Tác giả: andynguyen

Bài 5. ĐA-VÍT VÀ NGƯỜI KHỔNG LỒ (GV-HV)

Bài 5. ĐA-VÍT VÀ NGƯỜI KHỔNG LỒ (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ III. 2016 on 16 Tháng Bảy, 2018

BÀI 5. ĐA-VÍT VÀ NGƯỜI KHỔNG LỒ (GV)

I. KINH THÁNH: 1Sa-mu-ên 17.
II. CÂU GỐC: “Hãy vững lòng bền chí, chớ run sợ, chớ kinh khủng; vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi vẫn ở cùng ngươi trong mọi nơi ngươi đi” (Giô-suê 1:9).
III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:
– Biết: Đa-vít tin cậy Chúa, chiến đấu với người khổng lồ và chiến thắng.
– Cảm nhận: Tin cậy Chúa và vâng lời cha mẹ là điều cần thiết.
– Hành động: Em quyết tâm tin cậy, vâng lời.
IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.
A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.
* Người khổng lồ Gô-li-át.
1. Mục đích: Giúp các em so sánh chiều cao giữa mình với Gô-li-át.
2. Vật liệu: Tập học viên bài 6, gạch dưới câu Kinh Thánh 1Sa-mu-ên 17:4, 1 tấm giấy cứng 50 x 30cm, viết chì, viết màu.
3. Thực hiện:
– Giáo viên vẽ hình Gô-li-át (xem hình trong tập học viên bài 31) lên giấy cứng tùy theo kích thước của Gô-li-át.
– Đến lớp, hướng dẫn các em cùng tô màu hình vẽ Gô-li-át.
– Giáo viên hỏi: Khi quan sát, các em sử dụng cơ quan nào trong cơ thể? (Dùng mắt để quan sát).
– Khi các em tô màu xong, giáo viên treo hình Gô-li-át lên tường và so sánh chiều cao giữa các em với Gô-li-át. Giúp các em thấy rõ Gô-li-át là người khổng lồ.
* Gợi ý 2: Em làm được không?
1. Mục đích: Giúp các em biết trũng Ê-la.
2. Vật liệu: Tập học viên bài 5, 1 tờ giấy dày (lớn nhỏ tùy ý), giấy màu vàng hoặc nâu, đất sét, keo dán.
3. Thực hiện:
– Giáo viên hướng dẫn các em làm theo tập học viên bài 5, phần “Em làm được không?” để làm trũng Ê-la.
– Trong khi các em làm, giáo viên hỏi: Các em còn nhớ trũng là gì không? (Trũng là chỗ đất thấp giữa hai ngọn núi).
– Làm xong, giáo viên nói với các em: “Kinh Thánh có thuật lại một câu chuyện xảy ra tại Ê-la. Bài học hôm nay sẽ cho các em biết câu chuyện đó”.
B. BÀI HỌC KINH THÁNH
(Chuẩn bị giáo cụ: Kinh Thánh, trành ném đá, hình Đa-vít và Gô-li-át (xem phụ lục), bối cảnh Kinh Thánh: Trũng Ê-la và Gô-li-át (làm trong phần “Sinh hoạt đầu giờ”).
1. Vào đề.
Các em còn nhớ bài học tuần trước không? Đa-vít đã phục vụ Chúa bằng cách nào? (Hết lòng trong mọi việc). Hôm nay chúng ta sẽ học thêm một cách hầu việc Chúa của Đa-vít.
2. Bài học.
Nhờ tiếng đàn của Đa-vít, vua Sau-lơ khỏe lại. Lúc ấy, quân Phi-li-tin xâm chiếm xứ Y-sơ-ra-ên. Vua Sau-lơ liền đem quân đi chiến đấu chống lại quân thù. Ba người anh của Đa-vít theo Sau-lơ ra chiến trận, Đa-vít lại tiếp tục chăm sóc bầy chiên giúp cha tại quê nhà Bết-lê-hem.
Ngày này qua ngày khác, ông Y-sai lo âu, thấp thỏm mong biết tin các con nơi chiến trường. Thời ấy chưa có bưu điện, Internet hay truyền hình nên ông Y-sai không thể nào biết được tin các con. Một hôm, ông bảo Đa-vít: “Con hãy mang ít thức ăn đến cho các anh rồi về báo cho cha biết tin tức và sức khỏe của các anh như thế nào”. Đa-vít vâng lời cha, chuẩn bị mọi thứ. Hôm sau, Đa-vít dậy sớm, vội vã lên đường vì trại quân cách Bết-lê-hem khá xa. Từ xa, Đa-vít đã nghe tiếng quân lính xôn xao, reo hò như trận chiến sắp xảy ra.
Nhờ một người trông giữ các thứ đem theo, Đa-vít đi tìm các anh và thấy quân lính hai bên đang dàn trận đối diện nhau (mang tác phẩm thủ công các em làm ra trong “Gợi ý 2”). Lúc Đa-vít trông thấy các anh, đang định hỏi thăm tin tức và chuyển lời cha dặn, bỗng một chuyện xảy ra khiến Đa-vít kinh ngạc. Từ hàng ngũ của quân Phi-li-tin, một người khổng lồ bước ra. Đa-vít chưa bao giờ trông thấy ai cao lớn đến thế (cho các em đứng cạnh hình Gô-li-át để biết người khổng lồ cao đến mức nào). Người khổng lồ đó tên là Gô-li-át. Ông ta đang tiến đến khiêu khích quân Y-sơ-ra-ên (giáo viên mở hình phụ trợ cho các em xem).
Gô-li-át cất tiếng quát lớn: “Các ngươi dàn trận làm gì? Hãy chọn một người ra đấu với ta! Nếu giết được ta, quân ta sẽ làm nô lệ cho các ngươi. Ngược lại, nếu ta thắng, các ngươi phải làm nô lệ cho chúng ta. Hãy cử người ra chiến đấu với ta đi! Ha ha ha!” Cả quân Y-sơ-ra-ên đều khiếp sợ trước người khổng lồ nầy. Đây không phải là ngày đầu tiên quân thù khiêu chiến nhưng đã trải qua bốn mươi ngày rồi.
Một người lính đứng gần Đa-vít nói: “Có nghe người khổng lồ ấy sỉ nhục chúng ta không? Vua Sau-lơ hứa thưởng công lớn cho bất cứ ai giết được Gô-li-át đấy”. Đa-vít định hỏi thêm nhưng anh cả của Đa-vít là Ê-li-áp vội ngăn em mình: “Nầy, em đến đây làm gì? Em để bầy chiên cho ai chăn? Chắc em muốn xem chiến trận nên mới đến đây chứ gì?” Đa-vít trả lời: “Em chỉ hỏi vậy thôi!” Rồi Đa-vít dan xa anh mình, tiếp tục hỏi những gì muốn biết. Thấy vậy, quân lính biết Đa-vít muốn chiến đấu với Gô-li-át. Tin nầy loan đi nhanh chóng. Có người cho vua Sau-lơ hay. Vua Sau-lơ đòi Đa-vít đến gặp.
Đa-vít lập tức đến thưa với vua: “Tâu bệ hạ, xin bệ hạ chớ lo ngại, con sẽ ra chiến đấu với Gô-li-át”. Vua Sau-lơ ngạc nhiên hỏi: “Ngươi nói đùa à? Ngươi chỉ là đứa trẻ, làm sao chống lại người khổng lồ kia được!?” Nhưng Đa-vít trả lời: “Tâu bệ hạ, con làm được. Khi con chăn chiên, Đức Chúa Trời giúp con giết chết gấu và sư tử. Bây giờ Đức Chúa Trời sẽ giúp con đánh bại tên khổng lồ kia. Ngài sẽ gìn giữ con”. Sau-lơ nói: “Vậy thì con đi đi. Nguyện Đức Chúa Trời ở cùng và giữ gìn con”.
Gô-li-át mặc áo giáp, đội mão đồng, còn Đa-vít không quen nên mặc vào khó đi đứng. Vì thế, Đa-vít cởi áo giáp ra và quyết định dùng loại vũ khí quen thuộc. Đa-vít ra suối chọn lấy năm viên đá bóng láng bỏ vào cái túi chăn chiên đeo bên mình, tay cầm gậy, tay cầm trành ném đá, chạy đến nơi dàn trận (cho các em xem hình).
Thấy Đa-vít cầm gậy bước tới, Gô-li-át khinh bỉ nói: “Ta có phải là con chó đâu mà ngươi cầm gậy đến cùng ta?” Đa-vít trả lời: “Ngươi chiến đấu với ta bằng gươm, bằng giáo, nhưng ta chiến đấu với ngươi bởi Danh Đức Giê-hô-va vạn quân”. Gô-li-át tiến về phía Đa-vít; Đa-vít thò tay vào túi lấy một viên đá đặt vào trành và vung thẳng vào trán Gô-li-át. Viên đá bay vút đi, lọt thấu vào bên trong trán khiến Gô-li-át ngã xuống. Đa-vít xông tới, rút gươm của Gô-li-át ra và chặt đầu kẻ thù. Quân Phi-li-tin thấy Gô-li-át bị giết chết, hoảng hốt chạy tứ phía nên bị quân Sau-lơ đuổi theo tiêu diệt.
Đa-vít tin vào quyền năng và sự gìn giữ của Đức Chúa Trời. Chúa cũng sẽ cứu giúp khi con cái Ngài gặp khó khăn. Xin Chúa cho chúng ta cứ luôn tin cậy, vâng lời Ngài trong bất cứ cảnh ngộ nào.
3. Ứng dụng.
– Cho các em xem câu gốc hôm nay và hỏi: Khi sợ hãi, câu gốc nào có thể giúp các em? Sau khi các em trả lời, giáo viên hỏi: Nếu các em không vâng lời cha mẹ hoặc sợ hãi, các em sẽ làm gì? (Cho các em trả lời). Hãy chia sẻ với các em những cảm xúc hoặc kinh nghiệm của bạn khi sợ hãi.
– Hướng dẫn các em học thuộc câu gốc. Sau đó, giúp các em áp dụng vào cuộc sống (ví dụ: Ở nhà phải vâng lời ba mẹ, xếp dọn áo quần, đồ đạc… cũng đừng sợ hãi vì Đức Chúa Trời luôn ở cùng các em).
– Hướng dẫn các em làm bài tập trong sách học viên.
– Cuối cùng, giáo viên hướng dẫn các em cầu nguyện cảm tạ Chúa đã luôn ở cùng. Xin Chúa giúp các em biết sống trong sự tin cậy và vâng lời Ngài.

BÀI 5. ĐA-VÍT VÀ NGƯỜI KHỔNG LỒ (HV)

I. KINH THÁNH: 1Sa-mu-ên 17.

II. CÂU GỐC: “Hãy vững lòng bền chí, chớ run sợ, chớ kinh khủng; vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi vẫn ở cùng ngươi trong mọi nơi ngươi đi” (Giô-suê 1:9).

III. BÀI TẬP.

1. EM LÀM ĐƯỢC KHÔNG?

Câu chuyện Kinh Thánh hôm nay xảy ra tại một thung lũng.

Em và bạn cùng làm một thung lũng. Dùng giấy màu vàng nâu làm đất, dùng đất sét làm núi, thêm cỏ xanh và hoa cho đẹp.

2. CHIỀU CAO CỦA GÔ-LI-ÁT.

Giáo viên giúp các em:

a. Xem Kinh Thánh 1Sa-mu-ên 17:4, cho biết Gô-li-át cao bao nhiêu? (Xem Bản diễn ý).

b. Cả lớp vẽ hình Gô-li-át lên giấy cứng khổ lớn theo sự hướng dẫn của giáo viên.

c. Dán hình Gô-li-át lên tường.

d. Cho các em đứng bên bức tranh để biết Gô-li-át cao như thế nào so với em.

 

 

3. EM SẼ NÓI GÌ?

* Viết câu trả lời của em.

BÀI 5. CHÚA CỨU THẾ LÀ MÓN QUÀ KỲ DIỆU (GV-HV)

BÀI 5. CHÚA CỨU THẾ LÀ MÓN QUÀ KỲ DIỆU (GV-HV)

in ẤU NHI, QUÍ III. 2016 on 16 Tháng Bảy, 2018

BÀI 5. CHÚA CỨU THẾ LÀ MÓN QUÀ KỲ DIỆU (GV)

 I. KINH THÁNH: Lu-ca 2:1-7.

II. CÂU GỐC: “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài” (Giăng 3:16a).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Đức Chúa Trời yêu thương và ban Chúa Giê-xu xuống thế gian, Ngài đã giáng sinh tại làng Bết-lê-hem.

– Cảm nhận: Chúa Giê-xu là “món quà kỳ diệu” mà Đức Chúa Trời ban cho em.

– Hành động: Em sẵn sàng mở lòng đón nhận Chúa Giê-xu.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Trang trí cây Nô-ên.

  1. Mục đích: Cho các em hiểu bài và hứng thú trong học tập.
  2. Chuẩn bị:

Một cây nhỏ hay cành thông (dương liễu) tươi. Nếu không có cây tươi, tìm một nhánh cây khô, lấy bông gòn xé mỏng quấn chung quanh nhánh cây làm cây Nô-ên tuyết, với dây kim tuyến và những quả châu trang trí cây Nô-ên, dây đèn điện.

  1. Thực hiện.

Phát cho các em hộp quà, ngôi sao, cây thông, các em đã làm tuần trước. Giáo viên hướng dẫn các em trang trí cây Nô-ên. Sau khi trang trí xong, giáo viên kể cho các em về sự tích của nó.

* Sự tích cây Nô-ên.

Truyền khẩu kể rằng: Vào một đêm đông lạnh buốt, trên đường trở về nhà, một người Đức tên là Martin Luther nhìn thấy những cây thông phủ đầy tuyết rất đẹp. Ông liền chọn một cây đem về để trang trí cho đêm kỷ niệm Chúa giáng sinh. Từ đó, cây thông ngày càng đẹp hơn khi được treo lên những bóng đèn nhấp nháy, những quả châu lung linh, và nó dường như là biểu tượng mỗi dịp Giáng sinh về. Mỗi khi trang trí cây Nô-ên nhắc chúng ta nhớ “món quà kỳ diệu” mà Đức Chúa Trời ban cho chúng ta là Chúa Giê-xu, và biết ngày lễ kỷ niệm Chúa Giê-xu giáng sinh đã đến gần.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

  1. Vào đề.

Các em còn nhớ sau khi thiên sứ báo cho mình biết sẽ có thai, cô Ma-ri đã làm gì không? (Cho các em suy nghĩ trả lời). Đúng rồi, Ma-ri đến thăm bà Ê-li-sa-bét để chia sẻ với bà niềm vui cùng sự lo lắng của mình. Bài học hôm nay các em sẽ biết điều gì xảy ra với người mà Ma-ri đã hứa hôn nhé!

