Chuyên mục: THIẾU NHI

BÀI 6. CHÚA LÀ NƠI NƯƠNG NÁU (GV-HV)

BÀI 6. CHÚA LÀ NƠI NƯƠNG NÁU (GV-HV)

in QUÍ II. 2016, THIẾU NHI on 4 Tháng Bảy, 2018

 

BÀI 6. CHÚA LÀ NƠI NƯƠNG NÁU (GV)

I. KINH THÁNH: Sáng 27:41 đến 28:22.

II. CÂU GỐC: “Đức Chúa Trời là nơi nương náu và sức lực của chúng tôi, Ngài sẵn giúp đỡ trong cơn gian truân” (Thi 46:1).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Gia-cốp tuy phạm tội, phải rời khỏi nhà ra đi, nhưng Đức Chúa Trời vẫn ở cùng.

– Cảm nhận: Tình yêu thương của Đức Chúa Trời không hề thay đổi.

– Hành động: Tin Chúa là Đấng yêu thương và là nơi nương náu trong lúc gian truân.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. CHUẨN BỊ.

1. Giấy để cho các em vẽ.

2. Cho các em chỉ vị trí Bê-e-sê-ba trên bản đồ của Kinh Thánh.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

  1. Vào đề.

Ba mẹ các em có yêu thương các em không? Làm thế nào mà các em biết được? Khi gặp phải khó khăn, các em có nhờ cha mẹ giải quyết không? Nếu ở trong gia đình, mọi người biết chia sẻ, an ủi và cùng nhau giải quyết mọi khó khăn, thì gia đình đó thật hạnh phúc, êm ấm, phải không các em?

  1. Bài học.

Gia đình của Y-sác không còn hạnh phúc nữa, bởi sự gian dối của Gia-cốp và Rê-bê-ca. Các em có thể tưởng tượng không khí nặng nề trong gia đình nầy. Người cha rất luyến tiếc sự ra đi của con mình, người mẹ cô đơn, buồn bã, người anh giận dữ vì bị lừa gạt. Gia-cốp cảm thấy cô đơn khi phải rời khỏi nhà ra đi.

            (1) Gia-cốp rời khỏi nhà ra đi.

Đối với hành động lừa dối của Gia-cốp, Ê-sau rất giận dữ, nhất định trong lòng rằng, sau khi cha qua đời sẽ giết Gia-cốp. Hai anh em đã trở thành kẻ thù của nhau.

Khi Rê-bê-ca hay được ý định của Ê-sau, thì rất lo sợ, liền sửa soạn cho Gia-cốp ra đi, chạy trốn Ê-sau.

Rê-bê-ca nói với Gia-cốp: “Con hãy chạy trốn qua nhà cậu con tại Cha-ran và ở đó ít lâu, cho đến khi cơn giận của anh con nguôi đi, thì mẹ sẽ sai người đến đón con về”.

Thế là Gia-cốp ra đi với tâm trạng đau thương, và cô đơn. Chặng đường thật dài và gian khổ; phải vượt qua đồng vắng hoang vu, xuyên qua sa mạc lớn giữa Bê-e-sê-ba và Cha-ran. Lúc đó, không có xe cũng chẳng có ngựa, Gia-cốp chỉ đi bộ mà thôi và tối đến thì ngủ ngoài trời. Từ nhỏ đến lớn, Gia-cốp luôn sống trong sự cưng chiều và sự bảo bọc của mẹ, còn bây giờ một mình phải đối diện với bao khó khăn. Có lẽ trong lúc nầy, Gia-cốp cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết, cần được an ủi, cần có chỗ để nương dựa.

            (2) Đức Chúa Trời là nơi nương náu.

Không có một người nào có thể giúp đỡ Gia-cốp, chỉ có Đức Chúa Trời mà thôi, nhưng Chúa có còn yêu thương Gia-cốp khi ông phạm tội không? Chúng ta chờ xem nhé!

Ban ngày đi đường mệt mỏi, tối đến Gia-cốp lấy một hòn đá bằng phẳng làm gối và ngủ thiếp đi. Trong giấc ngủ, ông nằm mơ thấy một cái thang lạ lùng, bắc từ dưới đất lên đến tận trời. Gia-cốp thấy các thiên sứ của Đức Chúa Trời đi lên đi xuống trên thang đó. Đức Chúa Trời ngự trên đầu cầu thang và phán: “Ta là Đức Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, tổ phụ ngươi, cũng là Đức Chúa Trời của Y-sác. Ta sẽ cho ngươi và dòng dõi ngươi đất mà ngươi đương nằm ngủ đây”.

Gia-cốp không biết kế hoạch đã sắm sẵn của Chúa đối với ông. Những gì mà Đức Chúa Trời hứa ban cho Áp-ra-ham, Y-sác, thì Ngài cũng hứa ban cho Gia-cốp. Nhưng rất tiếc, ông đã dùng mưu kế để đoạt lấy. Nếu ông yên lặng chờ đợi, chắc chắn Đức Chúa Trời cũng sẽ thực hiện lời hứa của Ngài đối với ông và tình cảm anh em trong gia đình sẽ tốt đẹp hơn.

Đức Chúa Trời cho Gia-cốp hiểu rằng Ngài vẫn yêu thương và đoái xem hoàn cảnh của ông trong lúc nầy. “Ta ở cùng ngươi, ngươi đi đâu, sẽ theo gìn giữ đó, và đem ngươi về xứ nầy; vì ta không bao giờ bỏ ngươi cho đến khi ta làm xong những điều ta đã hứa cùng ngươi” (Sáng 28:15).

Gia-cốp thức giấc, và ông nhận biết Đức Chúa Trời vẫn ở cùng, yêu thương ông, dù ông đã phạm tội. Trước khi ngủ, Gia-cốp cảm thấy cô đơn và thấy Đức Chúa Trời rất cách xa mình. Nhưng giờ đây, ông biết Chúa vẫn là nơi nương náu cho ông. Dù vẫn phải tiếp tục chạy trốn Ê-sau, phải đi đến Cha-ran một mình, nhưng sự nhận biết nầy an ủi ông rất nhiều và khích lệ đức tin của ông.

Các em thân mến! Tại sao lúc ban đầu Gia-cốp cảm thấy cô đơn? Tại sao ông cảm thấy Đức Chúa Trời lìa xa mình? (Cho các em trả lời). Gia-cốp thấy mình có tội, không làm đẹp lòng Đức Chúa Trời. Khi phạm tội, chúng ta thường cảm thấy Đức Chúa Trời không yêu chúng ta nữa. Khi nghĩ đến tội của mình, thì không dám nói chuyện với Chúa. Thật ra, Đức Chúa Trời ghét tội lỗi, nhưng lòng nhân từ của Ngài không lìa bỏ chúng ta. Ngài yêu chúng ta đến cùng. Đức Chúa Trời biết Gia-cốp cô đơn, nên Ngài hiện ra trong giấc chiêm bao để an ủi và cho ông biết chính Ngài là nơi nương náu của ông.

            (3) Bê-tên

Để ghi nhớ nơi đặc biệt nầy, nơi mà Gia-cốp đã gặp Đức Chúa Trời, ông lấy hòn đá đã gối đầu, dựng đứng lên làm cây trụ và đặt nơi đây là Bê-tên, có nghĩa là đền hay là nhà của Đức Chúa Trời.

Kể từ lúc gặp Chúa, Gia-cốp đã thay đổi. Lúc trước là ích kỷ, sử dụng bất cứ thủ đoạn nào để đạt được mục đích của mình. Giờ đây, Gia-cốp cầu xin Đức Chúa Trời: “Nếu Đức Chúa Trời ở cùng tôi, gìn giữ tôi trong lúc đi đường, cho bánh ăn, áo mặc, và nếu tôi trở về bình an đến nhà cha tôi, thì Đức Giê-hô-va sẽ là Đức Chúa Trời tôi. Hòn đá đã dựng làm trụ đây sẽ là đền Đức Chúa Trời, và tôi sẽ nộp lại cho Ngài một phần mười mọi của cải mà Ngài sẽ cho tôi” (câu 20-22). Lời cầu xin của Gia-cốp chứng tỏ lòng ông biết ơn Chúa vì Ngài là nơi nương náu của ông đúng lúc.

  1. Ứng dụng.

Các em thân mến! Cuộc đời của Gia-cốp cho chúng ta một bài học rất hay về tình yêu thương của Chúa. Dù Gia-cốp phạm tội nhưng Chúa vẫn yêu thương ông. Nhiều lúc chúng ta phạm tội với Chúa, và có tâm trạng giống như Gia-cốp: Cô đơn, cảm thấy Chúa cách xa, không còn yêu thương chúng ta nữa. Những lúc như thế, các em nên nhớ rằng tình yêu thương của Ngài đối với các em không thay đổi. Ngài luôn dang rộng đôi tay để đón chờ các em quay trở lại với Chúa bất cứ lúc nào. Khi nào các em cảm thấy buồn, thất vọng, bạn bè xa lánh… nên nhớ rằng Chúa Giê-xu là nơi nương náu êm dịu nhất. Các em cùng đọc câu gốc tuần nầy nhé! (Cho các em chia sẻ kinh nghiệm Chúa là nguồn an ủi, che chở em trong lúc hoạn nạn).

BÀI 6. CHÚA LÀ NƠI NƯƠNG NÁU (HV)          

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 27:41 – 28:22.

I. CÂU GỐC: “Đức Chúa Trời là nơi nương náu và sức lực của chúng tôi, Ngài sẵn giúp đỡ trong cơn gian truân” (Thi Thiên 46:1).

