỆU 16

 

TRANG TÀI LIỆU 17

 

 

BÀI 12. VỮNG LÒNG TIN CẬY TRONG HOẠN NẠN (GV-HV)

BÀI 12. VỮNG LÒNG TIN CẬY TRONG HOẠN NẠN (GV-HV)

in QUÍ II. 2016, THIẾU NHI on 10 Tháng Bảy, 2018

BÀI 12. VỮNG LÒNG TIN CẬY TRONG HOẠN NẠN (GV)

 I. KINH THÁNH: Gióp 1:1-2:10; 42:1-17.

II. CÂU GỐC: “Người sẽ kêu cầu ta, ta sẽ đáp lời người; trong sự gian truân, ta sẽ ở cùng người; giải cứu người và tôn vinh người” (Thi Thiên 91:15).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Trong hoạn nạn, Gióp vẫn giữ vững lòng tin cậy.

– Cảm nhận: Bất cứ việc gì xảy ra đều bởi ý muốn của Chúa, và Ngài không lìa bỏ chúng ta trong cơn hoạn nạn.

– Hành động: Nhờ cậy Chúa để đứng vững trong hoạn nạn.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ

Một tờ giấy làm báo tường, để giúp ghi nhớ lời hứa của Đức Chúa Trời. Chọn những câu Kinh Thánh có lời hứa của Đức Chúa Trời như: Giô-suê 1:9; 1Phi-e-rơ 5:7; Sáng 28:15; Hê-bơ-rơ 13:5; Thi 56:3…

Viết các câu Kinh Thánh nầy trên báo tường. Trang trí một số hình ảnh đơn giản và treo trong lớp, để nhắc nhở cho các em nên tin cậy vào lời hứa của Đức Chúa Trời.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

  1. Vào đề.

Các em thân mến! Ví dụ như các em xin một món quà đó nhưng không được, các em có thất vọng không? Chắc là thất vọng lắm và nhiều khi chán nản nữa. Các em còn nhớ Giô-sép đã trông đợi hai năm trời ở trong tù không? Giô-sép không thất vọng mà tin rằng Đức Chúa Trời ở cùng. Đức Chúa Trời vẫn ở cùng các em trong lúc thuận lợi cũng như trong khó khăn.

Trong bài học hôm nay, các em sẽ được biết Đức Chúa Trời ở cùng với một người khác, tên là Gióp. Những điều mà Gióp gặp phải, các em không thể tưởng tượng được. Thật ra, nếu đem so sánh thì những điều mà Gióp gặp phải còn khó khăn hơn Giô-sép nhiều. Sau đây, chúng ta thử tìm hiểu xem, khó khăn có làm cho Gióp mất lòng tin nơi Chúa không?

  1. Bài học.

Trước hết, bài học giới thiệu cho các em biết về Gióp. Gióp là người sống ở xứ Út-xơ. Ông có một gia đình hạnh phúc, gồm bảy con trai và ba con gái. Các con ông rất hòa thuận và yêu thương nhau. Gióp là người giàu có, có ảnh hưởng rất lớn đối với mọi người chung quanh, nổi tiếng là ngay thẳng, tin kính và nhân hậu. Nhưng quan trọng hơn hết, Kinh Thánh chép về Gióp: “Người ấy vốn trọn vẹn và ngay thẳng, kính sợ Đức Chúa Trời và lánh khỏi điều ác” (Gióp 1:1).

(1) Lý do Gióp gặp hoạn nạn.

Đức Chúa Trời rất đẹp lòng về đời sống của Gióp, nhưng Sa-tan thì ghen tức, vì bản tính của Sa-tan là luôn muốn mọi người phạm tội. Một ngày kia, khi nghe Đức Chúa Trời khen ngợi Gióp, Sa-tan tức tối lắm. Dù không phủ nhận Gióp là người tin kính Chúa, nhưng Sa-tan cho rằng, do Đức Chúa Trời ban cho Gióp một gia đình giàu có, hạnh phúc… nên Gióp mới tin kính Chúa, chứ nếu như Đức Chúa Trời giáng tai họa, chắn chắc Gióp sẽ không tin kính. Sa-tan lý luận như thế. Đức Chúa Trời biết đức tin và lòng yêu mến Chúa của Gióp, nên cho phép Sa-tan thử thách Gióp, để cho Sa-tan hiểu rằng một người thật sự yêu mến và kính sợ Chúa sẽ là người như thế nào. Tuy nhiên, Chúa cho phép Sa-tan thử Gióp trong một phạm vi nhất định, không được đụng đến mạng sống của Gióp. Sa-tan đinh ninh rằng sẽ chứng minh cho Đức Chúa Trời thấy con người thật sự của Gióp, nhưng Sa-tan không hiểu rằng Gióp là người thật sự kính sợ và yêu mến Đức Chúa Trời. Sa-tan cũng không biết là Đức Chúa Trời rất thương yêu Gióp. Quyền năng của Ngài ở trên Sa-tan, nếu Gióp tiếp tục tin cậy Đức Chúa Trời, dù bất kể gặp phải hoạn nạn gì, Chúa đều chăm sóc Gióp. Sau đây chúng ta xem việc gì xảy ra.

Cuộc sống đang êm ấm, bỗng nhiên tai vạ từ các hướng đổ ụp xuống gia đình Gióp. Chỉ trong một ngày mà xảy ra biết bao nhiêu tai họa. Nào là kẻ thù xông vào cướp lấy bầy súc vật và giết hết các tôi tớ đang chăn ở ngoài đồng. Nào là lửa từ trời giáng xuống thiêu cháy người và súc vật. Nào là một cơn lốc dữ dội thổi tốc lên, khiến nhà bị sập đè chết các con trai và gái của Gióp đang ngồi dự tiệc ở trong nhà. Các em tưởng tượng một loạt tin dữ đến với Gióp như vậy, Gióp có chịu đựng nổi không? Nếu ở trong hoàn cảnh như Gióp, chúng ta thường làm gì? (Cho các em trả lời).