  1. Bài học.

Sau khi thiên sứ rời khỏi Ma-ri, thiên sứ cũng hiện đến báo tin cho Giô-sép biết, thai Ma-ri đang mang là bởi Đức Thánh Linh, và khuyên ông đừng ngại cưới Ma-ri làm vợ. Giô-sép phân vân một tí nhưng cũng vâng lời.

Lúc ấy, vua ra lệnh kiểm tra dân số trên toàn đất nước, nên Giô-sép nói với Ma-ri: “Chúng ta phải đến Bết-lê-hem để ghi tên vào sổ theo lệnh của vua”. Ma-ri chuẩn bị hành lý và hai người lên đường.

Khi đến thành Bết-lê-hem, Ma-ri cần một phòng để nghỉ ngơi nhưng họ không tìm được! Tất cả các phòng trọ đều đã có người thuê! Họ phải làm sao khi Ma-ri sắp sinh em bé? Các em có cách gì giúp đỡ Ma-ri không?

Cuối cùng, một chủ quán trọ bảo: “Chúng tôi không còn phòng, chỉ còn một chuồng chiên, nếu hai người không chê thì có thể ở đó”. Vậy là Ma-ri và Giô-sép nghỉ tạm ở chuồng chiên.

Trong lúc chờ đợi ghi tên vào sổ thì đêm hôm đó, lời hứa kỳ diệu của Đức Chúa Trời đã trở thành sự thật. Chúa Giê-xu được sinh ra. Ma-ri lấy khăn bọc Chúa Giê-xu và cẩn thận để vào máng cỏ.

  1. Ứng dụng.

Các em thân mến! Vì yêu thương con người, Đức Chúa Trời đã ban “món quà kỳ diệu” là Chúa Giê-xu cho mọi người, trong đó có các em. Vậy, các em có cảm tạ Đức Chúa Trời không? Các em có sẵn sàng đón Chúa Giê-xu ngự vào lòng mình chưa? (Giáo viên giải thích cho các em như thế nào là đón Chúa Giê-xu ngự vào lòng).

* Chuẩn bị.

– Kéo, keo, viết chì màu, viết chì.

* Thực hiện.

– Cho các em tô màu hình vẽ.

BÀI 5. CHÚA CỨU THẾ LÀ MÓN QUÀ KỲ DIỆU (HV)

 I. KINH THÁNH: Lu-ca 2:1-7.

II. CÂU GỐC: “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài” (Giăng 3:16a).

III. BÀI HỌC: Đức Chúa Trời yêu thương và ban Chúa Giê-xu xuống thế gian, Ngài đã giáng sinh tại làng Bết-lê-hem.

IV. BÀI TẬP: Cho các em tô màu hình vẽ.

 

BÀI 4.  CÔ GÁI CÓ ĐỨC TIN VÀ LÒNG CAN ĐẢM (GV-HV)

BÀI 4.  CÔ GÁI CÓ ĐỨC TIN VÀ LÒNG CAN ĐẢM (GV-HV)

in QUÍ III. 2016 on 16 Tháng Bảy, 2018

 

BÀI 4.  CÔ GÁI CÓ ĐỨC TIN VÀ LÒNG CAN ĐẢM (GV)

I. KINH THÁNH: Giô-suê 1-2.

II. CÂU GỐC: “Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi” (Phi-líp 4:13).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Ra-háp là một cô gái yếu đuối, nhưng đã có hành động rất can đảm: Giấu hai thám tử đang bị truy bắt trong nhà của mình.

– Cảm nhận: Tin tưởng Đức Chúa Trời thì sẽ có được sự can đảm.

– Hành động: Tin cậy Chúa để có sự can đảm.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

1. Cho các em thảo luận: Can đảm là gì? Đưa ra dẫn chứng cụ thể.

2. Dựa theo nội dung hai câu chuyện trong tập học viên, hướng dẫn các em dựng thành vở kịch để diễn trước lớp.

3. Ghi câu “BẠN DÁM KHÔNG?” Thật lớn trên bảng.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

1. Vào đề.

“BẠN DÁM KHÔNG?” Các em đã từng thách thức với ai câu nầy chưa? Hoặc đã có ai thách thức các em bằng câu nói nầy chưa? Nó có nghĩa gì vậy? (Lắng nghe ý kiến của các em). Ý nghĩa của từ “can đảm” là gì? (Có thể viết định nghĩa lên bảng).

 

Có nhiều bạn đã biểu hiện lòng can đảm rất tốt, giúp đỡ nhiều người, nhưng cũng có nhiều bạn chỉ khoe khoang sự can đảm của mình một cách ích kỷ, khiến cho bạn bè khiếp sợ. (Cho các em diễn kịch trong phần chuẩn bị số 2. Nếu không đóng kịch được, thì mở tập học viên bài số 4, mời hai em đọc lớn cho cả lớp nghe hai câu chuyện trong sách). Sau đó, cho các em so sánh nội dung hai câu chuyện, thảo luận về hai sự can đảm đó.

Trong bài học nầy, các em sẽ được làm quen với một cô gái can đảm. Sau đó, các em rút ra kết luận: Sự can đảm đó có lợi hay có hại nhé!

2. Bài học.

Môi-se, người lãnh đạo của dân Y-sơ-ra-ên, đã qua đời. Bây giờ, Giô-suê là người lãnh đạo mới của họ.

Giô-suê truyền lệnh cho dân Y-sơ-ra-ên chuẩn bị tinh thần sẵn sàng và lương thực đầy đủ, để ba ngày nữa sẽ vượt sông Giô-đanh, tiến chiếm Đất Hứa mà Đức Chúa Trời đã hứa ban.

Lúc đó là mùa gặt, nước sông Giô-đanh dâng lên rất cao, nước chảy siết, nên việc vượt qua sông không phải là chuyện dễ. Nhưng Giô-suê đã vạch sẵn kế hoạch theo sự hướng dẫn của Chúa.

* Hai thám tử do thám thành Giê-ri-cô.

Trước khi đưa cả hội chúng qua sông, Giô-suê sai hai thám tử đến Giê-ri-cô để do thám. Hai thám tử đó bơi qua dòng nước chảy xiết của sông Giô-đanh để đến Giê-ri-cô. Họ hành động rất cẩn thận vì sợ quân địch phát hiện.

Khi trời vừa tối, có hai người lạ xuất hiện ở thành Giê-ri-cô. Họ đến một nhà trọ, nữ chủ nhân của ngôi nhà tên là Ra-háp. Dù hai người nầy vào nhà Ra-háp một cách bí mật, nhưng cuối cùng cũng có người phát hiện ra. Tin nầy lập tức truyền đến tai vua: “Đêm nay, có hai người lạ ở nhà Ra-háp, chắc là mấy người Y-sơ-ra-ên đến do thám!” Vua liền hạ lệnh cho quân lính đến nhà Ra-háp bắt hai kẻ lạ mặt đó. “Chúng nó nhất định là thám tử của dân Y-sơ-ra-ên đến do thám xứ ta”.

Chúng ta cùng quay trở lại nhà Ra-háp để xem việc gì xảy ra tại đó nhé! Khi hai người lạ vào nhà, Ra-háp đã nhận biết đây là những người Y-sơ-ra-ên, và chắc chắn họ sẽ gặp nguy hiểm. Dù Ra-háp ở Giê-ri-cô, nhưng nàng đã nghe nhiều về những việc quyền năng mà Đức Chúa Trời đã làm trên dân Y-sơ-ra-ên, và nàng cũng biết Đức Chúa Trời sẽ ban cho họ xứ sở của mình. Ra-háp tin và quyết định che giấu hai thám tử. Đây là quyết định thật can đảm, vì nếu quân Giê-ri-cô biết được, chắc chắn Ra-háp sẽ bị hình phạt.

Ra-háp vội dẫn hai thám tử lên mái nhà, giấu dưới đống cây gai mà nàng phơi trên ấy. Nàng vừa đi xuống, thì quân lính của nhà vua cũng vừa ập đến trước cửa. Họ bảo Ra-háp: “Hãy đem mấy người mới đến ra nạp cho ta, vì họ là thám tử của địch”.

Ra-háp đáp: “Có mấy người đến đây thật, nhưng tôi đâu có biết họ là thám tử. Lúc trời vừa tối, họ đã ra đi. Tôi không rõ họ đi đâu. Nếu nhanh chân, các ông có thể đuổi theo kịp”.

Quân lính tin lời Ra-háp, lập tức đuổi theo về hướng sông Giô-đanh để bắt hai thám tử. Trời đã tối và người ta đóng cửa thành lại.

* Lời cầu xin của Ra-háp.

Khi mọi sự trở nên im ắng, Ra-háp leo lên mái nhà để gặp hai thám tử. Nàng nói rằng: “Tôi biết Đức Giê-hô-va sắp ban cho các ông đất nầy, vì ở đây ai nấy đều khiếp sợ khi nghe tiếng các ông. Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ông thật là Chúa của trời và đất”.

Có thể Ra-háp không biết những điều nàng vừa nói ra thật đúng lúc và hai thám tử rất muốn nghe. Nàng lại nói tiếp: “Bây giờ, tôi xin các ông thề trước mặt Đức Giê-hô-va sẽ bảo đảm sự sống cho tất cả mọi người trong gia đình tôi. Vì tôi đã giúp các ông hôm nay, xin các ông cũng thương tình giúp lại cho chúng tôi”.

“Nàng đã cứu mạng chúng tôi, chúng tôi sẽ cứu mạng gia đình nàng. Nếu nàng giữ kín bí mật, không tiết lộ với ai về chúng tôi, thì chúng tôi sẽ giữ đúng lời hứa”. Hai thám tử nói với Ra-háp như vậy.

Sau đó, họ cùng nhau bàn kế hoạch tiếp theo. Nhà của Ra-háp ở ngay trên tường thành (tường thành Giê-ri-cô rất vững chắc, bề ngang rất rộng đến nỗi người dân ở đây cất nhà trên đó), phía sau có cửa sổ hướng ra núi. Ra-háp lấy một sợi dây thừng thật chắc, cột vào cửa sổ rồi thòng xuống tường thành. Hai thám tử bám theo sợi dây tuột xuống, thoát ra ngoài thành cách an toàn. Trước khi đi, Ra-háp dặn hai thám tử: “Các ông cứ chạy về phía núi, ẩn núp ở đó ba ngày, để những kẻ đuổi bắt các ông trở về thành rồi hẳn đi”.

Đây quả là một ý hay. Hai thám tử dặn Ra-háp treo sợi dây màu đỏ vào cửa sổ, để cho dân Y-sơ-ra-ên biết đó là nhà của nàng và không đụng đến. Hai thám tử còn nói rằng: “Gia đình nàng phải ở trong nhà. Nếu có ai ra khỏi nhà, thì chúng tôi không chịu trách nhiệm về họ. Còn nếu nàng phản bội chúng tôi, thì coi như chúng tôi không hứa với nàng điều gì hết và chúng tôi sẽ không bảo vệ cho gia đình nàng”. Ra-háp vâng theo và vội cột ngay vào cửa sổ sợi dây màu đỏ.

Hai thám tử theo lời dặn của Ra-háp ẩn náu trong hang núi ba ngày, cho đến khi những kẻ đuổi bắt  quay về thành Giê-ri-cô. Hai thám tử xuống núi, vượt sông Giô-đanh trở về gặp Giô-suê. Họ báo cáo: “Quả thật, Đức Giê-hô-va đã phó cả xứ vào tay chúng ta. Hết thảy dân xứ đó đều khiếp sợ chúng ta”.

3. Ứng dụng.

Các em thân mến! Trong câu chuyện nầy, các em thấy nổi bật lên nhân vật nào? Các em khâm phục nhân vật đó ở điểm nào? (Cho các em trả lời). Hành động của Ra-háp cho các em những suy nghĩ gì?

Đức tin nơi Đức Chúa Trời đã giúp Ra-háp can đảm giấu hai thám tử trong nhà. Kinh Thánh chép khi dân Y-sơ-ra-ên tấn công thành Giê-ri-cô, gia đình Ra-háp vẫn bình an. Các em có biết tại sao không? Hãy xem Hê-bơ-rơ 11:31: “Bởi đức tin, kỵ nữ Ra-háp không chết với kẻ chẳng tin, vì nàng đã lấy ý tốt tiếp rước những kẻ do thám”. Bởi đức tin và lòng can đảm, Ra-háp đã được xếp vào danh sách các anh hùng đức tin: Áp-ra-ham, Y-sác, Môi-se, Ra-háp, Ghê-đê-ôn, Sam-sôn, Giép-thê, Đa-vít, Sa-mu-ên… (xem Hê-bơ-rơ 11).

Đức tin và sự can đảm luôn luôn đi đôi với nhau. Nếu các em có đức tin nơi Chúa, thì các em sẽ can đảm nhận lấy những công việc Chúa giao, hoặc can đảm sống cho Chúa. Bây giờ là thì giờ để mỗi em tự đánh giá mình trong những ngày qua. Các em có sẵn sàng làm hoặc nói về Chúa cho bạn bè không? Hay các em vẫn còn nhút nhát sợ hãi, không dám nói, không dám làm? Các em có can đảm sống cho Chúa không? (Mọi người nói dối, em vẫn thành thực, bày tỏ em là Cơ Đốc nhân, cầu nguyện trước bữa ăn dù bị bạn bè chế nhạo…).

“Em không dám!”, “Em không đủ can đảm để làm công việc đó!” Có lẽ đó là những câu các em thường nói. Chúng ta lấy đâu ra sức mạnh để làm những việc đó? Câu gốc sẽ trả lời cho các em. (Mời một em đọc to câu gốc). Chúa Giê-xu sẽ ban cho các em lòng can đảm, miễn là các em tin cậy Ngài.