III. BÀI TẬP

 

  1. Bốn hình ảnh trên diễn tả hai anh em đang giận nhau. Em hãy suy gẫm và viết ra câu chuyện:

………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………2. Kinh Thánh cho em biết nhiều cách làm cho những người trong gia đình sống yêu thương, vui vẻ. Mời em đọc kỹ các câu Kinh Thánh sau đây và ghi ra bí quyết trên đường kẻ của các hình sau.

“Hết thảy anh em phải đồng lòng đầy thương xót và tình yêu anh em, có lòng nhân từ và đức khiêm nhường. Đừng lấy ác trả ác, cũng đừng lấy rủa sả trả rủa sả; trái lại, phải chúc phước, ấy vì điều đó mà anh em được gọi để hưởng phước lành. Vả, ai muốn yêu sự sống và thấy ngày tốt lành, thì phải giữ gìn miệng lưỡi, đừng nói điều ác và lời gian giảo” (1Phi-e-rơ 3:8-10).

 

 

  1. Kinh nghiệm của em.

Có nhiều bạn cùng lứa tuổi với em không tin nhận Chúa, nên không biết sự an ủi của Ngài. Em đã tin nhận Chúa, em có thể làm chứng cho các bạn ấy biết, Chúa thật sự là nơi nương náu của em trong lúc cô đơn, sợ hãi được không? Em hãy viết tiếp phần sau của câu gợi ý.

a. Khi ở trong bóng tối, em cũng sợ hãi.

Nhưng em………………………………………………………………..

………………………………………………………………………………..

………………………………………………………………………………..

b. Khi buồn, cô đơn, em……………………………………………….

……………………………………………………………………………….. ………………………………………………………………………………..

c. Khi bị bạn bè chế nhạo, em………………………………………

……………………………………………………………………………….. ………………………………………………………………………………..

d. Sau khi gây gổ với anh trai, em………………………………..

……………………………………………………………………………….. ………………………………………………………………………………..

e. Khi nằm trên giường bệnh, em………………………………..

……………………………………………………………………………….. ………………………………………………………………………………..

BÀI 5. NGƯỜI EM GIAN DỐI (GV-HV)

BÀI 5. NGƯỜI EM GIAN DỐI (GV-HV)

in QUÍ II. 2016, THIẾU NHI on 19 Tháng Tư, 2018

BÀI 5. NGƯỜI EM GIAN DỐI (GV)

 

I. KINH THÁNH: Sáng 25:19-34; 27:1-40.

II. CÂU GỐC: “… Mỗi người trong anh em phải chừa sự nói dối, hãy nói thật với kẻ lân cận mình, vì chúng ta làm chi thể cho nhau” (Ê-phê-sô 4:25).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Sự gian dối làm cho gia đình phân rẽ, anh em ghét nhau.

– Cảm nhận: Tội lỗi phải được xưng ra, ăn năn, cầu xin Chúa tha thứ.

– Hành động: Sống chân thật.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. CHUẨN BỊ.

1. Sưu tầm một số hình ảnh về sự sinh hoạt trong gia đình.

2. Chuẩn bị giấy phát cho các em vẽ hoặc viết ra những câu chuyện nhỏ về gia đình mình, như là:

a. Số người trong gia đình.

b. Nghề nghiệp mỗi người.

c. Người nào vui tính hoặc hay giận nhất?

d. Có nuôi súc vật không? Những con gì?

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

1. Vào đề.

(Thực hiện phần chuẩn bị số 2. Cho cả lớp xem những bức tranh mà các em vẽ, hoặc đọc những điều các em đã viết về gia đình).

Mỗi chúng ta là một thành viên quan trọng trong gia đình, dù gia đình chúng ta lớn hay nhỏ. Vì thế, mỗi việc làm của các em đều ảnh hưởng đến mọi người trong gia đình. Ví dụ như em bịnh, thì ba, mẹ, anh, chị… đều lo lắng. Em học giỏi, mọi người đều mừng, em có nhiều tật xấu, mọi người đều đau khổ… Các em sẽ được thấy rõ điều nầy qua cuộc sống của một gia đình mà Kinh Thánh đã ghi lại. Các em cùng nghe nhé!

2. Bài học.

(1) Gia đình của Y-sác.

Y-sác và Rê-bê-ca kết hôn với nhau, nhưng hai mươi năm sau, họ mới có hai con trai sinh đôi là Ê-sau và Gia-cốp.

Ê-sau và Gia-cốp lớn lên trở thành những chàng thanh niên khỏe mạnh. Tuy là hai anh em sinh đôi, nhưng giữa họ có rất nhiều điểm khác biệt về tính tình và ngoại hình. Ê-sau ưa hoạt động, suốt ngày săn bắn ở ngoài đồng. Gia-cốp thích sống yên lặng, quanh quẩn trong trại, phụ giúp mẹ việc bếp núc hoặc chăn chiên trên những cánh đồng yên ả. Cánh tay của Ê-sau có nhiều lông, còn Gia-cốp thì không có.

(2) Quyền trưởng nam.

Dù là sinh đôi, nhưng Ê-sau chào đời trước, nên chàng là con trưởng nam của Y-sác. Theo tục lệ, con trưởng nam được hưởng gia tài gấp đôi, đặc biệt là thừa kế phước lành Đức Chúa Trời ban cho cha mình. Ê-sau được hưởng tất cả quyền lợi đó. Một hôm nọ, Ê-sau đi săn ở ngoài đồng về, thấy Gia-cốp đang nấu canh. Mùi canh bốc lên thơm quá, Ê-sau vừa mệt vừa đói, liền xin: “Em cho anh ăn canh đậu đó với, vì anh mệt mỏi quá”. Gia-cốp nghĩ ngay đến quyền trưởng nam nên nói: “Anh hãy bán quyền trưởng nam cho em đi, thì em sẽ cho anh ăn”.

Quyền trưởng nam đại diện cho vinh dự và giàu có, nhưng trong lúc đang đói cồn cào như thế nầy, thì quyền trưởng nam đối với Ê-sau không còn giá trị gì nữa. Ê-sau liền đổi quyền trưởng nam cho Gia-cốp, để lấy một bát canh đậu đỏ.

(3) Hành động gian dối.

Thời gian trôi qua, Y-sác ngày càng già đi, mắt đã mù lòa, đến nỗi không nhìn thấy hai con trai của mình, chỉ còn cách nghe giọng nói, hoặc sờ vào tay của họ để nhận biết.

Một ngày kia, Y-sác cho gọi Ê-sau đến và dặn: “Cha đã già rồi, không biết sống chết ngày nào. Bây giờ, con hãy đi ra ngoài đồng săn thịt rừng và làm món mà cha vẫn thích. Ăn xong, cha sẽ chúc phước cho con trước khi chết”. Các em biết không, sự chúc phước của người cha rất quan trọng. Khi người cha chúc phước cho con trai mình yêu thương, thì không thể thay đổi được. Sự chúc phước nầy khác với việc người con trưởng thừa kế tài sản, mà đó là sự chúc phước thuộc linh, theo lời hứa Đức Chúa Trời ban cho Áp-ra-ham.

Khi Y-sác căn dặn Ê-sau, thì Rê-bê-ca nghe được và nói lại với Gia-cốp. Rê-bê-ca muốn Y-sác chúc phước cho Gia-cốp, chứ không phải cho Ê-sau. Bà suy nghĩ cách để giúp cho Gia-cốp nhận được sự chúc phước nầy. Bà gọi Gia-cốp lại và bảo: “Con hãy làm theo lời mẹ biểu. Hãy bắt hai con dê con mập, mẹ sẽ làm thịt và nấu món cha con vẫn thích. Con giả làm Ê-sau bưng vào mời cha ăn, để người chúc phước cho con”.

Nghe kế hoạch của mẹ, Gia-cốp cũng lo lắng vì giữa chàng với anh trai có sự khác biệt nhau. Cha tuy mù lòa nhưng có thể nhận ra giọng nói hoặc sờ vào cánh tay để phân biệt. Thấy con trai lo lắng, Rê-bê-ca có một mưu kế khác. Bà lấy quần áo của Ê-sau cho Gia-cốp mặc, lấy da dê con bao quanh tay và cổ của Gia-cốp (Vì cánh tay của Ê-sau có lông), rồi Gia-cốp bưng thức ăn đến trước mặt cha.

Khi Gia-cốp nói mình là Ê-sau, mời cha ăn thịt thú rừng đã săn được, thì Y-sác ngạc nhiên lắm, hỏi: “Sao con đi săn được mau thế?” Gia-cốp nói dối: “Nhờ Đức Chúa Trời giúp đỡ, nên con săn được mau”.

Trong lòng Y-sác sinh nghi, bảo con mình đến gần để rờ thử có phải là Ê-sau không? Khi Y-sác sờ vào da dê con ở tay và cổ thì nói rằng: “Tiếng nói thì của Gia-cốp, còn hai tay thì của Ê-sau. Con có thật là Ê-sau không vậy?” Gia-cốp vội đáp rằng: “Dạ, con thật là Ê-sau mà!”  

Muốn cho chắc chắn, Y-sác ôm con hôn để ngửi mùi mồ hôi quen thuộc của Ê-sau. Đúng là mùi của Ê-sau, vì Gia-cốp mặc quần áo của Ê-sau. Y-sác nghĩ chắc chắn là Ê-sau, nên sau khi ăn xong đã chúc phước. Y-sác chúc phước cho Gia-cốp mà tưởng rằng mình chúc phước cho Ê-sau. Gia-cốp đi ra thì một lát sau, Ê-sau bưng thức ăn đến cho cha. Khi biết Gia-cốp đã gian dối, lừa cha để cướp lấy phước lành của mình, thì Ê-sau khóc, cay đắng, và thù ghét Gia-cốp đến nỗi muốn giết chết em mình. Chắc chắn rằng từ đó trở về sau, tình cảm những người trong gia đình không còn như xưa nữa.