(2) Gióp đứng vững trong hoạn nạn.

Gióp hay tin, tay chân rụng rời, lòng đau đớn. Tài sản mất hết ông không đau lòng bằng bảy người con đều bị chết cùng một lúc. Quá đau đớn, ông xé áo mình, cạo đầu, và không thiết ăn uống. Nhưng những hành động đó không dẫn đến sự than vãn, oán trách Chúa, mà ông mang tấm lòng đau thương của mình đến với Chúa để Ngài xoa dịu. Hoạn nạn càng nhiều, ông càng đến gần Chúa hơn. Ông quyết tâm không thay đổi lòng yêu mến và kính sợ Chúa. Gióp đến trước mặt Chúa, sấp mình xuống mà cầu nguyện: “Con chỉ có hai bàn tay trắng khi lọt lòng mẹ, nay cũng trắng tay mà về. Chúa cho con mọi sự, nay Chúa lại lấy đi. Con xin ca ngợi Chúa” (Gióp 1:21). Đây là lời cầu nguyện đẹp biết bao! Gióp và Đức Chúa Trời thật là một đôi bạn thân. Gióp nhận biết tất cả những gì mình có là do Đức Chúa Trời ban cho, ngay cả con cái, thậm chí mất hết tất cả, vẫn tin rằng Đức Chúa Trời là bạn của mình. Trong cơn hoạn nạn mà cất tiếng ca ngợi Chúa là một điều không phải dễ. Kinh Thánh chép: “Trong mọi sự ấy, Gióp không phạm tội, và chẳng nói phạm thượng cùng Đức Chúa Trời” (Câu 22).

Sa-tan đã thử thách, nhưng Gióp đã đắc thắng. Đức Chúa Trời rất đẹp lòng và khen ngợi Gióp trước mặt Sa-tan, nhưng Sa-tan vẫn không tin Gióp sẽ giữ mãi lòng kính sợ Chúa, nếu như hoạn nạn mạnh hơn, đánh vào chính bản thân ông. Sa-tan thưa rằng: “Nếu Ngài cho phép hành hại đến thân thể Gióp, thì tôi tin Gióp sẽ nguyền rủa Ngài”.

Đức Chúa Trời cho phép Sa-tan làm điều đó, nhưng không được làm hại đến mạng sống của Gióp. Lần nầy, Sa-tan tin chắc Gióp sẽ lìa bỏ Đức Chúa Trời.

Các em có biết Sa-tan sẽ dùng tai vạ gì để thử Gióp không? Sa-tan làm cho Gióp bị ung nhọt khắp mình, từ bàn chân cho đến đỉnh đầu. Bệnh nầy làm cho vừa đau nhức, vừa ngứa ngáy rất khổ sở, mà ở thời đó không có thuốc chữa.

Thật tội nghiệp cho Gióp, có lẽ không có ai có thể hiểu được sự đau khổ mà Gióp phải chịu, ngay cả vợ và bạn thân. Gióp đáng thương lấy một mảnh sành để gãi và ngồi trong đống tro, còn vợ Gióp đã không an ủi chồng mà còn chế giễu: “Đến lúc nầy mà ông còn cương quyết sống đạo đức à? Sao không nguyền rủa Đức Chúa Trời và chết đi?” Có lẽ hơn bao giờ hết, trong lúc nầy Gióp cảm thấy cô đơn, không một ai cảm thông an ủi. Trong hoàn cảnh đó, rất dễ oán trách, thậm chí lìa bỏ Đức Chúa Trời. Các em xem Gióp hành động như thế nào nhé?

Gióp không nghe theo lời vợ mình, nhưng rầy la: “Sao bà nói năng như người ngu dại. Tại sao phước hạnh Đức Chúa Trời ban cho chúng ta, chúng ta nhận lấy, còn tai họa thì chúng ta chẳng nhận lãnh sao?” Chỉ có một đời sống thật sự yêu mến và kính sợ Chúa, mới có thể nói được như thế trong hoạn nạn. Kinh Thánh chép: “Trong mọi việc đó, Gióp không phạm tội bởi môi miệng mình” (Gióp 2:10).

Đức Chúa Trời cho phép Sa-tan hai lần thử thách Gióp, kết quả là Gióp vẫn kính sợ và không mất lòng tin nơi Ngài.

(3) Phần thưởng của Gióp.

Trong thời gian dài chịu thử thách, có đôi lúc Gióp cũng xuống tinh thần và nao núng. Nhưng Gióp không hề đánh mất đức tin nơi Chúa. Ông tâm sự với Đức Chúa Trời và nhận biết rằng, dù ở trong hoàn cảnh khốn cùng, Đức Chúa Trời vẫn không lìa bỏ mình. Qua hoạn nạn, Gióp càng nhận biết và yêu Chúa nhiều hơn. Cuối cùng, Đức Chúa Trời đem Gióp ra khỏi cơn khốn cùng và ban thưởng cho Gióp. Đức Chúa Trời chữa lành bệnh và ban chiên, bò, cùng tôi tớ cho Gióp nhiều hơn lúc đầu. Đức Chúa Trời ban cho Gióp một gia đình hạnh phúc gồm bảy con trai và ba con gái xinh đẹp. Sau khi hoạn nạn qua đi, rất nhiều bạn bè đến thăm, chung vui và tặng quà cho Gióp. Ông còn sống 130 tuổi nữa và qua đời khi tuổi đã rất cao.

  1. Ứng dụng.