BÀI 4. CÔ GÁI CÓ ĐỨC TIN VÀ LÒNG CAN ĐẢM (HV)

I. KINH THÁNH: Giô-suê 1,2.

II. CÂU GỐC: “Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi” (Phi-líp 4:13).

III. BÀI TẬP.

1. Ai can đảm?

Em từng hỏi ai câu nầy chưa? Hay đã có người hỏi em? Khi nào thì cần phải can đảm?

Hãy xem hai câu chuyện dưới đây, bạn nào thực sự can đảm. Sau đó trả lời những câu hỏi bên dưới.

a. Minh giết chết một con rắn và cầm xác rắn dọa các bạn nữ. Các bạn ấy đều sợ tránh ra xa. Lúc đó, Minh nhìn thấy Cúc là một bạn bị liệt đôi chân phải ngồi trên xe lăn. Minh nghĩ: “Thử xem bạn ấy sẽ làm như thế nào?” Minh liền ném con rắn đến gần Cúc.

b. Lài vừa đi học về, ngang qua nhà của Thắng thì thấy trong nhà có nhiều khói bốc lên. Lài liền kêu lớn để gọi hàng xóm và tay liên tục nhấn chuông nhà Thắng. Trong khi đó, Thắng và mẹ bạn ấy ở trong nhà cũng đã phát hiện đám cháy nên gọi cứu hỏa ngay. Còn Lài thì chạy xông vào nhà để bế em của Thắng ra khỏi nơi cháy.

* Suy nghĩ kỹ.

Ai can đảm, Minh hay Lài? Tại sao? Hành động của Minh có ý gì? Em nghĩ xem Lài có sợ hãi không? Theo em, thế nào là can đảm?

……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

2. Đọc kỹ những câu sau, xem đúng hay sai, rồi ghi chữ Đ vào trước câu đúng, chữ S vào trước câu sai.

__a. Giô-suê dẫn dắt dân sự vào miền Đất Hứa và tin rằng Đức Chúa Trời luôn ở cùng, giúp đỡ mình.

__b. Hai thám tử không dám vào thành Giê-ri-cô, vì họ sợ hãi dân bản xứ.

__c. Ra-háp rất can đảm khi che giấu hai thám tử.

__d. Hai thám tử không đủ can đảm tin tưởng vào Ra-háp.

__e. Ra-háp nghe và tin rằng Đức Chúa Trời là Đấng quyền năng.

3. Suy gẫm câu gốc tuần nầy.

Phải chăng có lúc em cũng cần có sự can đảm để nhận lãnh công việc Chúa giao?

Ai có thể cho em sự can đảm để làm những công việc đó?

…………………………………………………………………………………………………………………………

Em có dự định làm một việc gì đó mà thiếu sự can đảm không? Bây giờ, em cầu nguyện với Chúa, xin Ngài ban cho em sức mạnh và sự can đảm để làm công việc đó nhé!

 

BÀI 4.  NHẠC SĨ CUNG ĐÌNH (GV-HV)

BÀI 4.  NHẠC SĨ CUNG ĐÌNH (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ III. 2016 on 16 Tháng Bảy, 2018

BÀI 4.  NHẠC SĨ CUNG ĐÌNH (GV)

 I. KINH THÁNH: 1Sa-mu-ên 16:14-23.

II. CÂU GỐC: “Hễ làm việc gì, hãy hết lòng mà làm, như làm cho Chúa, chớ không phải làm cho người ta” (Cô-lô-se 3:23).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Để tỏ lòng yêu mến Chúa, Đa-vít hết lòng làm tốt mọi việc theo ý Ngài.

– Cảm nhận: Chúa vui lòng khi các em biết dùng khả năng Ngài ban để phục vụ Chúa và giúp đỡ người khác.

– Hành động: Noi gương Đa-vít, em làm mọi việc thật tốt để bày tỏ lòng yêu mến Chúa.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

Hội họa.

1. Mục đích: Giúp các em biết dùng hình vẽ diễn đạt lòng yêu mến Chúa.

2. Vật liệu: Giấy vẽ, viết chì màu, một tờ giấy cứng gấp đôi (20 x 30cm). Ghi lên giấy như sau:

  1. Thực hiện:

– Các em làm theo hướng dẫn trên tờ giấy cứng.

– Giáo viên hỏi: “Các em có thích vẽ không? Các em vẽ rất đẹp. Các em biết không, vẽ tranh cũng là một cách bày tỏ lòng yêu mến Chúa”. Sau đó cho các em học câu gốc và cầu nguyện cảm tạ Chúa về mọi điều Ngài ban cho các em.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

  1. Vào đề.

Các em thân mến, trong phần “Sinh Hoạt Đầu Giờ” các em đã được sinh hoạt: Đàn hát, vẽ và đọc Kinh Thánh. Các em thấy không, những điều các em vừa làm đều biểu hiện lòng yêu mến, ca ngợi và cảm tạ Chúa. Các em có thể dùng Thi Thiên của Đa-vít làm lời cầu nguyện của mình. Chúng ta cùng đọc Thi Thiên 19:4. Nhờ sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời nên Đa-vít làm được nhiều việc. Trong bài học tuần trước, các em còn nhớ Đa-vít làm được những gì nào? (Cho các em trả lời). Hôm nay các em chú ý lắng nghe bài học nầy xem Đa-vít sử dụng tài năng của mình như thế nào nhé!

  1. Bài học.

Mọi người trong gia đình đều tin Đức Chúa Trời sẽ giao công việc đặc biệt cho Đa-vít, nhưng chưa rõ việc gì vì chưa đến thời điểm Đa-vít lên ngôi. Vì vậy, Đa-vít vẫn tiếp tục chăn chiên, Sa-mu-ên trở về với công việc của mình, còn Sau-lơ vẫn làm vua.

Dù làm vua của một nước, được mọi người hầu hạ, vâng phục, nhưng Sau-lơ vẫn không cảm thấy vui (cho các em xem hình Sau-lơ), không ai có thể làm cho ông vui vẻ được! Một hôm, một vị quan của Sau-lơ tâu rằng: “Thưa bệ hạ, xin để tôi tìm một người đàn thật hay đến cùng bệ hạ. Có thể tiếng đàn êm ái du dương sẽ giúp bệ hạ vui lên”. Sau-lơ đồng ý: “Tốt lắm, hãy tìm cho ta một người đàn hay”. Một người khác nói tiếp: “Tâu bệ hạ, có một người đàn rất hay. Đó là con trai ông Y-sai ở Bết-lê-hem, một cậu bé dũng cảm và có Đức Chúa Trời ở cùng”. Các em biết người này đang nói về ai không? Chính là Đa-vít. Vua Sau-lơ bảo: “Hay lắm! Hãy tìm con trai của Y-sai đến đàn cho ta nghe”.

Thấy người của vua đến, Y-sai kinh ngạc và lo sợ vô cùng. Người của vua bảo: “Hãy gởi con trai ông là Đa-vít đến cung vua, vì vua muốn nghe cậu ấy đàn”. Y-sai càng ngạc nhiên hơn khi nghe như vậy. Ông liền chuẩn bị bánh, rượu và chiên con cho Đa-vít làm lễ vật dâng vua.

Đa-vít vâng lời cha, vào cung ra mắt vua. Từ đó, mỗi khi vua cảm thấy không vui, Đa-vít liền đàn cho vua nghe (xem hình). Tiếng đàn êm dịu của Đa-vít khiến Sau-lơ được an ủi, tâm hồn nhẹ nhàng, vui vẻ trở lại.

Các em thấy không, Đa-vít sử dụng tài năng trau dồi bấy lâu nay để giúp vua Sau-lơ. Đức Chúa Trời ban cho Đa-vít năng khiếu âm nhạc. Đa-vít cố gắng tập luyện nên cậu đàn rất hay. Cậu dùng âm nhạc bày tỏ lòng yêu mến Chúa và giúp người khác. Đức Chúa Trời cũng chuẩn bị cho Đa-vít cơ hội hầu việc Ngài. Các em cũng vậy, hãy trau dồi khả năng Chúa ban và làm những việc được giao cách hết lòng. Các em có làm được không? Chúa vui lòng khi các em biết dùng khả năng Chúa ban để giúp người khác và phục vụ Ngài.

  1. Ứng dụng.

– Hướng dẫn các em đọc trong tập học viên và tìm câu trả lời (1) Đa-vít luyện tập gì? (2) Đa-vít giúp Sau-lơ bằng cách nào?

– Trong các em, có em biết đàn giống Đa-vít, có em hát hay, có em vẽ đẹp hoặc có nhiều tài năng khác.Trong mắt Đức Chúa Trời, các em đều đặc biệt. Đức Chúa trời dựng nên mỗi người với khả năng khác nhau.

– Hướng dẫn các em làm bài tập “Em thích làm gì?” Hãy đánh dấu các mục sinh hoạt em thích, vì có khả năng gì, em sẽ thích làm việc ấy.

– Các em không nhìn thấy ưu hay khuyết điểm của mình nhưng bạn bè thấy rất rõ. Vậy, các em hãy luân phiên nêu điểm tốt của nhau, khích lệ nhau những việc làm có ích, ví dụ: “Bạn An cẩn thận, luôn dọn dẹp mọi thứ gọn gàng, ngăn nắp…”. Giúp các em nhận thấy những ưu điểm của mình để phát huy những khả năng khác.

– Giải thích cho các em hiểu, không phải Đức Chúa Trời đòi hỏi mọi việc đều phải làm tốt, nhưng Ngài muốn các em phải làm cách hết lòng để bày tỏ lòng em yêu mến Ngài.

BÀI 4. NHẠC SĨ CUNG ĐÌNH (HV)

I. KINH THÁNH: 1Sa-mu-ên 16:14-23.

II. CÂU GỐC: “Hễ làm việc gì, hãy hết lòng mà làm, như làm cho Chúa, chớ không phải làm cho người ta” (Cô-lô-se 2:23).

III. BÀI TẬP.

A. EM THÍCH LÀM GÌ?

Đánh dấu X vào những việc mà em thích làm:

Bơi lội.           Đàn.

Đọc sách.      Nấu ăn.

Vẽ.      Chơi trò chơi.

Hát.     Những việc khác.

B. CÁC BẠN NẦY ĐÃ LÀM GÌ SAU KHI HỌC LỜI CHÚA?

 

  1. NHỮNG ĐIỀU EM LÀM:
  2. Viết ra những điều em làm trong tuần để bày tỏ lòng yêu mến Chúa…………………………….………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………………………………………

  1. Em sẽ lo trau dồi khả năng nào để giúp đỡ người khác?

………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

BÀI 4. Ê-LI-SA-BÉT VÀ MA-RI CA NGỢI CHÚA CỨU THẾ (GV-HV)

BÀI 4. Ê-LI-SA-BÉT VÀ MA-RI CA NGỢI CHÚA CỨU THẾ (GV-HV)

in ẤU NHI, QUÍ III. 2016 on 16 Tháng Bảy, 2018

BÀI 4. Ê-LI-SA-BÉT VÀ MA-RI CA NGỢI CHÚA CỨU THẾ (GV)

I. KINH THÁNH: Lu-ca 1:39-56.CÂU GỐC: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa” (Lu-ca 1:46b).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Ê-li-sa-bét và Ma-ri ca ngợi Đức Chúa Trời thực hiện lời hứa của Ngài bà Chúa Cứu Thế đến với nhân loại.

– Cảm nhận: Lòng yêu mến Chúa được bày tỏ bằng sự ca ngợi Ngài.

– Hành động: Em luôn ca ngợi Cứu Chúa trong mọi hoàn cảnh.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* “Tiếng nói trong lòng em”.

1. Mục Đích: Giúp các em hiểu Bài và hứng thú trong học tập.

2. Chuẩn bị: Photo lớn hai hình vẽ khuôn mặt vui, buồn, hai khuôn mặt chưa có nét.

3. Thực hiện: Giáo viên giơ hai khuôn mặt lên, cho các em trả lời những câu hỏi sau: (1) Hai khuôn mặt nầy có gì khác biệt? Khi nào em cảm thấy vui mừng? (Giơ hình khuôn mặt vui mừng lên). Khi vui em có nói với người khác không? Tại sao? (Cho các em tự do trả lời). Khi nào em cảm thấy buồn rầu? (Giơ hình khuôn mặt buồn rầu lên). Khi buồn rầu em có nói với người khác không? Tại sao? (Cho các em tự do trả lời).

Sau đó cho các em lên vẽ nét mặt vui buồn vào hai khuôn mặt.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

  1. Vào đề.

Các em còn nhớ câu chuyện tuần trước không? Thiên sứ báo tin gì? (Ma-ri sẽ sinh một con trai, đặt tên là Giê-xu). Mari có vâng lời Đức Chúa Trời không? Lễ giáng sinh kỷ niệm điều gì?

Mặc dù Ma-ri bằng lòng vâng lời thiên sứ ban truyền, nhưng trong lòng vẫn lo lắng, không biết nên làm thế nào? Các em có bao giờ lo lắng điều gì không? Các em sẽ làm thế nào? (Cho các em nói ra cách giải quyết của mình). Các em cùng theo dõi bài học hôm nay để biết cách giải quyết của Ma-ri nhé.

  1. Bài học.

Sau khi thiên sứ đi rồi, Ma-ri ngồi nghĩ ngợi một hồi lâu. Cô biết rằng người duy nhất mà mình có thể giải bày tâm sự là Ê-li-sa-bét. Vì thế Ma-ri liền đi thăm Ê-li-sa-bét, một phụ nữ lớn tuổi được Chúa cho mang thai như lời thiên sứ đã nói.

Vừa nghe Ma-ri chào, thai nhi trong bụng Ê-li-sa-bét liền nhảy mừng. Ê-li-sa-bét được Đức Thánh Linh cảm động, lớn tiếng khen Ma-ri rằng: “Cô là người được phước nhất trong giới phụ nữ. Thai trong lòng cô là một phước hạnh lớn lao. Vừa nghe tiếng cô chào hỏi, thai trong bụng tôi đã nhảy mừng. Đức Chúa Trời ban phước cho cô, vì cô tin lời Ngài hứa sẽ trở thành sự thật”. Ma-ri nghe như vậy, biết rằng Đức Chúa Trời muốn dùng Ê-li-sa-bét nói chuyện với mình. Điều đó chứng tỏ là Ma-ri sẽ chịu thai, sinh con và sẽ làm mẹ của Chúa Giê-xu. Lúc ấy, Ma-ri cũng được Đức Thánh Linh cảm động, cất tiếng đáp lời Ê-li-sa-bét: “Tâm hồn tôi ca ngợi Chúa. Tâm linh tôi vui mừng vì Chúa là Cứu Chúa tôi…”. Ma-ri ca ngợi Đức Chúa Trời là Đấng toàn năng, Ngài thương xót và ban phước cho người kính sợ Ngài, bất cứ khi nào, dù trong quá khứ, hiện tại hay là tương lai.