3. Ứng dụng.

Các em thân mến! Gia-cốp và mẹ đã gian dối, khiến tình cảm gia đình bị sứt mẻ. Dù hai mẹ con biết rõ Đức Chúa Trời chọn lựa Gia-cốp ngay khi còn trong bụng mẹ, nhưng không tin cậy mà lo sợ, nên đã gian dối. Nếu Rê-bê-ca và Gia-cốp đem những suy nghĩ của mình trình bày với chồng, với cha, thì sự việc có lẽ sẽ khác. Các em có nhận thấy làm như vậy là tốt hơn so với nói dối, và lừa gạt không?

Có khi nào lời nói, việc làm của các em đã ảnh hưỏng đến những người thân trong gia đình không? Lời nói dối khi bị phát hiện sẽ làm cho người khác khó chịu, tức giận, và có cảm giác bị lừa dối. Nếu các em đã làm những việc nầy, thì xin Chúa tha thứ và nhờ cậy Chúa để biết sống chân thật, không những với người thân trong gia đình, mà với bạn bè và mọi người chung quanh. Người biết sống chân thật luôn được mọi người yêu mến và tin tưởng, nhưng trên hết là được Đức Chúa Trời ban phước. Mời các em đọc câu gốc tuần nầy.

 

 

BÀI 5. NGƯỜI EM GIAN DỐI (HV)

 

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 25:19-34; 27:1-40.

II. CÂU GỐC: “Như vậy, mỗi người trong anh em phải chừa sự nói dối, hãy nói thật với kẻ lận cận mình, vì chúng ta làm chi thể cho nhau” (Ê-phê-sô 4:25).

III. BÀI TẬP.

1. Em hãy liệt kê sự khác nhau giữa Ê-sau và Gia-cốp.

Ê-SAU:

1. Ngoại hình:……………………………………………………………….

2. Cá tính:……………………………………………………………………

3. Nghề nghiệp:…………………………………………………………….

4. Tính xấu:………………………………………………………………….


GIA-CỐP:

1. Ngoại hình:…………………………………………………………………..

2. Cá tính:………………………………………………………………………..

3. Nghề nghiệp:…………………………………………………………………

4. Tính xấu:……………………………………………………………………..

2. Lưới tội lỗi.

Dưới đây là một lưới nhện, tượng trưng cho lưới tội lỗi. Em hãy nối liền các tội lỗi mà Gia-cốp và Rê-bê-ca đã phạm, theo thứ tự.

3. Hãy vẽ những người trong gia đình em và viết một đôi nét về tính tình đặc biệt của họ.

 

 

 

 

 

BÀI 4. DẪN DẮT CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (GV-HV)

BÀI 4. DẪN DẮT CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (GV-HV)

in QUÍ II. 2016, THIẾU NHI on 7 Tháng Ba, 2018

BÀI 4. DẪN DẮT CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI (GV)

I. KINH THÁNH: Sáng 24.

II. CÂU GỐC: “Hãy phó thác đường lối mình cho Đức Giê-hô-va, và nhờ cậy nơi Ngài, thì Ngài sẽ làm thành việc ấy” (Thi 37:5).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Ê-li-ê-se cầu xin Đức Chúa Trời dẫn dắt để chọn một người vợ cho Y-sác.

– Cảm nhận: Phó thác tương lai cho Chúa để Ngài lo liệu và dẫn dắt.

– Hành động: Giao phó cuộc sống cho Chúa.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY

A. CHUẨN BỊ.

Trả lời thắc mắc của các em trong tuần trước.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

1. Vào đề.

Khi nhận một công việc khó khăn, thì các em sẽ làm sao? Bực dọc, lằm bằm, chán nản, cố gắng làm một mình, tìm người khác giúp đỡ, cầu nguyện xin Chúa giúp đỡ? (Cho các em trả lời).

Có một người được sai đi đến nơi xa lạ, thực hiện một công việc khó khăn. Đó là đi tìm một người chưa từng quen biết, mời người đó theo mình về nhà. Mới nghe qua, chúng ta nghĩ việc nầy khó có thể xảy ra, nhưng nó đã xảy ra và Kinh Thánh ghi chép lại. Các em cùng nghe nhé!

2. Bài học.

(1) Trách nhiệm của Ê-li-ê-se.

Sau khi dâng của lễ trên núi Mô-ri-a, Áp-ra-ham và Y-sác trở về nhà, cùng gia đình sống trong sự vui mừng và phước hạnh Chúa ban. Nhưng một thời gian sau, bà Sa-ra qua đời. Áp-ra-ham và Y-sác vô cùng đau buồn. Trong lúc đó, Áp-ra-ham tuổi đã cao, và Y-sác cũng đã trưởng thành, nên ông muốn cưới vợ cho con, và nhờ đó Y-sác có thể đỡ buồn sau khi mẹ mất. Các em biết không, theo phong tục hồi đó, việc dựng vợ gả chồng là do cha mẹ sắp đặt. Vì vậy, Áp-ra-ham cần phải chọn cho Y-sác một người vợ. Ông nhớ lại những người bà con ở quê hương, nên nói với  người quản gia trung thành là Ê-li-ê-se: “Hãy đi về quê hương ta, tìm trong vòng bà con của ta một người con gái, để cưới làm vợ cho Y-sác”. Vì sao Áp-ra-ham lại bảo Ê-li-ê-se về quê để tìm vợ cho Y-sác, các em biết không? Vì ông không muốn cưới cô gái không tin Chúa cho con mình.

Đầy tớ Ê-li-ê-se nhận trách nhiệm nầy, nhưng lo lắng lắm. Ông nghĩ đến những khó khăn có thể xảy ra, nên hỏi: “Nếu cô gái đó không chịu theo tôi về, thì tôi có dẫn con trai của ông tới đó không?”

Áp-ra-ham nói rằng: “Không, đừng dẫn con ta về xứ đó. Đức Chúa Trời đã hứa ban đất nầy cho dòng dõi ta rồi. Ngài chắc chắn sẽ dẫn dắt ngươi chọn được người con gái thích hợp. Ông có bằng lòng trung tín làm việc nầy cho ta không?”

Ê-li-ê-se đồng ý. Đây là một việc rất quan trọng, đi tìm một người vợ kính sợ Chúa cho Y-sác. Ê-li-ê-se vâng lời Áp-ra-ham, mang theo mười con lạc đà mập nhất, và rất nhiều của lễ để tặng cho người con gái được chọn. Cùng đi với Ê-li-ê-se là những người đầy tớ của Áp-ra-ham.

(2) Lời cầu nguyện của Ê-li-ê-se.

Sau chặng đường dài đi ngang qua sa mạc nóng bức, Ê-li-ê-se mới đến quê của Áp-ra-ham, là xứ Cha-ran.

Ê-li-ê-se dừng chân bên một cái giếng ở ngoài thành phố. Theo phong tục lúc bấy giờ, những người phụ nữ thường hay ra giếng lấy nước vào lúc mặt trời sắp lặn. Ê-li-ê-se ngồi đợi bên giếng. Ông nghĩ một lát nữa sẽ có nhiều cô gái ra xách nước, nhưng làm sao để chọn một cô gái thích hợp với Y-sác đây? Ê-li-ê-se nhớ lại lời Áp-ra-ham: “Đức Chúa Trời sẽ giúp ngươi tìm được người con gái thích hợp”.

Ê-li-ê-se tin Đức Chúa Trời sẽ giúp đỡ trong việc nầy, nên ông cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin ngày nay cho tôi gặp điều tôi tìm kiếm. Bây giờ, tôi đứng gần bên giếng nầy, các con gái của dân trong thành sẽ ra đi xách nước. Xin cho người gái trẻ nào mà tôi nói như vầy: Nàng cho tôi uống nhờ hớp nước, mà nàng trả lời rằng: Mời ông uống. Tôi sẽ cho các lạc đà ông uống nữa, thì đó là người Chúa chọn cho Y-sác”.

(3) Đức Chúa Trời nhậm lời Ê-li-ê-se.

Khi Ê-li-ê-se vừa cầu nguyện xong, có một người con gái xinh đẹp vác bình trên vai đi đến giếng nước. Ê-li-ê-se tới gần xin nàng nước uống. Ông chú ý theo dõi sự trả lời của cô gái, xem thử Đức Chúa Trời có chọn cô nầy làm vợ Y-sác không?

Cô gái đáp rằng: “Xin mời ông uống” và nàng lật đật nghiêng bình nước. Khi Ê-li-ê-se uống xong, cô gái nói tiếp: “Tôi sẽ xách nước cho mấy con lạc đà của ông uống nữa”.

Khi nghe cô gái nói vậy, Ê-li-ê-se vui mừng đến mức ngạc nhiên, vì Đức Chúa Trời đã nhậm lời cầu nguyện của ông nhanh chóng và chính xác. Đây chính là cô gái mà Đức Chúa Trời đã chọn cho Y-sác. Nhìn cô gái liên tục xách nước cho bầy lạc đà uống, Ê-li-ê-se vui mừng cảm tạ Chúa. Khi lạc đà vừa uống xong, Ê-li-ê-se lấy một khoen vàng và một món đồ nữ trang tặng cho nàng và hỏi: “Cô là con nhà ai? Cho tôi biết được không? Nhà cha của cô có chỗ nào cho tôi nghỉ trọ ban đêm không?”

Cô gái giới thiệu mình là Rê-bê-ca, cháu nội của Na-cô, em của Áp-ra-ham, rồi mời Ê-li-ê-se về nhà. Lúc nầy, Ê-li-ê-se biết đã tìm đúng cô gái mình muốn tìm rồi, cho nên ông cầu nguyện cảm tạ sự dẫn dắt của Chúa.