Các em thân mến! Đời sống tin kính Chúa của Gióp cho chúng ta nhiều bài học. Mọi việc xảy ra trên đời sống của chúng ta đều do sự cho phép của Ngài và Ngài ở cùng với chúng ta trong hoạn nạn. Điều chúng ta đáng học hỏi ở đây là thái độ của Gióp trong hoạn nạn. Gióp không nói một lời nào phạm tội với Đức Chúa Trời, mà ở trong hoàn cảnh của Gióp rất dễ nói. Điều đó chứng tỏ Gióp rất yêu mến và kính sợ Chúa và Đức Chúa Trời đã tự hào về Gióp.

Các em có gặp khó khăn như: bệnh tật, không được may mắn, bị cám dỗ, không được yêu thương …không? Lúc đó, các em đừng mãi ngồi ưu tư, than thân trách phận, hoặc đặt ra một loạt câu hỏi “Tại sao?” nữa, nhưng hãy tin cậy và không làm buồn lòng Chúa trong khi gặp hoạn nạn. Muốn có được những điều đó, các em phải hết lòng yêu mến và kính sợ Chúa. Khi gặp phải hoạn nạn, Đức Chúa Trời ban cho các em một lời hứa lạ lùng trong Thi 91:15 (Câu gốc của bài học). Các em cùng đọc và tìm ra bốn lời hứa trong câu Kinh Thánh nầy nhé!

  1. Đức Chúa Trời đáp lời cầu xin của các em.
  2. Trong sự khó khăn, Đức Chúa Trời ở cùng các em.
  3. Giúp đỡ các em.
  4. Làm cho các em được vinh dự.

Vậy, nên nhớ bất cứ khó khăn nào, Đức Chúa Trời đều biết cả, và hứa sẽ ở cùng các em.

BÀI 12.    VỮNG LÒNG TIN CẬY TRONG HOẠN NẠN (HV)

 I. KINH THÁNH: Gióp 1:1 – 2:10; 42:1-17.

II. CÂU GỐC: “Người sẽ kêu cầu ta, ta sẽ đáp lời người; trong sự gian truân, ta sẽ ở cùng người; giải cứu người và tôn vinh người” (Thi Thiên 91:15).

III. BÀI TẬP.

1.  Em hãy viết 4 điều mà Đức Chúa Trời đã làm cho Gióp cũng như cho em, trong lúc hoạn nạn và mạng lệnh của Chúa đối với em khi đứng trước hoạn nạn.

2. Điền vào chỗ trống (Giả sử em là Gióp, em hãy tự giới thiệu về mình).

– Kính sợ. Ba. Bảy. Tôi tớ. Giàu có. Súc vật. Út-xơ.

Tôi là Gióp. Tôi ở trong xứ ___ Tôi rất _____ Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời ban phước cho tôi có __ con trai và __ con gái. Tôi có thể kể là người _______  nhất trong cả dân sự, vì Đức Chúa Trời ban cho tôi rất nhiều_____ và _____

3. Đức Chúa Trời ban sức cho em.

Những ngày qua, có thể em đã gặp khó khăn. Em hãy viết nó lên trên hàng rào, rồi kế đó, viết cách để em vượt qua khó khăn.

BÀI 12. CHÚA GIÊ-XU HIỆN RA VỚI CÁC MÔN ĐỒ (GV-HV)

BÀI 12. CHÚA GIÊ-XU HIỆN RA VỚI CÁC MÔN ĐỒ (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ II. 2016 on 10 Tháng Bảy, 2018

BÀI 12. CHÚA GIÊ-XU HIỆN RA VỚI CÁC MÔN ĐỒ (GV)

 I. KINH THÁNH: Giăng 20:19-23 (Giáo viên tham khảo thêm Lu-ca 24:35-41; 1Cô-rinh-tô 15:5-8).

II. CÂU GỐC: “Lòng các ngươi chớ hề bối rối; hãy tin Đức Chúa Trời, cũng hãy tin ta nữa” (Giăng 14:1).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Sau khi sống lại, Chúa Giê-xu hiện ra với các môn đồ, để an ủi và củng cố đức tin của họ.

– Cảm nhận: Chúa Giê-xu sống lại là một Tin Lành, một sự vui mừng cho mọi người.

– Hành động: Em nói về Tin Lành của Chúa Giê-xu cho mọi người.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Tin Vui.

1. Cho các em mở sách học viên, hướng dẫn các em làm bài tập “Tin Vui”.

2. Mọi người lần lượt chia sẻ tin vui của mình, hoặc của gia đình mình trong thời gian gần đây cho cả lớp cùng nghe.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Dùng cách đóng vai diễn để kể chuyện, gây cho các em không khí hứng thú để trả lời).

  1. Vào đề.

Trong bài học tuần trước, các em có nhớ một số phụ nữ khi đến thăm mộ Chúa Giê-xu, họ phát hiện điều gì? (Cho các em trả lời). Họ phát hiện Chúa Giê-xu không có trong ngôi mộ, Ngài đã sống lại. Thiên sứ báo cho họ biết tin nầy và dặn họ đi nói với các môn đồ. Khi nghe tin tức nầy, các môn đồ tin hay không? (Cho các em trả lời). Bây giờ các em hãy tưởng tượng rằng mình là các môn đồ của Chúa Giê-xu. Trong lúc cô (thầy) kể chuyện, sẽ hỏi các em về phản ứng cũng như cảm nhận của các em, còn các em hãy xem như mình là môn đồ của Chúa Giê-xu mà trả lời nhé.

  1. Bài học.

Đêm Chúa nhật hôm Chúa Giê-xu sống lại, các em tập trung tại một căn phòng mà các em thường nhóm lại. Cửa phòng được khóa chặt. Tại sao các em làm vậy? (Các em trả lời). Có phải là sợ những người đã giết hại Chúa Giê-xu đến hại các em không? (Các em trả lời). Có phải vì thi thể của Chúa Giê-xu không tìm thấy, các em sợ quân lính đến làm khó? (Các em trả lời). Có phải các em tập trung lại để bàn cách đối phó? (Các em trả lời). Hay là vì lo lắng không biết thi hài Chúa Giê-xu thế nào rồi? (Các em trả lời).