Ma-ri cùng Ê-li-sa-bét ca ngợi Đức Chúa Trời, và điều đó khiến cho sự lo lắng trong lòng của Ma-ri trở thành niềm vui. Ma-ri ở với Ê-li-sa-bét khoảng ba tháng, cùng nhau học tập tin cậy, vâng phục Đức Chúa Trời. Sau đó Ma-ri vui vẻ trở về nhà.

  1. Ứng dụng.

Các em có biết trong câu chuyện Kinh Thánh này vì sao Ê-li-sa-bét lại khen Ma-ri? Chúa Giê-xu là Cứu Chúa của loài người, Ma-ri là mẹ của Chúa Giê-xu, và là người bằng lòng vâng theo ý muốn của Đức Chúa Trời. Qua câu chuyện này chúng ta học được điều gì? (Vâng lời Chúa và ca ngợi Ngài).

* Chuẩn bị.

– Kéo, keo, viết chì màu, viết chì.

* Thực hiện.

– Cho các em tô màu hình vẽ.

BÀI 4. Ê-LI-SA-BÉT VÀ MA-RI CA NGỢI CHÚA CỨU THẾ (HV)

I. KINH THÁNH: Lu-ca 1:39-56.

II. CÂU GỐC: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa” (Lu-ca 1:46b).

III. BÀI HỌC: Ê-li-sa-bét và Ma-ri ca ngợi Chúa Cứu Thế.

IV. BÀI TẬP: Cho các em tô màu hình vẽ.

 

BÀI 3.  LÒNG THAM KHÔNG ĐÁY (GV-HV)

BÀI 3.  LÒNG THAM KHÔNG ĐÁY (GV-HV)

in QUÍ III. 2016, THIẾU NHI on 13 Tháng Bảy, 2018

BÀI 3.  LÒNG THAM KHÔNG ĐÁY (GV)

 I. KINH THÁNH: Dân Số Ký 22:1-41; 24:10-14, 25.

II. CÂU GỐC: “Chớ tham tiền; hãy lấy điều mình có làm đủ rồi, vì chính Đức Chúa Trời có phán rằng: Ta sẽ chẳng lìa ngươi đâu, chẳng bỏ ngươi đâu” (Hê-bơ-rơ 13:5).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Vì tham tiền mà Ba-la-am làm theo ý riêng của mình.

– Cảm nhận: Lòng tham lam dễ khiến chúng ta làm những việc sai trái.

– Hành động: Nhờ Chúa khắc phục tính tham lam, không để cho tính xấu đó phát triển thành vấn đề nghiêm trọng.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ

1. Các em cùng thảo luận những vấn đề liên quan đến sự “tham lam”. Gợi ý cho các em tự suy nghĩ và viết lên bảng hoặc bìa cứng một vài vấn đề như: Tham lam là gì? Tôi có tham lam không?… Những vấn đề nầy có thể thảo luận với nhau, hoặc viết ra giấy.

2. Hướng dẫn các em tìm đọc 2Phi-e-rơ 2:15-16; Giu-đe 11.

3. Viết lên bảng những lỗi lầm mà Ba-la-am đã phạm.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

1. Vào đề.

Các em thân mến! Những suy nghĩ trong lòng và hành động bên ngoài có liên quan mật thiết với nhau. Khi đang vui, các em cảm thấy mình rất dễ chịu với bạn bè, nhưng khi đang bực bội thì sao? (Cáu gắt, thấy ai cũng ghét…). Đức Chúa Trời cho con người có ý chí, tình cảm, biết nhận thấy điều sai, điều đúng, biết vui, buồn, hờn, giận, và Kinh Thánh dạy chúng ta biết cách tự chủ. Các em còn nhớ Kinh Thánh dạy về sự kềm chế cơn giận dữ như thế nào không? (Cho các em nhắc lại Ê-phê-sô 4:26). Nếu em có bản tính khác biệt, không bao giờ biết tạ ơn Chúa thì em phải làm sao? (1Tê-sa-lô-ni-ca 5: 18).

Hôm nay, các em sẽ được học về một người có cảm nhận trong lòng và hành động bên ngoài rất trái ngược nhau. Hãy xem cảm nhận và hành động của người nầy có giống cảm nhận và hành động của các em không?

2. Bài học.

a. Nảy sinh lòng tham không đáy.

Đức Chúa Trời luôn giúp đỡ dân Y-sơ-ra-ên trên suốt cuộc hành trình đến đất hứa. Họ đánh bại dân Ca-na-an và dân A-mô-rít. Tin tức về chiến thắng và sức mạnh của dân Y-sơ-ra-ên truyền đi rất nhanh, làm cho vua Mô-áp là Ba-lác rất sợ hãi.

Dân Y-sơ-ra-ên đóng trại trong đồng bằng Mô-áp đối diện Giê-ri-cô (Bản đồ số 3: Cuộc hành trình dân Y-sơ-ra-ên). Vua Mô-áp hay tin dân Y-sơ-ra-ên đang hướng về đất của mình, thì vô cùng hoảng sợ. Vua cũng được nghe về Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên và biết rằng họ chiến thắng được là nhờ Đấng đó. Vua và dân Mô-áp rất khiếp đảm. Họ sẽ làm gì để đối phó đây?

Dân Mô-áp liền liên kết với dân Ma-đi-an, hy vọng khi hiệp sức lại sẽ đủ sức đối phó với dân Y-sơ-ra-ên. Họ nói: “Dân nầy sẽ ăn nuốt chúng ta như bò ăn cỏ vậy”.

Tuy rằng đã liên kết với dân Ma-đi-an, nhưng vua Ba-lác vẫn lo sợ. Ba-lác liền nảy ra một ý. Vua sai sứ giả đi tìm tiên tri Ba-la-am để nhờ Ba-la-am nguyền rủa dân Y-sơ-ra-ên làm cho họ phải suy yếu đi. Sứ giả đến gặp Ba-la-am nói rằng: “Có một dân tộc đến từ Ai-cập đông như kiến, phủ đầy mặt đất, đang đóng đối diện chúng tôi. Xin ông đến nguyền rủa họ… Có lẽ nhờ ông chúng tôi có thể đuổi họ đi” (Dân Số Ký 22:5-6). Kèm theo lời yêu cầu của sứ giả là vô số vàng bạc nhằm thuyết phục Ba-la-am chịu đi rủa sả dân Y-sơ-ra-ên.

Vàng bạc của Ba-lác đã làm cho Ba-la-am nảy sinh lòng tham muốn. Ông nói cùng sứ giả: “Xin các ông nghỉ lại đây đêm nay. Tôi sẽ trả lời các ông tùy theo lời của Đức Giê-hô-va phán cùng tôi”. Thật ra, ngay từ đầu Ba-la-am đã biết Đức Chúa Trời sẽ không cho phép ông đi rủa sả dân sự của Ngài. Đáng lẽ ông phải trả lời dứt khoát là “Không”.

Đêm đó, Đức Giê-hô-va hỏi: “Ba-la-am, những người trong nhà ngươi là ai?” Đức Chúa Trời biết rõ tất cả mọi chuyện, nhưng Ngài muốn chính Ba-la-am phải nói ra. Ba-la-am thưa: “Ba-lác, vua Mô-áp muốn tôi đến rủa sả dân Y-sơ-ra-ên, để vua có thể đánh đuổi họ đi”. Đức Chúa Trời phán cùng Ba-la-am: “Ngươi không được đi với họ, không được nguyền rủa dân kia, vì đó là dân được ban phước” (Dân Số Ký 22:12).

b. Thực hiện lòng tham không đáy.

(1) Lần 1.

Đức Chúa Trời đã phán dặn rất rõ ràng. Sáng hôm sau, Ba-la-am nói cùng sứ giả: “Các ông về đi! Đức Chúa Trời cấm tôi đi với các ông”. Dù nói vậy nhưng lòng Ba-la-am vẫn đang bị ám ảnh vàng bạc của Ba-lác.

(2) Lần 2.

Vua Ba-lác thất vọng vì Ba-la-am không nhận lời đề nghị của mình. Không nản lòng, Ba-lác cử một đoàn sứ giả khác đông hơn, đem nhiều vàng bạc châu báu hơn lần trước để mời cho được Ba-la-am. Họ đến gặp ông, năn nỉ: “Vua Ba-lác khẩn khoản mời ông đến. Vua hứa sẽ ban cho ông chức vụ cao nhất và tất cả những gì ông muốn, miễn là ông đi rủa sả dân Y-sơ-ra-ên cho vua”. Các em thấy lời đề nghị nầy như thế nào? Thật là hấp dẫn phải không?

Ba-la-am không thể kềm chế lòng tham, nhưng vẫn nói rằng: “Dầu Ba-lác cho tôi cung điện chứa đầy vàng bạc, tôi cũng không thể làm gì ngoài những điều Đức Chúa Trời đã phán dạy tôi”. Câu trả lời của Ba-la-am mới nghe qua tưởng rất dứt khoát, nhưng thực ra không phải như vậy. Các sứ giả của Ba-lác nhìn thấy được sự phân vân trong lòng của Ba-la-am, nhất là khi ông nói: “Xin các ông nghỉ lại đêm nay nữa, để xem Đức Chúa Trời có phán thêm điều gì khác không”. Rõ ràng trong lòng của Ba-la-am khao khát có được quyền thế cũng như sự giàu có mà vua Ba-lác hứa ban cho. Dù ông biết rất rõ ý muốn của Đức Chúa Trời, và cũng biết rằng Đức Chúa Trời ban phước cho dân Y-sơ-ra-ên, nhưng lòng tham không đáy đã khiến cho Ba-la-am hy vọng Đức Chúa Trời sẽ đổi ý mà cho phép ông đi.

Đức Chúa Trời thấy lòng của Ba-la-am nhất quyết muốn đi, nên đêm đó Ngài phán cùng Ba-la-am rằng: “Cứ đi với họ, nhưng chỉ được làm theo lời Ta phán”.

(3) Lần 3.

Ba-la-am hí hửng thắng lừa và sáng sớm hôm sau đã lên đường đi Mô-áp. Ba-la-am chỉ nghĩ đến sự vinh hiển và vàng bạc mà Ba-lác hứa ban cho, còn những lời phán dặn của Đức Chúa Trời thì ông hoàn toàn quên mất. Đức Chúa Trời thấy được những suy nghĩ của Ba-la-am, nên Ngài rất buồn.

Trên đường đi, Đức Chúa Trời đã làm một việc mà chắc chắn Ba-la-am sẽ không bao giờ quên được. Ba-la-am đang cỡi lừa tiến thẳng trên đường cái, tự nhiên con lừa đi tránh vào đồng ruộng. Thông thường, loài súc vật nầy không bao giờ có hành động lạ như vậy. Ba-la-am tức giận, đánh và bắt nó phải trở ra đường cái. Ông không nhận biết rằng đây là cách nhắc nhở của Đức Chúa Trời. Ngài cho thiên sứ đứng ở bên đường, Ba-la-am không trông thấy, nhưng con lừa thấy và vì thế nó mới tránh ra mà đi vào ruộng.

Con lừa tiếp tục đi trên đường cái được một quãng thì đến chỗ đường rất hẹp, hai bên lại có vách che chắn. Thiên sứ của Đức Chúa Trời đứng ở trên đường. Con lừa vì muốn đi qua, nên nép sát vào tường làm kẹt chân của Ba-la-am, và ông nổi giận đánh nó lần nữa. Thiên sứ của Đức Chúa Trời đi tới xa hơn một chút, đứng trong một khúc đường rất hẹp đến nỗi không thể lách qua phải hay qua trái được. Còn lừa tội nghiệp không còn cách nào để đi qua được nữa, chỉ biết nằm mọp xuống. Ba-la-am tức quá vung gậy đánh nó tới tấp. Lúc nầy, để cho Ba-la-am hiểu được mọi việc, Đức Chúa Trời làm một việc lạ lùng là cho con lừa nói tiếng người: “Tôi đã làm gì sai mà ông đánh tôi ba lần?” Có lẽ vì quá giận nên Ba-la-am không còn đủ tỉnh táo để nhận biết tại sao một con lừa lại nói được tiếng người? Ông trả lời: “Vì mày sỉ nhục tao. Nếu có kiếm trong tay, tao đã giết mày rồi!” Lừa lại nói cùng Ba-la-am: “Tôi chẳng phải là con lừa mà ông đã cỡi luôn cho đến ngày nay sao? Có bao giờ tôi làm như vậy chưa?” Ông đáp: “Chưa!”

Ngay lúc đó, Đức Chúa Trời mở mắt Ba-la-am, ông nhìn thấy thiên sứ của Đức Chúa Trời đứng ở bên đường, tay cầm một cây thanh gươm sáng loáng. Ông vội sấp mặt xuống đất. Thiên sứ của Chúa hỏi: “Sao ngươi đánh con lừa ba lần? Ta đến để ngăn cản ngươi, vì ta thấy ngươi đi theo con đường dẫn mình đến nơi hư nát”.

Thiên sứ của Đức Chúa Trời cho phép Ba-la-am tiếp tục lên đường đến Mô-áp, nhưng cảnh cáo ông rằng: “Ngươi chỉ nói điều chi ta phán dặn ngươi”.

c. Hậu quả của lòng tham không đáy.

(1) Không thể thực hiện theo ý riêng.

Vua Ba-lác hay tin Ba-la-am đến liền vui mừng ra tận nơi đón tiếp. Hôm sau, Ba-lác dẫn Ba-la-am lên một đỉnh núi cao, là nơi có thể nhìn xuống thấy toàn bộ trại quân của người Y-sơ-ra-ên đóng ở phía dưới. Ba-la-am yêu cầu Ba-lác xây tại đây bảy bàn thờ, trên mỗi bàn thờ dâng một con bò và một con chiên. Ba-la-am đi tới một chỗ vắng vẻ, hy vọng sẽ được nói chuyện với Chúa. Đức Chúa Trời hiện ra cùng Ba-la-am và lặp lại lời nói của Ngài: “Không được rủa sả dân Y-sơ-ra-ên”.