(4) Hoàn thành trách nhiệm.

Rê-bê-ca chạy vội về nhà báo cho gia đình biết. Anh của Rê-bê-ca chạy ra rước Ê-li-ê-se vào nhà và tiếp đãi rất tử tế. Sau đó, Ê-li-ê-se trình bày mục đích mình đến đây và thay mặt Áp-ra-ham hỏi nàng Rê-bê-ca làm vợ Y-sác. Anh trai và mẹ của Rê-bê-ca đã đồng ý, nhưng họ muốn hỏi ý kiến của cô. Dù không biết Y-sác như thế nào, song Rê-bê-ca sẵn sàng đi theo Ê-li-ê-se về Ca-na-an. Khi Y-sác gặp Rê-bê-ca thì yêu thương và cưới nàng làm vợ. Đức Chúa Trời đã nhậm lời cầu nguyện của người đầy tớ.

3. Ứng dụng.

Các em thân mến! Đức Chúa Trời đã nhậm lời cầu nguyện của Ê-li-ê-se và dẫn dắt ông từng bước một. Nếu Ê-li-ê-se không giao phó việc nầy cho Chúa, mà chọn lựa theo sự khôn ngoan của mình, thì không có người vợ tốt đẹp cho Y-sác. Các em ạ! Bất cứ việc gì các em cũng nên giao phó cho Chúa và nhờ cậy Ngài dẫn dắt. Chắc chắn, Chúa sẽ dẫn dắt các em như Ngài đã dẫn dắt Ê-li-ê-se vậy.

(Cho các em đọc câu gốc 3 lần).

 

 

(HỌC VIÊN)

BÀI 4. SỰ DẪN DẮT CỦA CHÚA

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 24.

II. CÂU GỐC: “Hãy phó thác đường lối mình cho Đức Giê-hô-va, và nhờ cậy nơi Ngài, thì Ngài sẽ làm thành việc ấy”  (Thi Thiên 37:5).

III. BÀI TẬP.

1. Em hoàn thành câu chuyện nầy bằng những từ ngữ thích hợp nhé!

– Ê-li-ê-se.

– Cha-ran.

– Xách nước.

– Quê hương.

– 10.

– Đức Chúa Trời.

– Cầu nguyện.

– Rê-bê-ca.

– Nước uống.

– Dẫn dắt.

– Sính lễ.

Áp-ra-ham sai người đầy tớ là ________ đi về ______

để cưới một người vợ cho Y-sác. Người đầy tớ mang theo ____ con lạc đà và rất nhiều _______ để tặng cho nàng dâu và người nhà cô ấy.

Lúc đến ______, Ê-li-ê-se cầu xin_______ chỉ dẫn để chọn một cô gái thích hợp với Y-sác. Ông _______ rằng: “Nếu con gái trẻ nào _______ cho tôi và lạc đà uống, ấy là người mà Đức Chúa Trời chọn”. Vừa dứt lời, có một cô gái trẻ đi ra xách nước và khi Ê-li-ê-se xin _________ , thì nàng đã làm y như điều ông cầu nguyện. Nàng tên là_______ Đức Chúa Trời đã ________ và nhậm lời cầu nguyện của Ê-li-ê-se.

2. Dùng lời văn của em để trả lời các câu hỏi dưới đây:

a. Cầu nguyện là gì?



b. Tại sao em phải cầu nguyện?



c. Giờ nào em có thể cầu nguyện?



d. Em có thể cầu nguyện ở đâu?



e. Em có tin rằng Đức Chúa Trời sẽ nhậm lời cầu nguyện của em không? Vì sao?



 

g. Ý chính của câu gốc tuần nầy là gì?



3. Phó thác là cầu nguyện dâng hết mọi sự cho Chúa, hoàn toàn nhờ cậy nơi Ngài, tin chắc Đức Chúa Trời sẽ dẫn dắt.

Dưới đây là một biểu mẫu. Em hãy đánh dấu “X” vào ngày mà em đã phó thác mọi việc cho Chúa. Đánh dấu “+” vào ngày Đức Chúa Trời đã nhậm lời cầu nguyện, em dâng lời cảm tạ Chúa.

BÀI 3. ĐẠT ĐIỂM CAO TRONG THỬ NGHIỆM (GV-HV)

BÀI 3. ĐẠT ĐIỂM CAO TRONG THỬ NGHIỆM (GV-HV)

in QUÍ II. 2016, THIẾU NHI on 5 Tháng Ba, 2018

BÀI 3. ĐẠT ĐIỂM CAO TRONG THỬ NGHIỆM (GV)

I. KINH THÁNH: Sáng 22:1-19.

II. CÂU GỐC: “…Hầu cho sự thử thách đức tin anh em quý hơn vàng hay hư nát, dầu đã bị thử lửa, sanh ra ngợi khen, tôn trọng, vinh hiển cho anh em khi Đức Chúa Giê-xu Christ hiện ra” (1Phi-e-rơ 1:7).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Đức Chúa Trời có lúc thử nghiệm đức tin của con cái Ngài.

– Cảm nhận: Muốn đạt điểm cao trong thử nghiệm, cần phải cầu nguyện luôn.

– Hành động: Cầu nguyện để Chúa giúp em vững vàng trong đức tin khi được thử nghiệm.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY

A. CHUẨN BỊ.

1. Các em có rất nhiều thắc mắc về sự cầu nguyện, nhưng ít khi nêu ra để hỏi, nên kỳ nầy bạn sắm sẵn một cái thùng đựng câu hỏi. Ngoài thùng, trang trí nhiều màu sắc và những dấu hỏi to để thu hút sự chú ý của các em. Cho các em bỏ phiếu ghi câu thắc mắc vào thùng, tuần sau bạn giải đáp cho các em.

2. Chuẩn bị sẵn một băng nhạc có nội dung về sự cầu nguyện hoặc sự giúp đỡ của Chúa. Cho các em nghe khi bước vào lớp học. Những bài hát nầy làm cho tâm hồn các em gần gũi Chúa hơn.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

1. Vào đề.

Mỗi khi bước vào kỳ thi học kỳ hay chuyển cấp, chắc em nào cũng lo lắng và cố gắng ôn bài thật kỹ, để đạt điểm cao phải không? Nếu bị điểm thấp hay bị rớt, các em có buồn không? Không những các em buồn mà cha mẹ còn buồn nhiều hơn nữa. Trong phương diện đức tin, con cái Chúa cũng phải trải qua những kỳ thi khó khăn, còn gọi là sự thử nghiệm (thử thách). Đức Chúa Trời đã nhiều lần thử thách Áp-ra-ham, lúc thì bảo rời khỏi quê hương đi đến nơi xa lạ, lần khác thì thử thách bằng cách chia đất cho Lót… Nhưng mỗi lần thử thách, Áp-ra-ham đều được điểm cao và học được bài học quan trọng. Khi Áp-ra-ham học xong bài học nầy, thì lại thêm bài học khác, mỗi lần càng khó hơn. Hôm nay, các em sẽ được học về sự thử nghiệm khó khăn nhất trong cuộc đời của ông.

2. Bài học.

(1) Thái độ của Áp-ra-ham khi chịu thử nghiệm.

Đức Chúa Trời ban cho Áp-ra-ham và Sa-ra một con trai là Y-sác, các em còn nhớ không? Ông bà rất yêu quí Y-sác vì là con một. Lúc Y-sác lớn lên, cha mẹ dạy cho chàng biết cách dâng của lễ cho Đức Chúa Trời. Ngày xưa, người ta thường dùng những hòn đá chất lên làm thành bàn thờ, dâng trên bàn thờ những của lễ để chuộc tội, hay tạ ơn.

Lúc đó, Y-sác đã là một thanh niên. Một ngày kia, Đức Chúa Trời gọi Áp-ra-ham và bảo: “Hãy bắt đứa con một ngươi yêu dấu, là Y-sác, và đi đến xứ Mô-ri-a, nơi đó dâng đứa con làm của lễ thiêu ở trên một hòn núi kia mà ta sẽ chỉ cho” (Sáng 22:2).

Mạng lệnh của Chúa rất rõ ràng, không thể nhầm lẫn được, nhưng là một thử thách quá khó khăn cho Áp-ra-ham. Nếu ở trong trường hợp tương tự, như bảo cho người khác vật mà các em quý nhất, thì các em sẽ có thái độ như thế nào? (Cho các em trả lời).

Chúng ta không thể hiểu được cảm nghĩ của Áp-ra-ham lúc đó ra sao? Nhưng Kinh Thánh không hề nói đến thái độ lằm bằm, oán trách, than vãn, thắc mắc của Áp-ra-ham, mà chỉ nói đến thái độ im lặng và vâng phục. Có lẽ các em sẽ suy nghĩ rằng, Áp-ra-ham ít thương con trai của mình, nên mới có thái độ như thế. Có thể nói Y-sác là tất cả của ông. Ông yêu thương con nhiều lắm, nhưng ông yêu Chúa hơn và muốn vâng phục Ngài. Mặc dù không hiểu ý muốn của Đức Chúa Trời, nhưng Áp-ra-ham không thắc mắc. Ông học một bài học quan trọng là hoàn toàn vâng phục và tin cậy Đức Chúa Trời. Áp-ra-ham tin rằng nếu Y-sác chết đi, Đức Chúa Trời có thể làm cho con mình sống lại (Hê-bơ-rơ 11:17-19). Đây là lúc đức tin của Áp-ra-ham lên đến cao điểm và cũng vì đó mà ông mới có những hành động thật mạnh mẽ.

(2) Hành động của Áp-ra-ham khi thử nghiệm.