Đang lúc mọi người đều bối rối, đột nhiên có tiếng nói quen thuộc: “Bình an cho các ngươi”. Lúc đó các em có phản ứng gì? (Mời từng em trả lời). Có thể là sợ đến nỗi không biết nói gì. Sau khi lấy lại bình tĩnh, có ai đó hỏi: “Có phải là Chúa không?” Rồi nhiều người nói lao xao: “Chúa là người hay ma vậy?” “Đúng là Chúa rồi!” “Tại sao cửa đóng mà Ngài có thể vào được?” (Giáo viên phải dùng giọng nói khác nhau để diễn đạt).

Chúa Giê-xu nói: “Đừng sợ, các ngươi hãy xem tay và sườn ta, còn in dấu những vết thương. Hãy sờ vào ta, hồn ma thì không có xương thịt”. Nghe Chúa Giê-xu nói như vậy, các em sẽ làm gì? (Các em trả lời). Đúng rồi, sẽ đến gần Chúa để xem và sờ vào Ngài phải không? Lúc đó tâm trạng của các em như thế nào? (Các em trả lời). Từ buồn rầu trở nên vui mừng phải không? Mọi người nói với nhau: “Chúa đã sống lại rồi! Đây thật là một tin tức tốt lành”. “Thật sung sướng vì Chúa lại ở cùng chúng ta”. (Dùng giọng nói khác nhau để diễn đạt).

Chúa Giê-xu mỉm cười với họ: “Bình an cho các ngươi! Đức Chúa Trời đã sai ta thực hiện kế hoạch của Ngài, bây giờ ta cũng sai các ngươi tiếp tục hoàn thành kế hoạch đó. Hãy rao truyền Tin Lành cho mọi người được biết”. Các em có biết “Tin Lành” mà Chúa Giê-xu nói là gì không? (Các em trả lời). Đúng rồi đó là Tin Lành về Chúa Giê-xu đã chịu chết để chuộc tội cho nhân loại và Ngài đã từ kẻ chết sống lại.

Hãy đoán xem, nếu lúc đó Chúa Giê-xu không hiện ra với các em thì các em sẽ như thế nào? (Các em trả lời). Rất có thể trở nên thất vọng, chán nản, không có dũng khí để tự nhận mình là môn đồ của Chúa Giê-xu, không còn tâm trí nào để nhắc đến những sự việc xảy ra với Chúa Giê-xu, thậm chí suốt đời không vui. Vì vậy sau khi Chúa Giê-xu sống lại, Ngài phải hiện ra với các môn đồ. Thứ nhất là để an ủi họ, thứ nhì là để củng cố đức tin của họ. Sau đó, các môn đồ đã thật sự mạnh mẽ, dạn dĩ rao truyền Tin Lành Chúa Giê-xu sống lại.

Hiện nay các em có vui không khi biết rằng Chúa Giê-xu đã sống lại? Các em có đem tin vui nầy nói với người khác không? (Cho các em trả lời).

  1. Ứng dụng.

Cho các em thảo luận bằng cách trả lời những câu hỏi sau: Tại sao các môn đồ tập trung tại căn phòng họ thường nhóm lại? Khi Chúa Giê-xu chào thăm họ, họ có phản ứng gì? Sau đó họ làm thế nào xác định Chúa Giê-xu đã thật sự sống lại? Chúa Giê-xu căn dặn các môn đồ điều gì?

Cho các em làm bài tập “Dán ký hiệu đặc biệt”, sau đó hướng dẫn các em làm bài tập “Truyền cho ai”. (Đáp án: Thiên sứ – Những người phụ nữ – môn đồ – chúng ta – những người thân chưa tin Chúa). Sau khi hoàn thành, mời một hoặc hai em lên chia sẻ tại sao phải truyền Tin Lành cho các đối tượng đó.

Cuối cùng giáo viên nói với các em: Mỗi khi có tin vui, em thường thích nói với người khác, nhất là bạn thân và người trong gia đình của em. Qua bài học nầy các em biết được Tin Lành về Chúa Giê-xu đã từ kẻ chết sống lại vì mọi người, đó là một tin vui cho mọi người. Vì thế các em phải vui mừng nói với mọi người về điều nầy để ai cũng có thể tin nhận Chúa Giê-xu và được cứu rỗi.

BÀI 12. CHÚA GIÊ-XU HIỆN RA VỚI CÁC MÔN ĐỒ (HV)

 I. KINH THÁNH: Giăng 20:19-23.

II. CÂU GỐC: “Lòng các ngươi chớ hề bối rối; hãy tin Đức Chúa Trời, cũng hãy tin ta nữa” (Giăng 14:1).

III. BÀI TẬP.

A. TIN VUI.

Hãy viết tin vui mà em muốn chia sẻ vào khung trống.

 

Tin vui: Mẹ mình vừa sinh một bé gái

Tin vui: “Mẹ ơi! Tuần sau nhà trường tổ chức cắm trại”.

B. KÝ HIỆU ĐẶC BIỆT.

Các môn đồ nhìn vào vị trí nào trên thân thể Chúa Giê-xu để khẳng định, Ngài thật sự là Chúa? Em hãy khoanh vào hình nhé! Vì sao đó là dấu trên thân thể Chúa Giê-xu, em còn nhớ không? Hãy chia sẻ.

 

  1. TRUYỀN CHO AI?

Tin Chúa Giê-xu sống lại được truyền đi như thế nào? Hãy dán giấy cắt dán và ghi tên gọi vào dấu ngoặc đơn. Trong vòng tròn vẽ hình chúng ta và người chưa tin Chúa. (Đáp án trong sách giáo viên).