Ba-la-am quay về chỗ bảy bàn thờ, ông nhìn xuống dân Y-sơ-ra-ên đang đóng trại rồi chúc phước cho họ.

Ba-lác sửng sốt hỏi: “Ông làm gì vậy? Tôi mời ông đến nguyền rủa, ông lại đi chúc phước cho họ”.

Ba-lác dẫn Ba-la-am đến một đỉnh núi khác, nơi đây nhìn xuống chỉ thấy một phần trại quân của người Y-sơ-ra-ên mà thôi. Ba-lác nghĩ rằng có lẽ nơi đây Ba-la-am dễ thốt lời nguyền rủa hơn. Theo yêu cầu của Ba-la-am, Ba-lác dựng bảy bàn thờ như lần trước. Dù biết rất rõ ý muốn của Chúa, nhưng Ba-la-am vẫn tìm một nơi vắng vẻ để dò hỏi ý Chúa. Sau đó, Ba-la-am quay trở lại và nói: “Đức Chúa Trời không phải là người để nói dối, hoặc thay đổi ý kiến. Tôi được lệnh chúc phước, sao dám cãi lời?” Thế rồi lại một lần nữa, Ba-la-am chúc phước cho dân Y-sơ-ra-ên. Thấy thế, Ba-lác rất thất vọng. Vua nói với Ba-la-am rằng: “Nếu ông không nguyền rủa thì cũng đừng chúc phước cho họ chứ?”

Dầu vậy, Ba-lác vẫn muốn thử thêm một lần nữa, hy vọng lần nầy Đức Chúa Trời cho phép rủa sả dân Y-sơ-ra-ên. Ba-lác dẫn Ba-la-am lên một đỉnh núi thứ ba. Tại đây nhìn xuống chỉ thấy toàn sa mạc, có lẽ Ba-lác nghĩ rằng khi không nhìn thấy trại quân của người Y-sơ-ra-ên, Ba-la-am sẽ dễ dàng rủa sả. Ba-la-am yêu cầu xây bảy bàn thờ và dâng của lễ y như những lần trước, và lại thêm một lần nữa ông chúc phước cho dân Y-sơ-ra-ên, theo ý của Đức Chúa Trời.

(2) Không được gì cả.

Đến lúc nầy thì Ba-lác không còn kiên nhẫn được nữa, ông nổi giận đập hai tay vào nhau và nói lớn: “Ta mời ngươi đến đây để rủa sả kẻ thù cho ta, nhưng ngươi lại chúc phước cho chúng nó ba lần. Thôi ngươi hãy về đi. Ta đã hứa ban cho ngươi sự vinh hiển và giàu có, nhưng Đức Chúa Trời đã cản trở ngươi nhận lãnh. Vậy ngươi hãy mau về đi!”

Lời nói của Ba-lác làm Ba-la-am vỡ mộng, thế là không có quyền thế lẫn tiền bạc gì cả. Nhưng Ba-la-am đã bị tiền bạc của Ba-lác quyến rũ quá mạnh, không dứt ra được. Ngoài mặt thì Ba-la-am làm như không còn nghĩ đến những lễ vật của Ba-lác. Nhưng thật ra thì không phải vậy.

(3) Bị giết chết.

Không thể thực hiện theo ý riêng được, Ba-la-am quay sang mưu kế khác. Ông biết Đức Chúa Trời rất ghét tội thờ lạy thần tượng, nên bày mưu cho dân Mô-áp gả con gái họ cho các con trai Y-sơ-ra-ên, dẫn dụ dân Y-sơ-ra-ên thờ cúng thần của dân Mô-áp. Đáng buồn là dân Y-sơ-ra-ên lại trúng kế của Ba-la-am, kết hôn cùng con gái Mô-áp và thờ lạy thần tượng. Thế là cơn giận của Đức Chúa Trời nổi lên cùng dân Y-sơ-ra-ên, khiến nhiều người chết. Ba-la-am cũng bị giết chết (Dân Số Ký 31:8). Lòng tham không đáy của Ba-la-am đã dẫn đến tai họa cho nhiều người. Cuối cùng, bản thân Ba-la-am không hưởng được sự vinh hiển, giàu sang, mà còn bị giết chết cùng với dân ngoại bang nữa.

3. Ứng dụng.

Các em thân mến! Qua bài học trên, các em suy nghĩ và trả lời các câu hỏi sau.

Tại sao Ba-la-am lại cho rằng con lừa không vâng lời? Ông cảm thấy thế nào khị bị Đức Chúa Trời cản lại giữa đường? Tại sao Ba-la-am lại cầu xin đến ba lần để mong Đức Chúa Trời cho phép mình nguyền rủa dân Y-sơ-ra-ên? Tại sao em biết Ba-la-am khao khát có được vàng bạc và vinh hiển của Ba-lác ban cho? (Cho các em trả lời).

Ba-la-am cảm nhận trong lòng một đường, nhưng thực hiện một nẻo. (Biết rõ Đức Chúa Trời không đồng ý, nhưng vẫn bằng mọi cách thực hiện theo ý muốn của mình). Các em suy nghĩ xem Đức Chúa Trời có đẹp lòng với những hành động của Ba-la-am không? (Cho các em tham khảo 2Phi-e-rơ 2:15; Giu-đe 11 và ghi lên bảng tội lỗi mà Ba-la-am đã phạm).

Các em thân mến! Khi các em mắc phải những ý nghĩ giống như Ba-la-am, thì đã có câu Kinh Thánh giúp đỡ các em: “Chớ tham tiền; hãy lấy điều mình có làm đủ rồi, vì chính Đức Chúa Trời có phán rằng: Ta sẽ chẳng lìa ngươi đâu, chẳng bỏ ngươi đâu” (Hê-bơ-rơ 13:5).

Khi trong lòng các em muốn có những vật của người khác, ví dụ như cây thước kẻ, cây bút, đồ chơi… thì câu Kinh Thánh nầy sẽ giúp được gì cho các em? (Giúp các em hiểu rằng điều quan trọng không phải là mình có được những gì, mà là vui lòng với những gì mình có).

(Hướng dẫn các em làm bài tập trong sách học viên. Có hai câu chuyện các em phải hoàn thành. Mời hai em đọc lớn cho cả lớp cùng nghe rồi để các em thảo luận với nhau. Sau đó mỗi em tự làm bài của mình).

Tại sao Minh và Mai lại có những ý nghĩ như vậy? Minh nói rằng, “vẽ là trò chơi của trẻ em”, em nhận thấy câu nói nầy như thế nào? Hãy giải thích? Con người có khả năng hiểu biết mọi vật, mọi việc không? Có phải ai cũng hài lòng với hình dáng bên ngoài của mình hết, phải không? Minh có nên ngưng vẽ để dành tất cả thời gian luyện bóng không? Tại sao Mai tâm sự với mẹ mình về mái tóc? Có thay đổi được gì không?

Các em nhận thấy câu gốc của buổi học hôm nay có giúp được cho Minh và Mai không? Nếu có, đó là gì?

Các em ạ! Đức Chúa Trời tạo ra mỗi con người đều khác nhau, từ vóc dáng, tính tình cho đến năng khiếu, hoàn cảnh gia đình… Đối với Ngài, mỗi chúng ta đều có nét riêng biệt của mình, và Ngài luôn ở cùng, không bao giờ lìa xa chúng ta. Vì thế, các em phải cố gắng phát huy mặt tốt của mình. Khi các em nghĩ rằng: Ở phương diện nào đó, mình giỏi hơn, may mắn hơn người khác, chính là lúc các em cảm thấy vui và tự tin ở mình hơn, hoặc thấy mình đầy đủ hơn những bạn đồng lứa khác. Tự nhiên, các em sẽ thoải mái hơn, sẽ thỏa lòng hơn và cả những việc các em làm cũng trở nên tốt đẹp hơn.

Các em ạ! Khi các em cảm thấy mình không thỏa lòng với những gì mình có, hoặc có tư tưởng tham lam, ích kỷ, hãy cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời, xin Ngài nhắc nhở và giúp đỡ các em khắc phục, không để nó lớn lên biến thành hành động xấu.

Suy nghĩ xem có cảm nhận nào trong lòng mà các em cần cầu nguyện với Chúa? Nên nhớ rằng Đức Chúa Trời luôn ở cùng các em, và không có việc gì khó khăn đối với Ngài.

BÀI 3. LÒNG THAM KHÔNG ĐÁY (HV)

 I. KINH THÁNH: Dân Số Ký 22:1-41; 24:10-14, 25.

II. CÂU GỐC: “Chớ tham tiền; hãy lấy điều mình có làm đủ rồi, vì chính Đức Chúa Trời có phán rằng: Ta sẽ chẳng lìa ngươi đâu, chẳng bỏ ngươi đâu” (Hê-bơ-rơ 13:5).

III. BÀI TẬP.

1. Bằng lòng với những gì em có.

Đức Chúa Trời mong em bằng lòng với những gì Chúa ban cho. Ngài biết tất cả những gì các em cần cho cuộc sống của mình.

Em góp ý cho hai bạn Minh, Mai và có lời gì nhắn nhủ với hai bạn ấy?

Minh:………………………………………………………………………………….

………………………………………………………………………………………….

………………………………………………………………………………………….

Mai:……………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………….

………………………………………………………………………………………….

………………………………………………………………………………………….

2. Trò chuyện với Chúa.

Em có thỏa lòng với bản thân không? (Hình dáng, gia đình, năng khiếu, vật chất…). Em hoàn tất lời cầu nguyện ở dưới. Xin Chúa ban cho em sự thỏa lòng và sống vui vẻ.

3. Giải mật mã.

Ba câu dưới đây đều liên quan đến Ba-la-am. Em hãy tìm ý nghĩa của nó. Chìa khóa sẽ giúp em mở được lời giải. Hãy viết lời giải vào đường gạch ngang.

a. LAM THAM TRI TIÊN MỘT LÀ BA-LA-AM.

* Chìa khóa: Cá lội ngược giòng.

………………………………………………………………………………………………………………………

b. BA-LA-AM LÀ MONG HẾT MUỐN TIỀN CUỘC CHƠI SỐNG VUI GIÀU SỤ SANG, TRỌNG NÊN VÌ ĐÃ ĐẾN ĐI ĐÂU THEO SỰ Ý MÌNH RIÊNG RẼ, KHÔNG BIẾT VÂNG DẠ LỜI DẠY CHÚA.

* Chìa khóa: Ăn miếng nhả miếng.

………………………………………………………………………………………………………………………

c. CÓ, NHỮNG GÌ, BẰNG LÒNG, MÌNH, VỚI.

* Chìa khóa: Đứng đúng vị trí.

…………………………………………………………………………………………………………………..

BÀI 3. NGƯỜI ĐƯỢC CHỌN (GV -HV)

BÀI 3. NGƯỜI ĐƯỢC CHỌN (GV -HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ III. 2016 on 13 Tháng Bảy, 2018

BÀI 3. NGƯỜI ĐƯỢC CHỌN (GV)

 I. KINH THÁNH: 1Sa-mu-ên 16:1-13.

II. CÂU GỐC: “Nguyện lời nói của miệng tôi, sự suy gẫm của lòng tôi được đẹp ý Ngài” (Thi Thiên 19:14).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Đức Chúa Trời chọn Đa-vít làm vua vì biết ông có lòng kính sợ và vâng phục Ngài.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời biết rõ mỗi lòng của các em, Ngài muốn các em sống đẹp ý Ngài.

– Hành động:

* Đọc Kinh Thánh để tìm hiểu Chúa muốn các em làm gì.

* Cầu nguyện xin Chúa giúp các em biết suy nghĩ chín chắn.

* Xin Chúa giúp các em biết vâng phục ý muốn của Ngài và thực hiện ngay từ hôm nay.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

Em tìm được không?

1. Mục đích: Giúp các em hiểu về:

Đa-vít – Bết-lê-hem – Ý nghĩa của việc xức dầu.

2. Vật liệu: Làm sẵn một bảng câu hỏi bằng giấy cứng (55 x 70cm), 4 tấm thiệp tài liệu (xem hình), xem Kinh Thánh và gạch dưới (Lu-ca 2:11), viết màu, mỗi em một thẻ trả lời nhỏ (3 x 5cm), kẹp giấy.

  1. Thực hiện:

– Giáo viên treo bảng câu hỏi lên.

– Phát cho mỗi em một thẻ trả lời 3 x 5cm (ghi “Em tìm được” và tên của em), sau đó giải thích qua nội dung của bốn bảng tài liệu.

– Xem bảng câu hỏi, em nào tìm ra câu trả lời, đem ngay thẻ của mình lên và kẹp kế bên câu hỏi (xem hình).

– Làm xong, giáo viên căn cứ theo thẻ kẹp trên bảng để hỏi và các em trả lời. Khen thưởng những câu trả lời đúng và bổ sung những câu trả lời thiếu hoặc sai.

Hình Sa-mu-ên và Ê-li-áp (xem phụ lục), 4 bảng tài liệu tham khảo (trong phần “Sinh hoạt đầu giờ”), tập học viên bài 3.

  1. BÀI HỌC KINH THÁNH.

* Phương pháp: Kể chuyện có hình, hỏi đáp và diễn kịch.

  1. Vào đề.

Đa-vít là con út trong tám người con trai của ông Y-sai, như vậy, Đa-vít có mấy người anh? (Bảy người). Hằng ngày Đa-vít được giao việc chăn bầy chiên cho cha mình. Đa-vít là người chăn chiên tốt, thường dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi, suối nước bình tịnh. Lúc nào Đa-vít cũng hết lòng chăm sóc và bảo vệ chiên khỏi những hiểm nguy. Khi chiên đã no nê, nằm nghỉ trên thảm cỏ êm ái, Đa-vít ngồi dưới bóng cây râm mát, đàn hát cho chiên nghe những bài do ông sáng tác.

  1. Bài học.

Cứ thế, ngày tháng trôi qua, Đa-vít vui vẻ với cuộc sống chăn chiên cho đến một ngày, một chuyện lạ xảy ra làm thay đổi cuộc đời của cậu.