Áp-ra-ham thức dậy thật sớm, cùng hai đầy tớ sửa soạn hành trang, để chuẩn bị lên đường. Ông chặt củi bó lại thành bó, chất lên lưng lừa, và đánh thức Y-sác dậy. Khi mặt trời chưa mọc, tất cả cùng lên đường đi về hướng Mô-ri-a, như lời Chúa phán dặn.

Áp-ra-ham, Y-sác và hai người đầy tớ đi ba ngày đường mới đến xứ Mô-ri-a. Đến nơi, Áp-ra-ham nói với hai người đầy tớ: “Hãy ở lại đây. Ta cùng đứa trẻ đi đến chốn kia để thờ phượng Đức Chúa Trời, rồi sẽ trở lại với hai ngươi”.

Rồi Y-sác vác củi, Áp-ra-ham cầm dao và lửa. Hai cha con đi tiếp. Một lát sau, Y-sác hỏi cha: “Cha ơi! Củi, lửa có đây, nhưng chiên con đâu có để làm của lễ thiêu?”.

Áp-ra-ham trả lời: “Con ơi!, Chính Đức Chúa Trời sẽ sắm sẵn chiên con để làm của lễ thiêu”. Rồi hai cha con tiếp tục đi.

Đến nơi, Áp-ra-ham lấy đá làm thành cái bàn thờ, chất củi lên, quay lại trói Y-sác và để lên trên đống củi. Sau đó, Áp-ra-ham cầm dao giơ lên định giết con mình. Ngay lúc đó, thiên sứ của Chúa từ trên trời phán rằng: “Hỡi Áp-ra-ham, đừng tra tay vào con trẻ và chớ làm chi hại đến nó; vì bây giờ ta biết rằng ngươi thật kính sợ Đức Chúa Trời, bởi cớ không tiếc với ta con ngươi, tức con một ngươi”.

Áp-ra-ham mừng quá, ôm chầm lấy con trai mình, và tháo dây trói cho con. Bỗng ông nhìn thấy ở phía sau có một con chiên đực, sừng mắc trong bụi cây. Ông bắt lấy và dâng làm của lễ thiêu cho Đức Chúa Trời, thay thế con trai mình.

Áp-ra-ham làm đẹp lòng Đức Chúa Trời trong cơn thử thách. Ông đã vâng phục Chúa trọn vẹn, nên ngay lúc đó Đức Chúa Trời hứa ban phước cho ông cách dồi dào, “Bởi vì ngươi đã vâng theo lời dặn ta” (Sáng 22:18).

3. Ứng dụng.

Các em thân mến! Các em suy nghĩ xem tại sao Áp-ra-ham có thể vâng lời Chúa trọn vẹn như vậy? (Cho các em trả lời). Ông luôn gần gũi Chúa, trò chuyện với Ngài, nên ông biết rõ Chúa là tốt lành và đức tin nhờ đó mà mạnh mẽ. Cầu nguyện với Chúa nhiều, đức tin của các em sẽ mạnh mẽ để có thể vượt qua khó khăn thử nghiệm. Trong lớp của chúng ta, có em tin Chúa chỉ một mình, có em hoàn cảnh gia đình khó khăn, có em bệnh tật, có em không thắng được bản ngã… Tất cả là những thử nghiệm, để các em bày tỏ lòng yêu Chúa của mình và sau thử nghiệm, đức tin của em sẽ mạnh mẽ hơn.  Đừng lằm bằm, oán trách, than vãn hay phân bì với các bạn khác, mà cứ im lặng tin cậy và vâng phục Chúa. Sau đó, các em sẽ thấy điều kỳ diệu Chúa làm trên đời sống của các em, nếu các em đạt điểm cao trong thử nghiệm. Cảm tạ Chúa, các em có thể trình dâng cho Chúa những khó khăn của mình. Các em cùng đọc câu gốc (Gv cùng đọc chung với các em, và giải thích ý nghĩa để các em hiểu được sự quan trọng của câu gốc nầy).

 

 

 

(HỌC VIÊN)

BÀI 3.  ĐẠT ĐIỂM CAO TRONG THỬ NGHIỆM (HV)

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 22:1-19.

II. CÂU GỐC: “…Hầu cho sự thử thách đức tin anh em quý hơn vàng hay hư nát, dẫu đã bị thử lửa, sanh ra ngợi khen, tôn trọng, vinh hiển cho anh em khi Đức Chúa Giê-xu Christ hiện ra” (1Phi-e-rơ 1:7).

III. BÀI TẬP.

 1. Em chọn những từ ngữ thích hợp dưới đây để điền vào chỗ trống cho có ý nghĩa.

– Thay thế Y-sác.

– Vâng phục Đức Chúa Trời.

– Hãy dâng Y-sác làm của lễ.

– Xứ Mô-ri-a.

– Con sinh tế lễ.

a. Đức Chúa Trời phán với Áp-ra-ham………………………

b. Đức Chúa Trời phán hãy đi đến………………………..

c. Y-sác sắp trở thành……………………………………………

d. Áp-ra-ham…………………………………………………………

e. Đức Chúa Trời sắm sẵn một chiên con……………..

2. Khi thử thách đến.

Thử thách của Chúa là muốn em được lớn mạnh hơn trong đức tin. Vì thế, khi thử thách đến, mong em có đức tin nơi Chúa để đạt điểm cao.

Trong những ngày qua, có thể em đã gặp phải thử thách. Em hãy cẩn thận điền vào biểu mẫu dưới đây.

3. Em phải làm sao?

Bạn Minh Đức rất yêu thương con chó Mi-na. Hằng ngày, Minh Đức thường hay chơi đùa với nó. Một hôm, bác sĩ cho mẹ của Minh Đức biết nguyên nhân căn bịnh nhảy mũi của bà là do mùi lông của con chó Mi-na gây ra.

Nếu em là Minh Đức, em sẽ giải quyết như thế nào? Em có thể dùng hình vẽ hoặc viết vào ô trống để hoàn thành câu chuyện nầy.

BÀI 2. LỜI HỨA THÀNH HIỆN THỰC (GV-HV)

BÀI 2. LỜI HỨA THÀNH HIỆN THỰC (GV-HV)

in QUÍ II. 2016, THIẾU NHI on 27 Tháng Hai, 2018

BÀI 2. LỜI HỨA THÀNH HIỆN THỰC (GV)