 

 

TRANG CẮT DÁN

 

THƯ CẢM TẠ ĐỨC CHÚA TRỜI.

 

Em hãy viết lời cảm tạ Đức Chúa Trời vào khung, có thể vẽ hình để diễn đạt, sau khi hoàn tất, có thể cắt ra dán vào báo tường hoặc góc học tập.

 

Cha trên trời thân yêu.

 

 

Kinh Thánh.

 

 

 

Vui vẻ cô đơn sợ hãi buồn rầu.

Cô đơn hoảng sợ rất đau thương rất buồn.

Cô đơn hoảng sợ rất đau thương rất buồn.

Cô đơn hoảng sợ rất đau thương rất buồn.

 

Gương tốt Gương tốt.

 

Bài số 2.

 

 

 

TRÁI TIM CỦA TÔI.

 

1. Khi thấy Chúa Giê-xu bị bắt, tôi cảm thấy….

 

2. Khi thấy Chúa Giê-xu bị đóng đinh trên thập tự giá, tôi cảm thấy…

 

3. Khi phát hiện xác Chúa Giê-xu không có trong mộ, tôi cảm thấy….

 

4. Khi Chúa Giê-xu hiện ra, tôi cảm thấy…

Bài 12. CHÚA SỐNG LẠI (GV-HV)

Bài 12. CHÚA SỐNG LẠI (GV-HV)

in ẤU NHI, QUÍ II. 2016 on 10 Tháng Bảy, 2018

Bài 12. CHÚA SỐNG LẠI (GV)

 I. KINH THÁNH: Lu-ca 24:1-32.

II. CÂU GỐC: “Đấng cứu chuộc tôi vẫn sống” (Gióp 19:25).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Chúa Giê-xu đã chết, sau đó sống lại và sẽ sống mãi.

   – Cảm nhận: Chúa Giê-xu sống thì Ngài cũng có thể ban sự sống đời đời cho những ai tin Ngài.

  – Hành động: Vui mừng và nói về sự sống lại của Chúa cho bạn bè.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

Cho các em hát và chơi trò chơi, bày tỏ lòng vui mừng.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

  1. Vào bài.

Các em có thấy người chết lần nào chưa? Khi chết thì như thế nào? (Cho các em trả lời). Không còn nhúc nhích, cử động được, không ăn uống, không mở mắt, chạy nhảy, nói năng… gì được, phải không? Các em có thấy người chết sống lại bao giờ chưa? Chắc là chưa. Khó có ai trên đất nầy chết đi mà sống lại được. Nhưng có một người đã sống lại đó các em ạ. Sự sống lại của người nầy thật là cần thiết cho mọi người. Các em có muốn biết người đó là ai không? Các em hãy theo dõi câu chuyện nhé.

  1. Bài học.

Các em biết Chúa Giê-xu đã bị bắt bớ, bị đánh đập, bị đóng đinh trên cây thập tự và Ngài đã chết.

Sau khi chết, Chúa Giê-xu đã được chôn trong ngôi mộ bằng đá. Những người yêu thương Chúa rất buồn. Vì vậy, ngay ngày đầu tiên trong tuần, có mấy người đàn bà đem thuốc thơm đến mộ để xức cho xác của Chúa.

Khi đi đến gần ngôi mộ, họ vô cùng sửng sốt vì thấy cánh cửa mộ to chắc, nặng nề, đã bị ai đẩy qua một bên. (Giáo viên cho các em biết rõ ngôi mộ thời Chúa Giê-xu là đục từ trong một tảng đá lớn, thành như một cái hang, ngoài cửa hang có một tảng đá rất lớn che lại. Khi có người chết, người ta chỉ cần cho xác chết vào bên trong, lăn tảng đá chặn cửa lại). Họ vội đi vào bên trong mộ, nhưng không thấy xác Chúa Giê-xu đâu cả!

“Đã xảy ra chuyện gì?” Họ hỏi lẫn nhau, “Vì sao xác Chúa Giê-xu lại không có ở đây?” Bỗng nhiên có hai vị thiên sứ, mặc áo sáng láng hiện ra. Họ sợ hãi, úp mặt xuống đất, nhưng thiên sứ nói rằng: “Sao các ngươi tìm Giê-xu ở đây làm gì? Ngài đã sống lại rồi như lời Ngài đã phán với các ngươi”. Lúc đó, họ nhớ lại lời Chúa Giê-xu đã từng phán: “Sau ba ngày, Ngài sẽ sống lại”. Họ vui mừng lắm, không còn buồn rầu nữa, nhanh chóng trở về thành Giê-ru-sa-lem, báo cho những người môn đồ khác biết rằng Chúa Giê-xu đã sống lại!” Thế là mọi người vui mừng, loan truyền tin từ người nầy sang người khác, nơi nầy đến nơi kia. Ai nấy đều hân hoan, phấn khởi.

Dù vậy, trong số họ cũng có hai môn đồ không tin lắm. Họ vẫn còn buồn rầu vì việc Chúa Giê-xu đã chết. Họ không biết tiếp tục ở lại Giê-ru-sa-lem để làm gì, nên quyết định trở về quê. Trên đường về, hai người vừa đi vừa trò chuyện mê mãi đến nỗi không biết có người đang đến gần mình. Người lạ (đó là Chúa Giê-xu) hỏi: “Các ông nói chuyện gì cùng nhau vậy?” Họ trả lời: “Chúng tôi đương nói về việc của Chúa Giê-xu. Ông chắc là người ở xa mới đến nên không biết việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày vừa qua?”. Chúa Giê-xu hỏi lại: “Việc gì vậy? Xin các ông kể cho tôi nghe với”. Họ đáp: “Đó là việc Chúa Giê-xu bị bắt, bị đóng đinh trên cây gỗ. Ngài đã chết rồi. Nhưng khi còn sống, Ngài đã báo trước sau ba ngày, Ngài sẽ sống lại”. Chúa Giê-xu hỏi họ: “Thế các ông có tin điều đó không?” Họ bối rối thưa: “Chúng tôi cũng không biết nữa, vì sáng sớm hôm nay có vài người đàn bà đến báo tin là không thấy xác Ngài trong mộ và có thiên sứ hiện ra bảo rằng Ngài đã sống lại rồi”. Từ lúc đó Chúa Giê-xu bắt đầu giảng dạy lời của Đức Chúa Trời cho họ, giúp cho họ hiểu được lời Chúa và tin vào những lời báo trước của Ngài.