Hôm đó, Đa-vít dẫn bầy chiên ra đồng như thường lệ, không biết rằng có một cụ già tên là Sa-mu-ên đến thành Bết-lê-hem. Đức Chúa Trời bảo ông đến đây tìm một vị vua mới. Chúa phán với ông: “Sau-lơ là một vị vua không tốt, chẳng biết kính sợ Ta, cũng không vâng lời Ta. Vì thế, thay vì để con trai Sau-lơ lên nối ngôi cha, Ta sẽ chọn một vị vua mới. Ngươi hãy đến Bết-lê-hem, tìm gặp con trai của Y-sai. Ta sẽ chỉ cho ngươi chọn một trong tám con trai của Y-sai làm vua”.

Sa-mu-ên tìm đến nhà Y-sai và bảo muốn gặp các con của ông. Y-sai liền gọi các con mình từng người một đến trước mặt Sa-mu-ên. Đầu tiên là người con trưởng cao lớn, khôi ngô tuấn tú tên là Ê-li-áp. Sa-mu-ên nghĩ bụng: “Chắc đây là người Đức Chúa Trời chọn làm vua”, nhưng Đức Chúa Trời phán: “Chớ xem về bộ dạng và hình vóc cao lớn của nó, vì Ta đã bỏ nó. Loài người nhìn thấy bề ngoài nhưng Đức Chúa Trời nhìn thấy trong lòng”. Chúa là Đấng thấu hiểu lòng người. Ngài biết Ê-li-áp không phải là vị vua tốt.

Bây giờ chúng ta cùng đóng vai các con trai khác của Y-sai đến gặp Sa-mu-ên. (Giáo viên hướng dẫn các em đóng kịch theo tập học viên bài 29 – Diễn xong cho các em xem hình Sa-mu-ên xức dầu cho Đa-vít). Như vậy, cha và các anh của Đa-vít đã chứng kiến việc Sa-mu-ên xức dầu cho Đa-vít. Mọi người biết Đức Chúa Trời chọn Đa-vít làm một việc đặc biệt, nhưng chưa biết ấy là việc gì, vì Sa-mu-ên không nói ra điều đó.

Theo các em thì tại sao Đức Chúa Trời chọn Đa-vít làm vua? (Cho các em trả lời). Đức Chúa Trời biết Đa-vít yêu mến và vâng lời Ngài. Sau này, Đa-vít phạm tội không vâng lời Chúa nhưng vì ông ăn năn, nên Ngài tha thứ và giúp ông trở lại con đường ngay thẳng.

Đức Chúa Trời hiểu rõ lòng người, Ngài biết Đa-vít sẽ trở thành một vị vua tốt.

  1. Ứng dụng.

– Đa-vít yêu mến Chúa nhưng ông cũng biết vâng phục Chúa là một việc không dễ. Đôi khi các em cũng cảm thấy như vậy phải không? Các em có luôn vâng lời cha mẹ không?

– Đa-vít biết cần nhờ cậy Chúa để sống vâng phục Ngài. Câu gốc hôm nay là lời cầu nguyện của Đa-vít với Đức Chúa Trời.

– Để biết mức độ tiếp thu câu gốc của các em, có thể mời vài em giải thích câu gốc. Giáo viên giải thích cho các em biết, sự suy nghĩ của các em có liên quan đến người khác. Nếu suy nghĩ tốt về một người, các em sẽ đối xử tốt với họ và ngược lại. Vì thế, các em cần sự giúp đỡ của Chúa để có suy nghĩ và hành động tốt. Các em có muốn lời cầu nguyện của Đa-vít trở thành lời cầu nguyện của mình không? Các em cùng đọc câu gốc với cả tấm lòng.

– Các em cần biết mạng lệnh của Chúa để làm theo. Câu gốc nào cho các em biết ý muốn của Đức Chúa Trời? Hãy cùng đọc những câu Kinh Thánh sau đây: Ê-phê-sô 4:32; 6:1; Lê-vi Ký 19:11. Sau đó, hướng dẫn các em làm một bảng câu gốc treo tường.

– Trong khi các em thực hiện, giáo viên hướng dẫn các em cắt câu gốc theo hình mẫu trong tập học viên, dán lên giấy hoặc dây ruy băng; khuyến khích các em vâng phục Chúa.

– Làm xong, các em dán lên tường. Sau đó, giáo viên hướng dẫn các em cầu nguyện, xin Chúa giúp các em sẵn lòng vâng lời Ngài.

BÀI 3. NGƯỜI ĐƯỢC CHỌN (HV)

I. KINH THÁNH: 1Sa-mu-ên 16:1-13.

II. CÂU GỐC: “Nguyện lời nói của miệng tôi, sự suy gẫm của lòng tôi được đẹp ý Ngài” (Thi Thiên 19:14).

III. BÀI TẬP.

A. KỊCH.

Thay đổi câu chuyện Kinh Thánh thành vở kịch ngắn, dựa theo mẫu đối thoại dưới đây:

– Dẫn chuyện: Đức Chúa Trời bảo ông Sa-mu-ên đến nhà Y-sai để chọn một vị vua mới cho dân Y-sơ-ra-ên.

– Sa-mu-ên: Chào ông Y-sai, Đức Chúa Trời chọn một trong những người con của ông làm một việc rất đặc biệt. Tôi muốn gặp các con của ông để xem Ngài chọn ai.

– Y-sai: Ồ! Thật vậy à? Tôi sẽ gọi chúng đến ngay bây giờ.

Dẫn chuyện: Bảy người con trai lớn của Y-sai đi ngang qua trước mặt của Sa-mu-ên (Bảy em lần lượt đi ngang qua.) nhưng Sa-mu-ên cứ lắc đầu…

– Sa-mu-ên: (lắc đầu) Không, không phải, Đức Chúa Trời không chọn những người nầy. Y-sai, ông còn người con nào không?

– Y-sai: Tôi còn một con út, hãy còn nhỏ. Tên nó là Đa-vít, đang chăn chiên ngoài đồng.

– Sa-mu-ên: Ông gọi nó về cho tôi xem sao.

– Dẫn chuyện: Người ta gọi Đa-vít về, cậu đến trước mặt Sa-mu-ên. Đức Chúa Trời cho Sa-mu-ên biết cậu bé nầy chính là người được Ngài chọn. Sa-mu-ên đứng lên, lấy dầu đổ trên đầu Đa-vít.

– Sa-mu-ên (xức dầu cho Đa-vít): Đa-vít, Đức Chúa Trời chọn con làm một việc đặc biệt cho Ngài. Xin Chúa ban phước cho con và công việc của con.

B. EM LÀM.

* Làm câu gốc treo tường, để nhắc các em vâng giữ lời Chúa.

1. Cắt hoặc viết lại những câu Kinh Thánh dưới đây, dán vào giấy hoặc dây ruy băng.

2. Trong tuần này, em làm theo câu gốc nào? Thêm ngôi sao vào bên cạnh câu gốc.

“Hỡi kẻ làm con cái, hãy vâng phục cha mẹ mình trong Chúa, vì điều đó là phải lắm” (Ê-phê-sô 6:1).

“Hãy ăn ở với nhau cách nhân từ, đầy dẫy lòng thương xót, tha thứ nhau như Đức Chúa Trời đã tha thứ anh em trong Đấng Christ vậy” (Ê-phê-sô 4:32).

“Các ngươi chớ ăn trộm, ăn cắp, chớ nói dối và chớ lừa đảo nhau” (Lê-vi Ký 19:11).

BÀI 3. LỜI HỨA VỀ CHÚA CỨU THẾ THÀNH HIỆN THỰC (GV-HV)

BÀI 3. LỜI HỨA VỀ CHÚA CỨU THẾ THÀNH HIỆN THỰC (GV-HV)

in ẤU NHI, QUÍ III. 2016 on 13 Tháng Bảy, 2018

BÀI 3. LỜI HỨA VỀ CHÚA CỨU THẾ THÀNH HIỆN THỰC (GV)

 I. KINH THÁNH: Ma-thi-ơ 1:18-2:23; Lu-ca 1,2.

II. CÂU GỐC: “Ta cũng sẽ giáng cho mọi sự lành Ta đã hứa” (Giê-rê-mi 32:42b).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Đức Chúa Trời đã thực hiện lời hứa của Ngài, sai Chúa Giê-xu đến thế gian cứu chuộc tội lỗi loài người.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời là Đấng thành tín, Ngài đã hứa thì Ngài sẽ làm thành.

– Hành động: Tin vào lời hứa của Chúa dù phải chờ đợi.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Trò Chuyện Về Lễ Giáng Sinh.

  1. Mục đích: Giúp các em hiểu bài và hứng thú trong học tập.
  2. Chuẩn bị:

– Giấy màu, viết chì màu, keo, kéo, dây rubăng.

– Vẽ những nét thật mờ vào giấy, như bông hoa, cây thông, hộp quà, cây gậy, ngôi sao, trái châu và những gì có thể treo trên cây Nô-ên.

– Những câu hỏi: Lễ giáng sinh là gì? Có những gì trong ngày Lễ Giáng sinh? Em làm gì trong ngày lễ giáng sinh? Em có được nhận quà trong ngày lễ giáng sinh không? Ngày nay có ai không biết về lễ giáng sinh không?

  1. Thực hiện.

Giáo viên đưa ra câu hỏi cho các em trả lời, và giải thích cho các em biết Đức Chúa Trời hứa ban Chúa Giê-xu đến thế gian từ thời Cựu Ước, và Ngài đã thức hiện lời hứa của Ngài.

– Chia mỗi em một bức vẽ để các em cắt dán và trang trí cho đẹp. Hướng dẫn các em cột hay dán dây rubăng trên ngọn cây thông, hộp quà, bông hoa, để treo lên cây Nô-ên.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

  1. Vào đề.

Các em thân mến! Các em còn nhớ Bài học tuần trước Đức Chúa Trời hứa ban gì cho dân Y-sơ-ra-ên không? (Các em trả lời). Bài học hôm nay sẽ cho các em biết lời hứa ấy được thực hiện như thế nào nha.

  1. Bài học.

Các em nhắm mắt lại! Khi nào cô (thầy) đếm 2,3 các em mở mắt ra! (Trong lúc các em nhắm mắt, mời người đóng vai Ma-ri vào, rồi đếm 2,3 cho các em mở mắt ra để trò chuyện với “Ma-ri”).

– Giáo viên: Chào cô Ma-ri.

– Ma-ri: Chào cô giáo, chào các em (vẫy tay). Biết các em muốn nghe lời hứa về sự giáng sinh của Chúa Giê-xu, cô vội vàng đến giúp các em.

– Giáo viên: Thật tốt quá! Cô có thể cho các em biết ai đã nói với cô về lời hứa ấy được không ạ?

– Ma-ri: Được chứ. Đó là thiên sứ của Đức Chúa Trời.

– Giáo viên: Thưa cô, cô có thể kể cho biết cô gặp thiên sứ trong trường hợp nào? Và thiên sứ đã nói gì với cô?

– Ma-ri: Các em biết không, vì yêu mến Đức Chúa Trời, cô thường xuyên đến nơi thờ phượng Chúa để nghe giảng dạy lời Ngài, cầu nguyện và giúp đỡ những người đau ốm. Mọi người đều khen cô là cô gái dễ thương. Vì thế, có một thanh niên trong làng rất yêu mến Chúa, tên là Giô-sép muốn cưới cô làm vợ. Cô rất vui và mong đợi ngày ấy (mỉm cười).

Một ngày nọ, cô đang cầu nguyện với Đức Chúa Trời tại phòng riêng. Đột nhiên, một thiên sứ xuất hiện và phán với cô: “Hỡi người được ơn, mừng cho cô, Chúa ở cùng cô”. Cô ngạc nhiên! Thiên sứ liền nói: “Này Ma-ri, đừng bối rối! Cô sẽ có thai, sinh một trai và đặt tên là Giê-xu. Con trai đó được xưng là Con của Đấng rất cao”.

– Giáo viên: Cô Ma-ri ơi! Lúc đó cô cảm thấy như thế nào?

– Ma-ri: Cô kinh ngạc lắm! Cô chưa kết hôn, sao có thể có thai và sinh con được? Thấy cô lo lắng, thiên sứ liền trấn an: “Đừng sợ! Đức Thánh Linh sẽ đến trên cô và Con thánh được sinh ra sẽ là Con của Đức Chúa Trời”.

– Giáo viên: Vậy, cô có đồng ý với lời hứa đó không? Và cô đã trả lời với thiên sứ thế nào?

– Ma-ri: Lời hứa đó thật diệu kỳ! Tuy bối rối, nhưng cô tin Đức Chúa Trời luôn hứa ban những điều tốt đẹp cho con cái Ngài. Cô liền trả lời: “Con là tôi tớ Chúa, xin điều đó xảy ra theo ý Ngài.

– Giáo viên: Các em ơi, các em có tin Đức Chúa Trời luôn hứa ban những điều tốt đẹp nhất cho các em không? Tại sao? (Cho các em suy nghĩ trả lời).

– Ma-ri: Vì Đức Chúa Trời yêu thương và ban cho các em những điều tốt đẹp nhất, nên các em hãy tin và trông đợi vào lời hứa của Ngài các em nhé! Bây giờ cô còn nhiều việc phải làm, cô đi đây. Chào tạm biệt các em!

– Giáo viên: Cảm ơn cô Ma-ri nhiều lắm! Nào các em cùng đứng lên và nói: Cảm ơn và xin chào cô Ma-ri, chúc cô đi bình an! (Các em cùng đứng lên vẫy tay chào trong khi cô Ma-ri từ từ đi ra).

  1. Ứng dụng:

Các em thân mến! Trong thời Cựu Ước Đức Chúa Trời đã hứa ban Đấng Cứu Thế xuống thế gian, từ đó đến khi thiên sứ báo tin cho Ma-ri nhận lời hứa đó rất là lâu, nhưng Đức Chúa Trời đã hứa thì Ngài sẽ làm thành. Vậy, lời hứa kỳ diệu của Đức Chúa Trời là gì? Ma-ri trả lời như thế nào? (Cho các em tự do trả lời). Ma-ri tin lời hứa của Đức Chúa Trời. Còn các em có tin lời hứa của Ngài trong Kinh Thánh không? Tại sao

* Chuẩn bị.