I. KINH THÁNH: Sáng 21:1-21.
II. CÂU GỐC: “Vì tin chắc rằng điều chi Đức Chúa Trời đã hứa, Ngài cũng có quyền làm trọn được” (Rô-ma 4:21).
III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:
– Biết: Lời hứa mà Đức Chúa Trời hứa với Áp-ra-ham 25 năm về trước, đã trở thành hiện thực.
– Cảm nhận: Đức Chúa Trời là Đấng Thành tín và quyền năng.
– Hành động: Tin cậy và bền lòng cầu nguyện.
IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.
A. CHUẨN BỊ.
1. Chấm điểm thủ công tuần trước, nhớ đem theo để phát cho các em. Hỏi các em tuần vừa rồi đã cầu thay cho ai thì ghi vào bảng cầu thay của các em.
2. Bản đồ thế giới (nếu có).
3. Sưu tầm hình ảnh em bé từ sách báo, tạp chí…
B. BÀI HỌC KINH THÁNH.
1. Vào đề.
Khi cầu nguyện, các em có mong đợi sự trả lời của Chúa không? (Cho học viên trả lời). Khi Chúa chưa trả lời, các em có cảm thấy nản lòng không? Có lẽ Chúa muốn các em học bài học về sự kiên nhẫn và tin cậy, cũng có thể Ngài có ý chỉ tốt đẹp hơn.
2. Bài Học.
Áp-ra-ham liên tục cầu xin Chúa một điều, đó là điều gì, các em còn nhớ không? (Một con trai). Chúa trả lời cho Áp-ra-ham là hãy chờ đợi. Các em biết ông đã chờ bao nhiêu năm không? (Hai mươi lăm năm).
Các em có thể tưởng tượng hai mươi lăm năm là bao lâu không? Kể từ ngày các em sanh ra, lớn lên, đi học và học hết đại học.
Hai mươi lăm năm chờ đợi để có một con trai, thật là khó khăn đối với Áp-ra-ham và Sa-ra. Nhưng sự chờ đợi và lòng tin cậy của ông bà đã được Chúa ban thưởng. Khi Áp-ra-ham được 100 tuổi, thì Đức Chúa Trời thực hiện lời hứa của Ngài. Sa-ra đã có thai và sanh một con trai, đặt tên là Y-sác. Y-sác có nghĩa là vui cười. Các em có thể tưởng tượng được Áp-ra-ham vui mừng đến thế nào. Ông hết lòng tạ ơn về sự thành tín của Chúa.
1. Áp-ra-ham đãi tiệc mừng Y-sác.
Năm Y-sác thôi bú, Áp-ra-ham làm tiệc lớn, mời tất cả bà con, bạn bè hàng xóm đến dự, mọi người đều vui vẻ chúc mừng Áp-ra-ham và Sa-ra.
Nhưng rất tiếc, trong buổi tiệc xảy ra một việc không vui. Sa-ra thấy Ích-ma-ên, (con trai của Áp-ra-ham với nàng hầu A-ga) đùa cợt Y-sác, thì tức giận báo cho Áp-ra-ham biết và đòi đuổi hai mẹ con Ích-ma-ên ra khỏi nhà. Sở dĩ Sa-ra đòi đuổi A-ga và Ích-ma-ên là do lòng ích kỷ và ganh tị. Sa-ra nổi giận không chỉ đơn giản là vì Ích-ma-ên cười cợt Y-sác, mà cũng vì không muốn Ích-ma-ên kế nghiệp Y-sác. Hành động của Sa-ra cho thấy bà đã quên lời hứa của Đức Chúa Trời: Chỉ có Y-sác mới là người kế nghiệp Áp-ra-ham, cho nên điều đó không có gì đáng lo ngại.
Áp-ra-ham chắc là buồn lắm khi phải đuổi con trai ra khỏi nhà, nhưng Đức Chúa Trời hứa với Áp-ra-ham, sẽ làm cho Ích-ma-ên trở nên một dân tộc lớn. Lời hứa nầy an ủi Áp-ra-ham rất nhiều.
2. Đức Chúa Trời giúp đỡ Ích-ma-ên.
A-ga và Ích-ma-ên ra khỏi nhà, đi lang thang trong đồng vắng và cuối cùng bị lạc. Vừa nắng nóng, vừa khát, nước đem theo đã cạn, đồ ăn cũng đã hết, hai mẹ con lâm vào cảnh khốn cùng. A-ga ngồi bệt xuống đất và than thở.
Thình lình, thiên sứ của Chúa hiện ra và phán rằng: “Hỡi A-ga! Ngươi có điều gì vậy? Chớ sợ chi… Hãy đứng dậy đỡ lấy đứa trẻ và giơ tay nắm nó, vì ta sẽ làm cho nó nên một dân lớn”. Đức Chúa Trời đã biết trước sự khó khăn của A-ga. Ban đầu A-ga cảm thấy cô đơn và sợ hãi, nhưng bây giờ bà biết có Chúa ở cùng, giúp đỡ. Đức Chúa Trời dắt bà đến bên cạnh cái giếng. A-ga múc đầy bầu nước cho Ích-ma-ên uống và nhờ Chúa giúp đỡ, hai mẹ con đã vượt qua cơn khốn khó.
Đúng như lời Đức Chúa Trời đã hứa với Áp-ra-ham về Ích-ma-ên. Ích-ma-ên sống trong đồng vắng, được Đức Chúa Trời giúp đỡ, lớn lên thành chàng trai khỏe mạnh và có tài bắn cung. Từ Ích-ma-ên đã ra một dân tộc lớn, đó chính là vùng đất Ả-rập. Dòng dõi của Ích-ma-ên là người Ả-rập ngày nay (Chỉ lên bản đồ thế giới).
Sau nầy Y-sác lớn lên, lập gia đình và có rất nhiều con cháu. Đó là người Do-thái. Lời hứa của Chúa đã trở thành sự thực, dòng dõi của Áp-ra-ham đông như sao trên trời, như cát bãi biển.
3. Ứng dụng.
Bài học nầy cho các em thấy Đức Chúa Trời luôn luôn giữ lời hứa, vì Ngài là Đấng Thành tín. Điều gì Ngài đã hứa, thì sẽ làm thành, lâu hay mau đều tốt lành cho chúng ta, miễn là chúng ta cứ giữ vững lòng tin cậy nơi lời hứa của Chúa, và không nản lòng trong sự cầu nguyện.
Đức Chúa Trời đã ban cho các em rất nhiều lời hứa tuyệt diệu trong Kinh Thánh. Các em nên noi gương Áp-ra-ham, tin cậy Chúa. Có nhiều lời hứa Đức Chúa Trời đã làm thành, các em hãy tạ ơn Ngài. Nhưng cũng có nhiều lời hứa, Đức Chúa Trời bảo các em phải chờ đợi, thì cứ yên lòng chờ đợi và tiếp tục cầu nguyện. Các em nên nhớ rằng Áp-ra-ham đã chờ đợi hai mươi lăm năm. Chúng ta cúi đầu đồng lòng cầu nguyện, cảm tạ Chúa đã ban nhiều lời hứa, và cũng cảm tạ Ngài đã làm thành những gì mà chúng ta cầu xin, vì Ngài là Đấng Thành tín.

 

 

 

(HỌC VIÊN)

BÀI 2. LỜI HỨA THÀNH HIỆN THỰC (HV)

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 21:1-21.
II. CÂU GỐC: “Vì tin chắc rằng điều chi Đức Chúa Trời đã hứa, Ngài cũng có quyền làm trọn được” (Rô-ma 4:21).
III. BÀI TẬP.
1. Tin vui.
Đức Chúa Trời hứa sẽ ban cho Áp-ra-ham và Sa-ra một con trai. Ông bà đã đợi 25 năm lời hứa mới thành hiện thực, khi Áp-ra-ham được 100 tuổi và bà Sa-ra được 90 tuổi. Em bé Y-sác ra đời. Sự ban cho của Đức Chúa Trời khiến Áp-ra-ham vui mừng cảm tạ Chúa. Bây giờ, em hãy làm bản khai sanh cho em bé.

2. Lời hứa của Chúa.
Đức Chúa Trời ban cho em nhiều lời hứa trong Kinh Thánh. Tìm xem Chúa đã hứa với em điều gì? (Dùng lời văn của em để viết ra).

Ma-thi-ơ 7:7


1Giăng 1:9


Gia-cơ 1:5


3. Đánh dấu “X” vào câu có ý nghĩa tương tự câu gốc.
___Em thường hay tin lời hứa của Chúa.
___Em nhất định tin chắc vào lời hứa của Chúa.
___Em không chắc khi tin vào lời hứa của Chúa.

4. Em đọc câu chuyện có thật nầy và suy gẫm. 

a. Đức Chúa Trời đã làm thành lời cầu nguyện nào của em?




b. Hôm nay, em cầu nguyện điều gì với Chúa?




 

BÀI 1. ÁP-RA-HAM CẦU THAY (HV)

BÀI 1. ÁP-RA-HAM CẦU THAY (HV)

in QUÍ II. 2016, THIẾU NHI on 18 Tháng Một, 2018

BÀI 1. ÁP-RA-HAM CẦU THAY 

 

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 18:16-33; 19:1-3, 12-25.

II. CÂU GỐC:Phải bền đỗ và tỉnh thức trong sự cầu nguyện, mà thêm sự tạ ơn vào” (Cô-lô-se 4:2).

III. BÀI TẬP.

1. Em hãy tham khảo hai câu Kinh Thánh trên và viết tin tức nầy vào bản thông báo.

2. Em có thể cầu thay.
Cầu thay là em đem những khó khăn của người khác, trình bày với Đức Chúa Trời, để Ngài giải quyết.
a. Em sẽ cầu nguyện cho________________ (Viết tên người mà em sẽ cầu thay).
b. Em cầu xin Đức Chúa Trời _________________ (Ghi điều em cầu thay).
3. Đánh dấu X vào những câu trả lời đúng.
a. Thế nào là cầu nguyện?
___Những lời nói trong nhà thờ.
___Những lời nói khi đang ăn.
___Trò chuyện với Chúa.
___Lời của mẹ thưa với Chúa.
b. Tại sao em phải cầu nguyện?
___Chúa vui khi em trò chuyện với Ngài.
___Cầu xin Chúa giúp đỡ em.
___ Vì em cảm thấy cô đơn.
___ Xin Chúa tha thứ cho em.
c. Giờ cầu nguyện của em là:
___Mỗi ngày một lần.
___Lúc thức dậy buổi sáng.
___Bất cứ lúc nào.
___Chỉ buổi tối.
d. Nơi cầu nguyện của em.
___Chỉ ở nhà thờ.
___Chỉ ở trong nhà.
___Không cầu nguyện ở trường.
___Mọi lúc mọi nơi.
e. Em cầu nguyện như thế nào?
___Bằng tấm lòng.
___Lớn tiếng.
___Cho người khác nghe thấy.
f. Em cầu nguyện điều gì?
___Cầu thay cho người khác.
___Cầu nguyện cho chính mình.
___Mọi việc.
___Người thân trong gia đình.

BÀI 1. ÁP-RA-HAM CẦU THAY (GV)

BÀI 1. ÁP-RA-HAM CẦU THAY (GV)

in QUÍ II. 2016, THIẾU NHI on 18 Tháng Một, 2018

BÀI 1. ÁP-RA-HAM CẦU THAY

 

I. KINH THÁNH: Sáng 18:16-33; 19:1-3,12-25.

II. CÂU GỐC: “Phải bền đỗ và tỉnh thức trong sự cầu nguyện, mà thêm sự tạ ơn vào” (Cô-lô-se 4:2).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Áp-ra-ham cầu thay cho dân thành Sô-đôm, và cả nhà Lót được cứu.

– Cảm nhận: Không chỉ cầu nguyện cho nan đề của riêng mình, mà phải biết cầu nguyện cho nan đề của người khác.

 – Hành động: Liệt kê danh sách cần cầu thay, và cầu nguyện cho họ.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY

A. CHUẨN BỊ.

  1. Làm một bảng cầu thay bằng giấy bìa cứng. Trang trí thật đẹp và ghi những nan đề cần cầu nguyện. Bấm lỗ ở phía trên, cột dây và treo trong phòng học. Không quá cao để các em có thể thấy rõ ràng và khuyến khích các em cầu nguyện. Khi một nan đề được Chúa nhậm lời, bạn dán một cái hoa trước nan đề đó và thông báo cho các em biết để cảm tạ Chúa.
  2. Sưu tầm một số hình ảnh từ sách báo, tạp chí… nói về tội lỗi.
  3. Giấy bìa cứng, giấy màu, kéo, keo để làm thủ công.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

    1. Vào đề.

Các em còn nhớ Áp-ram không? Vì sao Áp-ram rời quê hương ra đi? Cháu của Áp-ram là ai? Áp-ram và vợ khao khát điều gì? Họ có chờ đợi Chúa hành động không? Sau sự việc đó, Áp-ram được Đức Chúa Trời đổi tên. Từ đây trở về sau, chúng ta không gọi ông là Áp-ram nữa mà gọi là Áp-ra-ham, có nghĩa là “cha của nhiều dân tộc”.