Cứ đi cùng nhau như vậy cho đến gần ngôi làng của họ. Họ mời Chúa Giê-xu ở lại cùng dự bữa ăn. Chúa Giê-xu vui vẻ nhận lời. Ngài lấy bánh ra, cầu nguyện, rồi bẻ ra mà đưa cho họ. Hành động nầy của Chúa khiến họ thấy thật là quen thuộc. Họ nhớ đến hình ảnh Chúa Giê-xu trước đây và như chợt tỉnh ra, họ nhận biết chính là Chúa Giê-xu đang ở trước mặt mình. Nhưng lúc đó, Chúa Giê-xu liền biến đi, không ở với họ nữa. Hai môn đồ nầy vui mừng lắm vì chính họ được thấy Chúa, cùng ngồi ăn với Ngài, nghe lời Ngài dạy dỗ… Bây giờ họ không còn buồn bã nữa, vội quay trở lại thành Giê-ru-sa-lem, báo cho mọi người biết rằng, Chúa thật đã sống lại.

  1. Ứng dụng.

Các em có thấy vui mừng khi biết Chúa Giê-xu sống lại và đến bây giờ Ngài vẫn đang sống không? Ngài là Con của Đức Chúa Trời, không có việc gì Ngài không làm được. Chúa cũng sẽ ban sự sống cho những ai tin Ngài. Đó là điều khiến chúng ta vui mừng lắm, phải không các em? Chúa Giê-xu muốn các em tin Ngài là Con Đức Chúa Trời, tin Ngài đã sống lại, đang sống và chắc chắn sẽ trở lại đón chúng ta vào ở với Ngài trong nước thiên đàng.

Bài 12.  CHÚA SỐNG LẠI (HV)

 I. KINH THÁNH: Lu-ca 24:1-32.

II. CÂU GỐC: “Đấng cứu chuộc tôi vẫn sống” (Gióp 19:25).

BÀI 11.  KẾ HOẠCH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (GV-HV)

BÀI 11.  KẾ HOẠCH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (GV-HV)

in QUÍ II. 2016, THIẾU NHI on 9 Tháng Bảy, 2018

BÀI 11.  KẾ HOẠCH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (GV)

 I. KINH THÁNH: Sáng 42 đến 46.

II. CÂU GỐC: “…Ta là Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời ngươi, là Đấng dạy cho ngươi được ích, và dắt ngươi trong con đường ngươi phải đi” (Êsai 48:17).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Kế hoạch tốt đẹp của Chúa qua đời sống của Giô-sép.

– Cảm nhận: Chúa biết rõ tương lai của em, nên Ngài có kế hoạch tốt đẹp trên đời sống của em.

 – Hành động: Tin cậy và vâng phục kế hoạch của Ngài.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

  1. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

Hướng dẫn các em làm cuốn sổ nhỏ để viết nhật ký. Giả sử các em là Giô-sép, viết ngắn gọn cảm xúc của mình trước những thăng trầm trong cuộc sống.

A. BÀI HỌC KINH THÁNH

  1. Vào đề.

Các em có thích chơi trò chơi ghép hình không? (Cho các em xem bức tranh ghép hình). Những mảnh hình nhỏ vụn, không ra hình thù, nhưng qua bàn tay của người xếp, nó trở thành một bức tranh đẹp mắt. Muốn có được một bức tranh đẹp, thì người ghép phải kiên nhẫn, ghép từng mảnh nhỏ vào vị trí thích hợp, thì nó mới đẹp được.

Cuộc đời của Giô-sép cũng giống như một bức tranh ghép hình, mỗi một việc xảy đến dường như bất lợi, làm cho Giô-sép không hiểu tại sao lại như vậy. Giô-sép bị các anh bán sang Ai-cập làm nô lệ, bị nhốt trong nhà giam, liên tiếp gặp phải nhiều chuyện bất hạnh, nhưng tất cả đều do kế hoạch tốt đẹp của Chúa. Từ đầu đến cuối Ngài vẫn ở cùng Giô-sép. Khi mọi sự hiệp lại, các em sẽ được nhìn thấy một bức tranh đẹp đẽ. Hôm nay, các em sẽ được nhìn trọn bức tranh đẹp đẽ về cuộc đời của Giô-sép.

  1. Bài học.

(1) Giữ gìn mạng sống mọi người.