– Kéo, keo, viết chì màu, viết chì.

* Thực hiện.

– Cho các em tô màu hình vẽ.

BÀI 3.  LỜI HỨA VỀ CHÚA CỨU THẾ THÀNH HIỆN THỰC. (HV)

 I. KINH THÁNH: Ma-thi-ơ 1:18-2:23; Lu-ca 1, 2.

II. CÂU GỐC: “Ta cũng sẽ giáng cho mọi sự lành mà Ta đã hứa ” (Giê-rê-mi 32:42b).

III. BÀI HỌC: Đức Chúa Trời đã thực hiện lời hứa của Ngài, sai Chúa Giê-xu đến thế gian cứu chuộc tội lỗi loài người.

IV. BÀI TẬP: Cho các em tô màu hình vẽ

 

BÀI 2.  DÂNG LỜI TẠ ƠN (GV-HV)

BÀI 2.  DÂNG LỜI TẠ ƠN (GV-HV)

in QUÍ III. 2016, THIẾU NHI on 13 Tháng Bảy, 2018

BÀI 2.  DÂNG LỜI TẠ ƠN (GV)

 I. KINH THÁNH: Dân Số Ký 20:14-21; 21:1-9.

II. CÂU GỐC: “Phàm việc gì cũng phải tạ ơn Chúa; vì ý muốn của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Giê-xu Christ đối với anh em là như vậy” (1Tê-sa-lô-ni-ca 5:18).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Khi dân Y-sơ-ra-ên gặp khó khăn, họ đã thốt ra những lời nói oán trách Đức Chúa Trời, quên đi vô số ơn lành mà Chúa đã ban cho họ.

– Cảm nhận: Không thỏa lòng luôn dẫn đến sự vô ơn.

– Hành động: Liệt kê một số việc em cần phải tạ ơn Chúa và tạ ơn Ngài.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ

Lập một bảng tạ ơn của lớp, để các em có việc gì cần tạ ơn Chúa thì ghi vào. Mỗi em đều có thể làm một bảng như vậy cho riêng mình.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH

  1. Vào đề.

Trong tuần lễ vừa qua, khi sắp nổi giận vì một chuyện gì đó, các em có làm như Ê-phê-sô 4:26 đã dạy không? Câu Kinh Thánh đó giúp các em như thế nào? Khi kềm chế được cơn giận của mình, các em có nhận thấy mình càng yêu mến người đó không? Khi làm theo điều Chúa dạy, các em cảm thấy thế nào? (Cho các em trả lời).

Hôm nay, chúng ta có dịp thảo luận về một vấn đề khác cũng làm cho chúng ta cảm thấy không vui, đó là bản tính khác biệt của một người. Các em có hiểu thế nào là bản tánh khác biệt không? Ví dụ trong lớp có một bạn luôn quậy phá, hay cáu gắt, lạnh lùng… không thích chơi với bất cứ ai. Cô giáo và các bạn trong lớp gọi bạn ấy là khác biệt. Khi đã hiểu về người bạn khác biệt đó, các em sẽ biểu hiện người bạn ấy bằng nét mặt như thế nào? (nhíu mày, cau mặt, trợn mắt, nghiêm mặt…).

Còn đối với người không bao giờ nói lời cảm ơn ai thì sao? Người đó có bản tánh khác biệt không? (Cho các em nêu ý kiến).

Ba mẹ, anh chị, bạn bè, thường giúp đỡ các em việc nầy, việc kia, nhưng tất cả những gì các em có được (ba mẹ, anh chị em, bạn bè, cơm ăn áo mặc, sức khoẻ…) đều do Đức Chúa Trời ban cho. Vì thế, trong mọi việc các em đều phải nương dựa vào Ngài, và Ngài mới thực sự là người giúp đỡ các em trong mọi việc. Có bao giờ các em suy nghĩ Chúa sẽ buồn và trách, nếu các em không cảm ơn Ngài không?

Không biết cảm ơn Chúa, thì các em sẽ không thỏa lòng với những điều Chúa ban cho. Từ chỗ không thỏa lòng, các em cảm thấy buồn chán, buồn chán sinh ra thất vọng, thất vọng sinh oán trách Chúa. Các em có biết khi chúng ta thất vọng, thì sẽ có những suy nghĩ như thế nào không? (Nghi ngờ tình yêu và quyền năng của Chúa, bất mãn…). Tâm trạng đó cũng giống như tâm trạng của dân Y-sơ-ra-ên khi đi trong đồng vắng.

Dân Y-sơ-ra-ên cũng có rất nhiều việc cần tạ ơn Chúa. (Cho các em liệt kê vài việc: Đức Chúa Trời ban thức ăn, nước uống, trụ mây, trụ lửa…). Hãy xem dân Y-sơ-ra-ên có tạ ơn Chúa không nhé!

2. Bài học.

Các em còn nhớ tại Ca-đe, Đức Chúa Trời đã ban cho dân Y-sơ-ra-ên điều gì không? (Nước uống chảy ra từ vầng đá).

Sau khi sự việc đó xảy ra, Môi-se muốn đưa dân sự đi ngang qua xứ Ê-đôm, để đến đất hứa. Đây là con đường ngắn và tiện lợi nhất, nhưng ông phải xin phép vua Ê-đôm, nếu không, chiến tranh sẽ xảy ra.

Môi-se hy vọng vua Ê-đôm sẽ đồng ý nên sai sứ giả đến trình bày: “Xin cho chúng tôi đi nhờ qua xứ của bệ hạ. Chúng tôi sẽ đi tránh đồng ruộng, vườn nho, cũng không múc nước dưới giếng mà uống. Chúng tôi cứ theo đường cái mà đi cho đến khi ra khỏi biên giới của bệ hạ”.

Đây là lời đề nghị rất hợp tình hợp lý, nhưng vua Ê-đôm vẫn từ chối. “Không được đi qua đất nước ta! Nếu không nghe, ta sẽ đem quân ra đánh”. Thế là Môi-se dẫn dân chúng quay trở lại để đi vòng đường khác. Từ Ca-đe, họ đi đến núi Ê-đôm.

Dân Y-sơ-ra-ên đi theo hướng nam để vòng qua xứ Ê-đôm, thì lại gặp phải A-rát là vua Ca-na-an. Vua Ca-na-an nghe tin dân Y-sơ-ra-ên đang tiến đến thì đem quân ra đánh. Dân Y-sơ-ra-ên kêu cầu Đức Chúa Trời, Ngài lập tức nhận lời giúp họ chiến thắng. Lần nầy, dân Y-sơ-ra-ên có cần phải tạ ơn Chúa không? Tại sao?

a. Dân Y-sơ-ra-ên không dâng lời tạ ơn Chúa.

Từ núi Hô-rơ, dân Y-sơ-ra-ên tiếp tục cuộc hành trình quay trở lại hướng biển Đỏ, vòng qua xứ Ê-đôm. Cuộc hành trình vô cùng gian nan, vất vả. Trên đồng vắng vừa khô cằn nóng bức, vừa hoang vu không một bóng người, hoàn toàn không có bóng râm của cây xanh, lại thường xuyên gặp những cơn lốc cát bất ngờ tấn công. Trong hoàn cảnh đó, dân Y-sơ-ra-ên đã quên rằng Chúa vẫn ở bên cạnh họ, vừa mới bảo vệ họ khỏi tay A-rát, vua Ca-na-an.

Kinh thánh ghi: “Giữa đường dân sự ngã lòng”. Họ nghĩ họ sẽ chết trong đồng vắng trước khi đến được đất hứa.

Các em cũng biết bước tiếp theo sẽ là thế nào rồi. Họ nói phạm Đức Chúa Trời và Môi-se rằng: “Vì sao ông đem chúng tôi ra khỏi Ai-cập để chết trong sa mạc nầy? Chúng tôi chẳng có nước uống, cũng chẳng có gì ăn ngoài loại bánh đạm bạc mà chúng tôi đã chán ngấy”.

Chỉ vì một chút khó khăn mà họ đã quên mất những gì mà mỗi ngày Chúa ban cho họ. Đức Chúa Trời vẫn nuôi nấng họ bằng ma-na mỗi ngày, nhưng họ chê không muốn ăn nữa. Không những cho ăn mà Ngài cho ban cho họ nước uống, và suốt cuộc hành trình, họ vẫn được bình an trong sự bảo vệ của Chúa. Đáng lẽ họ phải tạ ơn Chúa luôn luôn, nhưng ngược lại họ lằm bằm oán trách.

b. Hậu quả của việc không biết tạ ơn Chúa.

Đức Chúa Trời rất buồn trước thái độ vô ơn đó, nên Ngài quyết định sửa phạt họ.

Một ngày nọ, dân Y-sơ-ra-ên phát hiện trong trại có rất nhiều rắn độc, trên đầu có màu đỏ mà người ta gọi là rắn lửa. Nếu người nào bị rắn cắn sẽ phát sốt, khô họng rồi chết. Kinh Thánh ghi lại dân Y-sơ-ra-ên bị rắn lửa cắn chết nhiều vô số. Khi sự việc xảy ra như vậy, dân Y-sơ-ra-ên mới nhận thấy lỗi lầm của mình. Họ liền đến nói cùng Môi-se: “Chúng tôi có phạm tội, vì đã nói phạm đến Đức Chúa Trời và ông. Xin ông cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời để Ngài  khiến rắn lìa xa chúng tôi”. Môi-se cầu khẩn cho dân sự. Đức Chúa Trời nghe lời cầu nguyện của Môi-se. Chúa dặn: “Con hãy làm một con rắn lửa bằng đồng và treo trên cây sào. Người nào bị rắn cắn chỉ cần nhìn nó là được sống”. Môi-se liền làm y như lời Đức Chúa Trời phán dặn.

Tin nầy truyền đi rất nhanh, những người bị rắn cắn, dù già hay trẻ, đàn ông hay đàn bà, chỉ cần nhìn lên con rắn đồng đó thì đều được cứu sống. Nên nhớ rằng bản thân con rắn đồng không có quyền năng chữa lành. Dân Y-sơ-ra-ên được chữa lành vì tin cậy và vâng lời lời phán của Đức Chúa Trời. Giả sử có ai đó không tin vào lời Chúa, nghĩa là không nhìn lên con rắn đồng trên cây sào thì sẽ không được cứu. Con rắn đồng treo trên cây sào tượng trưng cho Chúa Giêxu chịu chết trên thập tự giá, ai tin nhận Ngài thì sẽ được cứu rỗi.

  1. Ứng dụng.

Các em thân mến! Dân Y-sơ-ra-ên khi gặp phải khó khăn liền oán trách Đức Chúa Trời, nhưng sau đó họ đã nhận lỗi thì Ngài tha thứ cho họ. Đây là chân lý kỳ diệu. Dù chúng ta lầm lỗi bao nhiêu, chỉ cần ăn năn và cầu xin sự tha thứ, thì Ngài cũng sẽ tha thứ cho chúng ta. Các em có thường tạ ơn Chúa vì Ngài tha thứ tội lỗi của các em không?

Dân Y-sơ-ra-ên có rất nhiều việc cần phải tạ ơn Chúa. Chúng ta cũng vậy, Ngài ban cho chúng ta rất nhiều ơn phước trong cuộc sống hằng ngày (Cho các em nêu ra). Điều cần tạ ơn Chúa nhất là Chúa Giêxu chịu chết vì tội lỗi của chúng ta. Vậy mà có nhiều lúc chúng ta thường hay buồn rầu, thậm chí lằm bằm oán trách Chúa khi gặp khó khăn hoặc thua kém bạn bè, hoặc không thỏa lòng với điều đã có. Khi lằm bằm oán trách, chúng ta chỉ thấy toàn khó khăn, bất hạnh trước mắt chứ không thấy ơn phước của Chúa. Lời Chúa dạy chúng ta “Phàm việc gì cũng phải tạ ơn Chúa; vì ý muốn của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Giêxu Christ đối với anh em là như vậy” (1Tê-sa-lô-ni-ca 5:18).

Ngoài việc nói lên lời tạ ơn, còn có cách nào để biểu hiện lòng biết ơn của các em đối với Ngài không? (Hát thánh ca, thuật lại ơn phước của Chúa cho người khác biết, làm việc tốt giúp mọi người…).

Kinh Thánh không chỉ bảo chúng ta phải tạ ơn, mà còn nói rõ cho chúng ta biết tại sao phải tạ ơn Chúa. (Mời một em đọc Thi Thiên 103). Qua đoạn Kinh Thánh nầy, các em liệt kê ra những lý do phải tạ ơn Chúa (tha tội, chữa lành bệnh tật, nhân từ, thương xót…). Sau đó, cho các em cầu nguyện tạ ơn Chúa vì mọi điều tốt đẹp Chúa đã làm cho đời sống các em.

B. SINH HOẠT.

            Trong lúc gặp khó khăn, chúng ta thường hay lằm bằm, oán trách lắm phải không? Chúng ta cùng nhau chơi trò “Tìm đoạn kết” nhé!

            * Trò chơi: Tìm đoạn kết.

– Chuẩn bị: Một câu chuyện về đề tài “Tạ ơn Chúa trong hoàn cảnh khó khăn”.

– Cách chơi: Giáo viên kể câu chuyện thật sinh động và tỉ mỉ từng chi tiết, đến đoạn kết giáo viên ngừng lại và cho các nhóm tự tìm đoạn kết. Nhóm nào tìm đoạn kết hay và có ý gần giống đoạn kết câu chuyện, nhóm đó sẽ thắng.

BÀI 2. DÂNG LỜI TẠ ƠN (HV)

 I. KINH THÁNH: Dân Số Ký 20:14-21; 21:1-9.

II. CÂU GỐC: “Phàm việc gì cũng phải tạ ơn Chúa; vì ý muốn của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Giê-xu Christ đối với anh em là như vậy” (1Tê-sa-lô-ni-ca 5:18).