    2. Bài học.

Một ngày nọ, Áp-ra-ham tiếp hai vị khách đặc biệt, đó là hai thiên sứ của Chúa. Lần gặp nầy, Chúa hứa sang năm sẽ ban cho Áp-ra-ham một con trai. Khi hai vị khách chuẩn bị rời khỏi đó, Áp-ra-ham đưa tiễn, vừa đi vừa trò chuyện. Thiên sứ cho ông biết một tin xấu, Chúa chuẩn bị hủy diệt thành Sô-đôm, vì dân thành nầy làm nhiều điều ác, phạm tội với Đức Chúa Trời. (Sử dụng thị trợ 2 trong phần chuẩn bị).

            (1) Lời cầu thay của Áp-ra-ham.

Áp-ra-ham nghe vậy, liền nhớ ngay đến cháu mình là Lót đang sống tại thành Sô-đôm. Ông thưa với Chúa: “Chúa ơi! Nếu như trong thành có năm mươi người tốt, Chúa cũng diệt họ sao? Xin vì năm mươi người nầy mà tha thứ, đừng hủy diệt thành”.

Chúa phán rằng: “Nếu trong thành Sô-đôm có năm mươi người tốt, thì vì tình thương những người đó, ta sẽ tha hết cả thành”.

Áp-ra-ham biết lòng nhân từ của Chúa thật lớn, nhưng ông cũng lo lắng. Sô-đôm tuy là thành phố lớn, nhưng chưa chắc có năm mươi người tốt. Vì vậy, ông nài xin tiếp: “Thưa Chúa, nếu lỡ thiếu năm người, chỉ còn bốn mươi lăm người, thì Chúa có tha thứ không?”

Chúa trả lời rằng: “Nếu có bốn mươi lăm người, ta cũng chẳng diệt thành đâu”.

Dầu vậy, Áp-ra-ham vẫn không an tâm, tiếp tục cầu thay cho dân thành Sô-đôm. Từ bốn mươi lăm người, ông hạ xuống còn ba mươi, hai mươi. Cuối cùng, ông kiên nhẫn cầu xin: “Xin Chúa đừng giận, để cho tôi thưa một lần nầy nữa thôi. Nếu chỉ có mười người, thì  làm sao?” Ngài phán rằng: “Vì tình thương mười người đó, Ta cũng chẳng diệt thành đâu”.

Dù Đức Chúa Trời nhân từ, giàu lòng thương xót, nhưng tiếc thay, trong thành Sô-đôm chẳng tìm ra dù chỉ là mười người. Vì vậy, thành nầy phải bị hủy diệt.

            (2) Kết quả sự cầu thay.

Khi Đức Chúa Trời quyết định hủy diệt Sô-đôm và Gô-mô-rơ, thì Ngài nhớ lời cầu nguyện của Áp-ra-ham mà giải cứu Lót. Một buổi chiều, Lót đang ngồi trước cửa thành Sô-đôm, là nơi trung tâm buôn bán, thì thấy hai thiên sứ đi đến cửa thành. Lót đứng dậy tiếp rước và mời về nhà mình.

Ở trong nhà, thiên sứ cho Lót biết Đức Chúa Trời sẽ hủy diệt thành nầy, và dặn ông cùng vợ, con gái, con rể… đi ra khỏi thành ngay tức khắc, nếu không sẽ bị chung số phận với dân Sô-đôm.

Nghe vậy, Lót liền đi báo cho con gái và con rể biết, nhưng các chàng rể của Lót tưởng Lót nói giỡn nên không để ý gì cả.

Đến sáng hôm sau, hai thiên sứ thúc hối, nhưng Lót cứ chần chừ mãi. Cuối cùng, không thể chờ đợi được nữa, hai thiên sứ nắm tay kéo Lót, vợ và hai con gái dẫn ra khỏi thành, đồng thời phán dặn rằng: “Hãy chạy thật nhanh, đừng ngó lại đằng sau và cũng đừng đứng lại. Hãy chạy trốn lên núi, kẻo không kịp”.

Đáng lẽ phải vâng theo lời phán dặn của thiên sứ, nhưng Lót không đủ can đảm để tin rằng mình có thể chạy kịp trước khi thành bị hủy diệt. Vì thế ông xin được chạy đến ẩn núp tại một thành nhỏ gần đó, gọi là thành Xoa.

Thiên sứ đồng ý yêu cầu của Lót. Đức Chúa Trời đối với Lót thật nhân từ và thương xót, phải không các em?

Gia đình Lót chạy ra khỏi thành Sô-đôm rất vội vàng, không kịp mang theo bầy chiên, bò và tài sản. Thiên sứ đã nghiêm cấm họ không được ngó lại đằng sau hoặc dừng bước. Nhưng vợ của Lót không vâng lời, quay ngó lại thành Sô-đôm, nên hóa thành một tượng muối. Lót và hai con gái vừa đến thành Xoa, thì  Đức Chúa Trời khiến lửa từ trời đổ xuống thiêu hủy hai thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ.

    3. Ứng dụng.

Các em thân mến! Qua bài học nầy, các em thấy thái độ của Áp-ra-ham khi cầu thay như thế nào? (Ý kiến của các em là quý báu. Lắng nghe các em phát biểu và ghi trên bảng, rồi kết luận: Cầu nguyện là trò chuyện với Đức Chúa Trời).

Vì sao Áp-ra-ham có thể kiên nhẫn cầu thay cho Lót và dân thành Sô-đôm? (Áp-ra-ham quan tâm, và có lòng yêu thương). Các em nghĩ xem ai thường hay cầu nguyện cho các em? Tại sao cha mẹ, bạn thân của các em lại cầu nguyện cho các em? (Vì quan tâm, và yêu thương). Vậy thì các em hiểu định nghĩa của sự cầu thay là như thế nào rồi phải không? (Cho các em phát biểu. Cầu thay là trò chuyện với Đức Chúa Trời, thưa với Chúa những khó khăn của người mà mình quan tâm và yêu mến). Có điều gì các em phải cầu thay cho người thân và bạn bè không? Các em phải bày tỏ lòng yêu thương đối với họ bằng sự cầu thay, chắc chắn Chúa sẽ nghe lời cầu nguyện của các em và giúp đỡ họ, cũng như Ngài đã nghe lời cầu nguyện của Áp-ra-ham mà cứu Lót.

Kết thúc bài học, chị sẽ kể cho các em nghe một câu chuyện có thật về một thanh niên tên Augustine. Augustine là một thanh niên rất hoang đàng, nhưng mẹ của anh là một phụ nữ yêu mến, kính sợ Chúa. Thấy con hư hỏng, bà rất buồn và luôn luôn cầu nguyện cho con mình. Một ngày nọ, Đức Chúa Trời đã đụng chạm vào tấm lòng của Augustins khiến anh rất xúc động. Từ đó anh ăn năn tội, tin nhận Chúa, đời sống được thay đổi và dâng mình hầu việc Ngài.

Cầu thay đem lại kết quả thật lạ lùng. Vậy, cứ tiếp tục bền đỗ trong sự cầu thay, các em nhé!

(Cho các em nêu các nan đề cần cầu thay và cầu nguyện).

BÀI 12. ĐỨC TIN DAO ĐỘNG (HV)

BÀI 12. ĐỨC TIN DAO ĐỘNG (HV)

in QUÍ I. 2016, THIẾU NHI on 19 Tháng Sáu, 2017

BÀI 12. ĐỨC TIN DAO ĐỘNG

 

I. KINH THÁNH: Sáng 14:1- 16; 15:1-5; 16:1-16.

II. CÂU GỐC: “Đức Chúa Trời chẳng phải là người để nói dối, … Điều Ngài đã phán, Ngài há sẽ chẳng làm ứng nghiệm sao?” (Dân 23:19).

III. BÀI TẬP.

  A. Căn cứ vào sự chỉ dẫn của các câu Kinh Thánh, em điền vào bản đồ trang 32 các địa danh chính xác. Sau đó, kết nối lại bằng một đường theo thứ tự cuộc hành trình.

 

 

 

 

 

 

  B. Những phương cách nào sau đây có thể giúp em vững vàng hơn trong đức tin. Đánh dấu x trước những phương cách đó.

1. Siêng năng học Kinh Thánh.

2. Làm bài tập Trường Chúa nhật.

3. Vâng lời ba mẹ.

4. Học trường Chúa Nhật.

5. Thường hay trò chuyện với Đức Chúa Trời.

6. Phó mặc tất cả.

7. Vâng lời Chúa.

8. Đọc sách báo.

9. Cố gắng bởi sức riêng.

10. Làm điều tốt.

  C. Em làm một bản thống kê như mẫu dưới đây.

* Gợi ý.

– Cột thứ nhất: Các thứ trong tuần: Hai, ba. Tư…

– Cột thứ hai: Những điều tốt mà em quyết định chọn lựa để làm trong tuần nầy.

– Cột thứ ba: Em có cầu nguyện cho việc mình chọn lựa không? Nếu có thì đánh dấu X vào ô có và ngược lại.

– Cột thứ tư: Cách chọn nầy có đẹp lòng Chúa không? Có hoặc không.

Suy nghĩ kỹ trước khi quyết định. Cầu nguyện xin Chúa giúp đỡ cho việc em đã chọn lựa làm trong tuần. Chúc em thành công.

BÀI 12. ĐỨC TIN GIAO ĐỘNG (GV)

BÀI 12. ĐỨC TIN GIAO ĐỘNG (GV)

in QUÍ I. 2016, THIẾU NHI on 19 Tháng Sáu, 2017

BÀI 12. ĐỨC TIN GIAO ĐỘNG

 

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 14:1-16; 15:1-5; 16:1-16.