Khi bảy năm được mùa dư dật qua đi, thì bảy năm hạn hán kéo đến. Hạn hán kéo dài và xảy ra khắp nơi khiến mọi người điêu đứng. Mọi kho lúa dự trữ đều hết, ngoại trừ ở Ai-cập. Tất cả mọi nơi đều đổ xô về Ai-cập để mua lúa, trong đó có các anh của Giô-sép. Lúc đó Giô-sép đang cai trị xứ Ai-cập, và đảm nhiệm việc bán lương thực cho dân. Theo truyền thống thời đó, người dân đến trước mặt tể tướng phải sấp mình xuống lạy. Các anh đứng trước mặt Giô-sép và cúi xuống lạy, nhưng không nhận ra Giô-sép, vì đã hai mươi mấy năm không gặp nhau. Vả lại, Giô-sép đã thay đổi khá nhiều, sang trọng, quyền hành và ăn mặc theo kiểu của người Ai-cập, làm sao mà các anh có thể nhận ra Giô-sép được. Còn Giô-sép thì sao? Khi các anh vừa ra mắt và cúi xuống lạy, thì chàng nhận ra ngay, nhưng Giô-sép giả vờ không biết, đối xử với họ như mọi người khác. Các em nghĩ xem, Giô-sép có thể trả thù các anh về hành động gian ác của họ không? Giô-sép có thể làm, nhưng chàng không làm. Sau hai mươi năm mới gặp lại nhau, Giô-sép muốn biết tính tình họ có thay đổi không, nên giả vờ tố cáo họ là thám tử. Các anh của Giô-sép sợ hãi muốn chứng minh mình không phải là thám tử, nên kể về gia đình. Khi nghe các anh nhắc đến cha già và em út, Giô-sép rất xúc  động. Chàng nói: “Nếu đúng như điều các ngươi nói, thì trở về dẫn em út tới đây. Nhưng phải ở lại đây một người để làm con tin”.

Các anh của Giô-sép càng lo sợ hơn khi một người bị bắt ở lại. Họ đứng trước mặt Giô-sép bàn tán và cho rằng sự rắc rối nầy là do việc làm gian ác của họ năm xưa đối với Giô-sép. Các anh không hề biết Giô-sép nghe hết, vì khi nói chuyện với các anh, Giô-sép nói qua người thông dịch. Nhìn thấy sự hối hận và bối rối của các anh, Giô-sép quay mặt qua chỗ khác khóc. Thái độ của các anh khác hẳn lúc trước.

Theo lệnh của Giô-sép, người ta xúc lúa đổ đầy các bao và để tiền lại trong các bao đó. Các anh của Giô-sép chất lúa trên lưng lừa và ra về với tâm trạng lo sợ. Lo sợ cho Si-mê-ôn ở lại Ai-cập, và không biết về nhà, cha có đồng ý cho em út đi không. Tối đến, họ sợ hãi khi phát hiện bạc ở trong bao và nghĩ rằng điều nầy có liên quan đến việc họ ngược đãi Giô-sép.

Khi về đến xứ Ca-na-an, họ kể lại cho cha nghe mọi điều đã xảy đến. Cuối cùng cha không đồng ý cho em út đi sang Ai-cập. Nhưng trước mắt họ vẫn còn lương thực, nên cũng không vội.

Thời gian trôi nhanh, lương thực đem từ Ai-cập về nay đã sắp hết rồi, cha bảo các con mình đến xứ Ai-cập mua lương thực lần nữa.

Lúc nầy là lúc phải quyết định cho em út đi, vì nếu không, họ không dám trở lại Ai-cập. Như thế, cả gia đình họ sẽ bị nạn đói đe dọa. Giu-đa thưa cùng cha mình: “Xin cha cứ cho em út đi với con. Con sẽ bảo lãnh em. Nếu không dẫn em về, thì con sẽ chịu tội với cha”. Giu-đa bằng lòng lấy mạng sống của mình để bảo lãnh Bên-gia-min an toàn trở về.

Cuối cùng, Gia-cốp đau lòng cho các anh dẫn em út đi. Gia-cốp dặn các con mình mang theo thổ sản của xứ Ca-na-an để biếu cho tể tướng Ai-cập, và mang theo gấp đôi số bạc để trả lại tiền lần trước và mua lương thực lần nầy. Trước khi lên đường, Gia-cốp cầu xin Đức Chúa Trời ban phước cho các con mình bình an.

Khi đến xứ Ai-cập, họ lập tức đến gặp tể tướng. Vừa nhìn thấy Bên-gia-min, Giô-sép suýt chút nữa đã không kềm chế được tình cảm của mình. Giô-sép bảo người quản gia đưa họ về dinh thự của chàng, và sửa soạn buổi tiệc. Khi được đưa vào một căn nhà sang trọng, các anh ngơ ngác nhìn nhau và hốt hoảng nói: “Chắc vì số tiền bữa trước, mà họ dẫn chúng ta vào đây, để bắt làm nô lệ và cướp lừa của chúng ta”. Nhưng lời nói và thái độ vui vẻ của người quản gia xua tan nghi ngờ của họ. Quản gia thả Si-mê-ôn, người bị bắt ở lại, đem đến gặp các anh em. Ông ta còn sai người đem nước ra cho các anh em rửa chân, và cho những con lừa ăn cỏ.

Khi Giô-sép về, các anh em lấy quà đã đem theo, dâng cho Giô-sép, và quỳ gối sấp mình xuống đất. Thái độ và hành động tử tế của tể tướng làm cho họ ngạc nhiên hết sức. Giô-sép hỏi thăm sức khỏe của các anh và cha già. Đưa mắt nhìn Bên-gia-min, Giô-sép xúc động quá, lật đật bước ra khỏi phòng và khóc. Sau khi rửa mặt và làm bộ điềm tĩnh, Giô-sép ra lệnh cho đầy tớ dọn tiệc. Giô-sép sắp xếp các anh ngồi riêng một bàn, theo thứ tự từ anh cả đến em út, khiến họ kinh ngạc nhìn nhau. Phần thức ăn của Bên-gia-min nhiều gấp năm lần của các anh, nhưng họ không ganh tị mà cùng ăn uống rất vui vẻ.

(2) Gia đình Gia-cốp đoàn tụ.

Giô-sép thử các anh mình một lần nữa, xem họ có biết thương yêu nhau không. Lúc họ sửa soạn ra về, Giô-sép dặn quản gia rằng: “Ngươi lấy cái chén bạc của ta để vào miệng bao của người em út”. Quản gia vâng lệnh làm y như vậy.