III. BÀI TẬP.

1. Em ghi chữ (Đ) vào trước câu đúng và chữ (S) vào trước câu sai.

___ a. Vua Ê-đôm đồng ý cho dân Y-sơ-ra-ên đi ngang qua xứ.

___ b. Vì phải đi đường vòng rất xa, gặp nhiều khó khăn, nên dân Y-sơ-ra-ên lằm bằm oán trách Chúa.

___ c. Đức Chúa Trời sửa phạt dân sự, nên sai rắn lửa đến cắn  họ.

___ d. Trước nạn rắn lửa, dân Y-sơ-ra-ên ra sức tiêu diệt rắn để tự bảo vệ mình.

___ e. Ai bị rắn cắn, phải nhìn lên con rắn bằng đồng treo trên  cây sào thì sẽ được sống.    

2. Em cầu nguyện tạ ơn Chúa.

Em dùng lời văn của mình viết ra những gì Chúa đã ban cho em và dâng lên lời cảm tạ Ngài.

a. Những điều Chúa ban cho con.

…………………………………………………………………………………….

…………………………………………………………………………………….

…………………………………………………………………………………….

…………………………………………………………………………………….

b. Con tạ ơn Chúa.

……………………………………………………………………………………..

……………………………………………………………………………………..

……………………………………………………………………………………..

……………………………………………………………………………………..

3. Em bày tỏ lòng biết ơn Chúa.

Em có thể làm một vài việc để chứng tỏ lòng biết ơn của em đối với Đức Chúa Trời. Hãy viết vào ô trống những việc làm đó hoặc những việc em mong muốn làm.

 

Bài 2.  NGƯỜI CHĂN BẢO VỆ CHIÊN (GV-HV)

Bài 2.  NGƯỜI CHĂN BẢO VỆ CHIÊN (GV-HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ III. 2016 on 13 Tháng Bảy, 2018

Bài 2.  NGƯỜI CHĂN BẢO VỆ CHIÊN (GV)

 I. KINH THÁNH: Thi Thiên 23:4-6.

II. CÂU GỐC: “Dầu khi tôi đi trong trũng bóng chết, tôi sẽ chẳng sợ tai họa nào; vì Chúa ở cùng tôi, cây trượng và cây gậy của Chúa an ủi tôi” (Thi Thiên 23:4).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Đa-vít ca ngợi Chúa đã ở cùng, bảo vệ ông như người chăn đối với chiên mình.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời là Đấng chăn giữ em. Ngài sẵn lòng giúp đỡ, bảo vệ em trong mọi hoàn cảnh.

– Hành động: Cảm tạ Chúa vì Ngài luôn ở cùng, giúp đỡ và bảo vệ em.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Bối cảnh Kinh Thánh.

– Chuẩn bị “Bảng chọn lựa” theo mẫu sau đây (“Sinh hoạt đầu giờ” bài 1).

  1. Mục đích: Giúp các em biết cách người chăn bảo vệ chiên (Thi Thiên 23:4-6).
  2. Vật liệu: Giấy màu cứng (lớn nhỏ tùy ý nhưng màu sắc khác nhau), 4 tấm giấy cứng (12 x 15cm), bảng, keo dán.
  3. Thực hiện:

– Giáo viên chuẩn bị 4 tấm giấy cứng theo tập học viên bài 2.

– Chia các em thành 4 nhóm, mỗi nhóm chọn một mục để các em tự làm “Bảng chọn lựa”. Nếu học viên ít, có thể chọn ba mục còn một mục giáo viên giúp các em hoàn thành.

Gợi ý 1: Núi và trũng.

  1. Vật liệu: Giấy cứng 1, vải màu nâu, vài tờ giấy báo.
  2. Thực hiện: Giờ học, các em tự làm núi và thung lũng bằng vật liệu trên.

– Hỏi các em: “Trũng là gì?” (Khoảng đất giữa hai ngọn núi). “Có những lúc người chăn dẫn chiên đi vào vùng đất dốc hoặc băng ngang qua trũng. Em có thể tạo hình một trũng không?”

Gợi ý 2: Rắn, sói và sư tử.

  1. Vật liệu: Giấy cứng 2, đất sét, giấy vẽ 22 x 30cm, bút màu.
  2. Thực hiện: Cho các em dùng đất sét nặn hình rắn, sói, sư tử. Sau đó đặt rắn lên cỏ, để sói và sư tử vào nơi trũng.

– Xem trong Thi Thiên 23 những con vật nào muốn tấn công bầy chiên, và người chăn bảo vệ chiên bằng cách nào?

Gợi ý 3: Cây trượng và cây gậy.

  1. Vật liệu: Giấy cứng 3, dùng kẽm (5cm) làm trượng và (15cm) làm gậy, lấy đất sét bọc quanh kẽm.
  2. Thực hiện:

– Sau khi các em làm xong, đặt gậy và trượng vào tay người chăn.

– Xem trong Thi Thiên 23, cách người chăn dùng trượng để cứu những con chiên rơi xuống trũng và gậy để bảo vệ đàn chiên khỏi thú dữ.

Gợi ý 4: Cái chén.

  1. Vật liệu: Giấy cứng 4, đất sét.
  2. Thực hiện: Dùng đất sét làm chén và đặt vào bối cảnh lịch sử thời Kinh Thánh.

– Xem tấm giấy cứng 4 và Thi Thiên 23 để tìm ra công dụng của chén.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH

(Chuẩn bị thị cụ: Dùng 4 tấm giấy bìa vừa làm xong và hình vẽ phối hợp với kể chuyện.

1. Vào đề.

Các em thân mến, chắc hẳn có nhiều em trong các em đã thuộc lòng Thi Thiên 23. Tuần trước các em đã học phần I nói về việc người chăn dẫn chiên đến nơi an toàn. Hôm nay các em sẽ học phần II. Phần nầy nói đến việc người chăn dẫn chiên vượt qua những nguy hiểm. Bây giờ các em cùng lắng nghe nha!

2. Bài học.

a. Người Chăn Giải Cứu Khi Chiên Gặp Nguy Hiểm.

(Cho các em xem hình 2). Khi không còn đủ cỏ xanh và nước uống cho chiên, người chăn dẫn chiên đến vùng đất khác tốt hơn. Dù đôi lúc phải vượt qua những chỗ khó khăn, nguy hiểm, nhưng người chăn luôn dẫn chiên đến nơi bình yên, an toàn. Các em thử đoán xem khi đi qua những chỗ nguy hiểm chiên cảm thấy như thế nào? Điều gì khiến chiên sợ hãi? (Bóng tối, thú dữ rình rập tấn công). Người chăn luôn cầm trên tay vật gì? (Gậy và trượng). Người chăn dùng những vật nầy để làm gì? (Giúp các em nhớ lại những gì đã làm trong “Sinh Hoạt Đầu Giờ”).

Người chăn thường dùng cây trượng vỗ nhẹ lên lưng chiên để chỉ đường (dùng động tác làm ví dụ) hoặc báo hiệu người chăn đang ở gần bảo vệ chiên. Từ trong bóng tối của trũng, thú dữ có thể bất ngờ tấn công, nhưng cây trượng và cây gậy của người chăn luôn bảo vệ khiến chiên an lòng. Chiên biết người chăn yêu thương và sẵn sàng bảo vệ chiên trong bất kỳ hoàn cảnh nào “Tôi sẽ chẳng sợ tai họa nào” có ý nghĩa gì? (Tôi tin chẳng có điều nào có thể làm hại được tôi.)

Đáng sợ nhất là những con rắn ẩn trong cỏ rậm, có thể lao ra cắn chiên bất cứ lúc nào. Để đề phòng điều ấy, người chăn phải làm gì? (Dùng gậy đập đuổi rắn). Người chăn còn nhổ bỏ cỏ độc và cỏ gai để chiên khỏi bị nguy hiểm vì ăn nhằm những thứ đó.

Nhìn vào hình, em thấy gì trong hang núi? Khi chiên đang gặm cỏ, người chăn làm cách nào để bảo vệ chiên khỏi bị tấn công? Người chăn chuẩn bị tiệc cho chiên như thế nào? (Không phải một bàn đầy thức ăn, nhưng ý muốn nói dẫn chiên đến nơi có cỏ non xanh tươi và bình yên.)

b. Người Chăn Chăm Sóc Khi Chiên Mệt Mỏi Và Bị Thương.

Chiều tối, người chăn dẫn chiên về, đứng ngoài cửa chuồng và đếm từng con khi chiên vào. Vì sao phải làm thế? Người chăn muốn kiểm tra xem chiên có bị thiếu mất và bị thương tích gì không? Nếu có, theo các em, người chăn sẽ làm gì? (Kiếm tìm chiên lạc, xức thuốc, băng bó, chữa trị cho chiên bị thương). Vì thế, Kinh Thánh nói rằng: “Ngài xức dầu cho đầu tôi”. Người chăn làm gì khi chiên mệt mỏi, khát nước? Người chăn sẽ pha thuốc khi đổ nước vào máng cho chiên uống.

Chắc chắn khi viết Thi Thiên này, Đa-vít nghĩ đến việc hằng ngày người chăn chăm sóc chiên bằng nhiều cách. Cũng vậy, Đức Chúa Trời chăm sóc các em mỗi ngày (hình 2). Chiên tin cậy và sống vui vẻ trong tình thương của người chăn chiên, thì Đa-vít cũng vui hưởng tình thương vĩnh cữu của Đức Chúa Trời. Đa-vít đã luôn trông cậy vào Đấng yêu thương và chăm sóc ông.

3. Ứng dụng.

Đây là dịp tiện để giáo viên biết nguyên nhân khiến các em lo sợ. Chia các em thành từng nhóm nhỏ để dễ chia sẻ cảm xúc lo sợ ấy. Dùng câu hỏi gợi ý giúp các em thảo luận. Sau đó, giúp các em nhận biết và tin cậy nơi người chăn là Chúa Giê-xu, Ngài sẽ giúp các em giải quyết mọi nan đề.

– Cho các em xem tập học viên bài 2. Hỏi các em: Nhìn gương mặt các bạn trong hình, các em đoán xem họ đang gặp phải chuyện gì? Tâm trạng như thế nào? (Đi lạc, ở nhà một mình, mẹ đi vắng nên sợ hãi…). Nếu các em chưa chuẩn bị câu trả lời, giáo viên có thể gợi ý: “Trời tối đen như mực, Minh cảm thấy vô cùng sợ hãi, còn Hồng thì khuya rồi mới nhớ mình quên học bài ngày mai”.

– Sau khi thảo luận, giáo viên hướng dẫn các em viết câu trả lời vào tập học viên.

– Sau đó, giáo viên hướng dẫn các em học câu gốc và tóm tắt Thi Thiên 23. Để dẫn chiên đến đồng cỏ xanh tươi, người chăn phải đưa chiên vượt qua trũng bóng chết. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào Chúa Giê-xu cũng bảo vệ, chăm sóc và an ủi các em.

– Hỏi các em: “Khi sợ hãi, lo âu các em làm gì?” (Cảm tạ Chúa đã luôn ở cùng em và cầu xin Chúa giúp đỡ em trong hoàn cảnh ấy). Hướng dẫn các em cùng cầu nguyện.

V. PHỤ LỤC.

– Giúp các em hiểu thế nào là sự chết và thiên đàng.

Trẻ 7-8 tuổi thường sợ chết vì các em nhận thức cách mơ hồ về điều nầy. Nếu giáo viên thấy cần giúp đỡ các em có quan niệm đúng đắn về sự chết, nhất là “trũng bóng chết” trong Thi Thiên 23, xin tham khảo một số ý kiến sau:

Khi người thân qua đời, chúng ta thường đau buồn một thời gian. Có em nào trải qua tâm trạng nầy chưa? Và việc gì sẽ xảy ra khi bước qua cuộc đời nầy? Giúp các em hiểu rằng con người chỉ chết phần thể xác, còn linh hồn không nhìn thấy được, không nắm bắt được sẽ không chết. Qua đó, các em nhận biết tình yêu thương của Chúa. Nếu em tin nhận Chúa Giê-xu và trở nên con cái Ngài, khi qua đời, linh hồn của em sẽ trở về thiên đàng để cùng sống đời đời với Chúa Giê-xu.

Các em không thể nhìn thấy thiên đàng, nhưng qua Kinh Thánh, chúng ta biết một số điều về nơi ấy. Kinh Thánh cho biết thiên đàng là nơi không có bệnh tật hoặc nước mắt, người sống trên thiên đàng sẽ không có sự chết hoặc đau khổ, linh hồn họ luôn vui mừng và an nghỉ trong Chúa. Vì thế, chết không phải là điều đáng sợ, vì sau khi chết các em sẽ đến thiên đàng gặp Chúa và sống đời đời với Ngài.

Nếu các em hỏi về thiên đàng mà bạn chưa biết, hãy thành thật nói: “Có nhiều điều hiện nay chúng ta chưa hiểu hết, nhưng đến lúc gặp Chúa, chúng ta sẽ biết rõ”.

Bài 2.  NGƯỜI CHĂN BẢO VỆ CHIÊN (HV)

I. KINH THÁNH: Thi Thiên 23:4-6.

II. CÂU GỐC: “Dầu khi tôi đi trong trũng bóng chết, tôi sẽ chẳng sợ tai họa nào; vì Chúa ở cùng tôi. Cây trượng và cây gậy Chúa an ủi tôi” (Thi Thiên 23:4).

III. BÀI TẬP.

A. TÔ MÀU HÌNH VẼ.

Em là người chăn chiên.

 

B. CHÚNG TA CÙNG LÀM.

1. Núi Và Thung Lũng.

Lấy giấy báo vo thành hình nón rồi phủ giấy hoặc vải màu nâu lên làm núi, đặt lên giấy màu xanh lá cây (thung lũng).

 

 

 

2. Rắn, Sói Và Sư Tử.

Vẽ hoặc lấy đất sét làm rắn, sói và sư tử, sau đó đặt vào núi và thung lũng.

 

 

 

 

3. Gậy Và Trượng.

Dùng đất sét và kẽm làm gậy. Người chăn chiên dùng gậy để bảo vệ chiên khỏi thú dữ làm hại.

Dùng đất sét và kẽm làm cây trượng.

Đọc Thi Thiên 23:4-6 rồi cho biết người chăn dùng cây trượng làm gì?

4. Chén.

Đôi khi bên cạnh giếng hoặc máng nước có đặt chén cho chiên con uống nước. Dùng đất sét làm chén, đặt bên cạnh giếng.

C. EM ĐOÁN XEM.

Nhìn nét mặt của hai bạn nầy như thế nào? Họ sợ gì? Họ nghĩ gì?