Hôm sau, trời vừa hửng sáng, các anh em của Giô-sép lên đường về xứ Ca-na-an. Khi ra khỏi thành không xa, Giô-sép sai người quản gia đuổi theo và nói rằng: “Sao các ngươi lấy oán trả ơn? Lấy cắp cái chén bạc của chủ ta?”

Việc xảy đến với họ thật là bất ngờ. Các anh em đồng ý cho người quản gia lục soát. Cuối cùng quản gia lấy ra cái chén từ bao của Bên-gia-min. Các anh em không tin vào mắt mình nữa, nhưng không thể chối cãi được, vì rõ ràng cái chén lấy ra từ bao của Bên-gia-min.

Không còn cách nào nữa, các anh em đành theo quản gia về gặp Giô-sép.

Đến nơi, vừa thấy mặt Giô-sép họ sấp mình xuống xin tha tội. Giu-đa nài xin Giô-sép cho Bên-gia-min được trở về nhà, còn mình sẽ chịu tội thay cho em. Giu-đa nói: “Xin cho đứa trẻ được trở về nhà. Nếu không cha của chúng tôi sẽ đau khổ và chết mất, vì cha rất yêu thương nó. Anh của nó đã chết rồi. Chúng tôi không muốn thấy cha đau khổ nữa”.

Giu-đa vừa nói đến đó, Giô-sép không chịu được nữa, liền hét lớn đuổi mọi người chung quanh ra ngoài. Khi trong phòng chỉ còn mấy anh em, Giô-sép vừa nói vừa khóc: “Em là Giô-sép đây. Cha còn sống không?” Các anh quá bất ngờ đến nỗi lặng thinh không nói được lời nào.

Các anh nghĩ Giô-sép sẽ trả thù, nhưng Giô-sép nói: “Bây giờ, đừng buồn phiền trách móc nhau về việc ấy nữa. Đức Chúa Trời sai em đến trước để giữ gìn sự sống của gia đình mình”. Nói rồi, Giô-sép hối các anh mau trở về nhà báo tin nầy cho cha và rước cha lên đây, vì nạn đói kém còn kéo dài.

Giô-sép cho xe cộ sang trọng cùng lương thực và nhiều thứ khác trở về nhà đón cha lên. Các em có thể tưởng tượng được sự vui mừng của Gia-cốp khi nghe tin con mình còn sống. Gia-cốp cùng bảy mươi người trong gia đình đi xuống Ai-cập và cảnh cha con gặp nhau thật cảm động.

Giô-sép dẫn cha và các anh em mình đến trước mặt Pha-ra-ôn. Pha-ra-ôn ban cho họ một vùng đất màu mỡ tại Ai-cập và cho họ chăn bầy súc vật của Pha-ra-ôn. Cả gia đình sống đầy đủ, bình an trong những năm đói kém.

  1. Ứng dụng.

Các em thân mến! Đức Chúa Trời có quyền ngăn cản không để cho Giô-sép bị bán, nhưng Ngài cho phép việc đó xảy ra. Giô-sép hiểu được chương trình của Đức Chúa Trời trên đời sống của mình nên dễ dàng tha thứ cho các anh. Lúc trước có lẽ Giô-sép không thể hiểu được, nhưng bây giờ Giô-sép thấy rõ kế hoạch tốt đẹp của Ngài trên đời sống của mình và gia đình. Đức Chúa Trời có kế hoạch của Ngài để phòng chống nạn đói kém và giữ gìn mạng sống của gia đình. Giô-sép hoàn toàn vâng theo kế hoạch của Ngài. Cũng vậy, Đức Chúa Trời cũng có một kế hoạch cho đời sống của các em. Chúng ta không biết rõ kế hoạch của Ngài như thế nào, nhưng tin rằng rất tốt đẹp. Dù các em có ở trong hoàn cảnh như thế nào đi nữa: Khó khăn, nghèo thiếu, bệnh tật, thậm chí không được học hành… nên nhớ rằng, Chúa luôn yêu thương và muốn ban cho các em điều tốt nhất. Phần các em, hãy yên lặng và vâng phục kế hoạch của Ngài, chắn chắc đời sống của các em sẽ được Chúa dẫn dắt và ban phước.

BÀI 11.  KẾ HOẠCH CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (HV)

 I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 42 – 49.

II. CÂU GỐC: “…Ta là Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời ngươi, là Đấng dạy cho ngươi được ích và dắt ngươi trong con đường ngươi phải đi” (Ê-sai 48:17).

III. BÀI TẬP.

1. Sau đây là 5 bước để vâng theo kế hoạch của Ngài. Em hãy đọc những câu Kinh Thánh sau đây và ghi ý chính của những câu Kinh Thánh đó, lên từng dấu chân theo thứ tự.

a. Giăng 3:16, b. 1Giăng 1:9, c. Ê-sai 55:6, d. Thi Thiên 130:6,  e. Công vụ 5:29

  1. Tôi là ai?

Em đã học qua nhiều nhân vật trong Kinh Thánh. Bây giờ, em hãy viết tên từng nhân vật, trước sự việc có liên quan đến họ.

_____ Tôi dùng thủ đoạn gian dối lừa cha mình, để được chúc phước. Tôi là ai?

_____ Thành phố mà tôi ở đầy dẫy tội lỗi, Đức Chúa Trời hủy diệt thành phố đó. Ngài sai thiên sứ giải cứu cả gia đình tôi. Tôi là ai?

_____  Tôi là con duy nhất của cha mẹ. Cha mẹ sinh tôi khi đã già và tôi là con của lời hứa. Tôi là ai?

_____ Tôi được cha nuông chiều và yêu thương từ nhỏ. Lớn lên, tôi được tôn cao, chỉ dưới quyền vua. Tôi là ai?

_____ Em trai tôi tuy có lỗi với tôi, nhưng tôi đã tha thứ cho em mình và anh em tôi đã làm hòa với nhau. Tôi là ai?