II. CÂU GỐC: “Đức Chúa Trời chẳng phải là người để nói dối, … Điều Ngài đã phán, Ngài há sẽ chẳng làm ứng nghiệm sao?” (Dân 23:19).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Đức tin của Áp-ram bị giao động, khi trông đợi lời hứa của Đức Chúa Trời được thực hiện.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời là Đấng Thành tín. Ngài có cách và thời gian nhất định để nhậm lời cầu xin của chúng ta.

– Hành động: Em tin cậy Ngài và bền đỗ cầu nguyện.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. CHUẨN BỊ.

  1. Một cái hộp bằng giấy bìa cứng, hoặc bằng gỗ.
  2. Giấy trắng cắt từng miếng nhỏ, phát cho mỗi em một tờ. Sau đó cho các em viết nan đề mà các em đã cầu nguyện, nhưng Chúa chưa nhậm lời. Thời gian chờ đợi đã bao lâu? Thái độ của em đối với Chúa như thế nào? Xong bỏ vào hộp, khỏi cần ghi tên. Cuối giờ lấy ra để cùng thảo luận.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

    1. Vào đề.

Tuần vừa rồi có em nào đã quyết định một điều gì không? Có quyết định nào tốt, khiến cho người nhà vui mừng không? Chẳng hạn như quyết định cố gắng học giỏi, cầu nguyện mỗi ngày… (Cho các em phát biểu). Các em còn nhớ sự lựa chọn của Áp-ram và Lót không?

Lót chọn đồng bằng sông Giô-đanh gần thành Sô-đôm, còn Áp-ram và người nhà dời đến ở gần núi Hếp-rôn.

    2. Bài học.

Các em thân mến! Ngày xưa các nước chưa có quân đội chính thức như ngày nay. Mỗi một người lãnh đạo đều tổ chức quân đội cho riêng mình. Vì thế, Áp-ram tự chọn một số đầy tớ khỏe mạnh làm binh lính, trải qua huấn luyện, để họ trở thành những người lính bảo vệ tài sản và người trong gia đình khi có cần. Áp-ram có tới ba trăm mười tám người lính có huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu.

Một hôm nọ, Áp-ram nhìn thấy một người trông có vẻ như là chiến sĩ từ chiến trường chạy về, quần áo rách tả tơi. Sau khi được người lính kể lại, Áp-ram biết chỗ Lót ở đã bị quân giặc đến cướp phá, Lót, cháu mình bị bắt đi cùng với vợ con và tài sản.

      (1) Áp-ram đi cứu Lót.

Áp-ram lập tức triệu tập ba trăm mười tám người lính khỏe mạnh đã được huấn luyện, đuổi theo quân giặc. Tối đến, Áp-ram cho tấn công địch quân, và đánh thắng, thâu về đủ hết các sản vật mà quân giặc đã cướp lấy và cứu cháu mình là Lót cùng gia đình, tài sản. Sau đó, Lót dẫn gia đình và gia tài về nhà mình là thành Sô-đôm.

      (2) Lời hứa của Đức Chúa Trời đối với Áp-ram.

Tuy Áp-ram đã đánh thắng quân giặc, nhưng ông lo sợ họ có thể kéo đến đông hơn để trả thù, trong khi binh lính của ông không nhiều, không biết làm cách nào để đối phó? Nhưng Đức Chúa Trời phán với Áp-ram rằng: “Hỡi Áp-ram! Ngươi đừng sợ chi, ta đây là một cái thuẫn đỡ cho ngiươi, phần thưởng của ngươi sẽ rất lớn” (Sáng 15:1).

Đức Chúa Trời hứa sẽ bảo vệ Áp-ram và ban phần thưởng lớn cho Áp-ram. Đố các em, Áp-ram trông đợi phần thưởng gì? (Một con trai). Đức Chúa Trời có hứa ban cho Áp-ram một con trai không? (Có, lúc Áp-ram rời khỏi Cha-ran). Nhưng bây giờ Áp-ram lại hỏi Chúa rằng: “Lạy Chúa Giê-hô-va, Chúa sẽ ban cho tôi chi? Tôi sẽ chết không con” (Sáng 15:2). Lời nói của ông cho thấy ông rất đau buồn và tuyệt vọng, vì không có con. Theo tục lệ lúc bấy giờ, đến tuổi già mà không có con thì tất cả gia tài đều giao cho người quản gia. Áp-ram hỏi Đức Chúa Trời có phải người đầy tớ Ê-li-ê-se là người thừa kế sản nghiệp của mình không? (Quản gia của Áp-ram là Ê-li-ê-se ). “Đức Chúa Trời bèn phán cùng Áp-ram rằng: Không phải đâu! Nhưng ai ở trong gan ruột ngươi ra, sẽ là người kế nghiệp ngươi” (Sáng 15:4). Đức Chúa Trời một lần nữa nhắc nhở cho Áp-ram về lời hứa của Ngài và khích lệ ông thêm lòng tin cậy Chúa.

      (3) Thắc mắc của Áp-ram.

Thời gian trôi qua, Áp-ram chờ đợi Chúa ban cho một con trai như lời Ngài đã hứa, nhưng chờ đợi đã lâu lắm rồi, vẫn chưa thấy. Áp-ram thắc mắc, không biết Đức Chúa Trời còn nhớ lời đã hứa không? Ngài có thể làm được không, khi ông bà đã quá già? Kinh Thánh cho chúng ta biết “Đức Chúa Trời không giống như loài người, Ngài không thể nói dối”. Đức Chúa Trời là thành tín, khi đúng thời điểm mà Ngài thấy tốt đẹp cho chúng ta, thì Ngài sẽ làm thành lời đã hứa.

      (4) Kế hoạch của con người.

Một hôm, Áp-ram bàn với vợ mình là Sa-rai về lời hứa ban con trai của Đức Chúa Trời. Hai vợ chồng nhận thấy không thể chờ đợi thêm được nữa, vì mỗi ngày họ càng già hơn. Hai vợ chồng quyết định dùng cách của mình để giải quyết. Ở thời bấy giờ, một người đàn ông có thể cưới nhiều vợ. Sa-rai cho người hầu của mình làm vợ lẽ Áp-ram, và sau đó sanh được một con trai đặt tên là Ích-ma-ên. Nhưng Ích-ma-ên không phải là con trai mà Đức Chúa Trời hứa ban cho Áp-ram và Sa-rai. Lời hứa của Đức Chúa Trời sau nầy mới đến. Những bài học sau, các em sẽ được biết nhé!

    3. Ứng dụng.

Các em thân mến! Vì Áp-ram không vững lòng tin cậy Đức Chúa Trời, nên trong lúc đức tin bị giao động, ông đã làm theo ý riêng. Các em nghĩ xem Đức Chúa Trời có buồn lòng đối với hành động của Áp-ram không? Đôi lúc chúng ta cầu xin với Ngài một việc gì đo, nhưng rất lâu, Ngài vẫn chưa trả lời. Chúng ta sốt ruột, nóng nảy, nghi ngờ và bắt tay làm theo ý riêng của mình.

Kinh Thánh chép: “Hãy hết lòng tin cậy Đức Giê-hô-va, chớ nương cậy nơi sự thông sáng của con” (Châm 3:5). Khi phải chờ đợi sự nhậm lời của Chúa, các em không nên lo lắng, nhưng giao phó và tin cậy Chúa. Hãy tin chắc chắn rằng Đức Chúa Trời luôn nghe lời cầu nguyện của các em và Ngài là Đấng Thành tín sẽ làm thành lời hứa. Các em là con cái của Chúa, Ngài yêu thương và sắm sẵn điều tốt lành nhất cho các em. Hãy vững lòng tin cậy Ngài và bền lòng cầu nguyện, các em nhé!

VII. SINH HOẠT.

Thảo luận những nan đề mà các em đã ghi trong phần đầu giờ.

VIII. THỦ CÔNG: Làm búp bê bằng vỏ trứng.

(Tuần trước dặn các em tuần nầy đem theo 1 vỏ trứng, chỉ bể một chút xíu trên chóp).

Cho cát vào nửa vỏ trứng, để vỏ trứng có thể đứng yên ở vị trí thẳng đứng (hình a). Lấy giấy trắng cắt như hình b, cuộn lại như cái phiễu, và dán vào đầu vỏ trứng, bẻ gập đầu (hình c). Vẽ mặt mũi miệng trên phần giấy trắng (hình d) là xong. Đưa ngón tay đẩy nhẹ, sẽ có một con búp bê biết lắc lư.

* Ghi chú:

Trong bài tập của học viên phần A, bạn phải chuẩn bị kỹ để giúp đỡ các em phần Kinh Thánh. Đọc câu Kinh Thánh, tìm ra địa danh, trong câu Kinh Thánh đó và ghi vào phía trên. Sau đó, cho các em dùng bút nối lại theo trình tự.

BÀI 11. SỰ CHỌN LỰA CỦA LÓT (HV)

BÀI 11. SỰ CHỌN LỰA CỦA LÓT (HV)

in QUÍ I. 2016, THIẾU NHI on 16 Tháng Sáu, 2017

BÀI 11. SỰ CHỌN LỰA CỦA LÓT

 

I. KINH THÁNH: Sáng 13:1-18.

II. CÂU GỐC: “… Ngày nay hãy chọn ai mà mình muốn phục sự,…nhưng ta và nhà ta sẽ phục sự Đức Giê-hô-va” (Giô-suê 24:15).

III. BÀI TẬP.

  A. Dưới đây là một trò chơi. Em đi du lịch bắt đầu từ bên dưới góc phải. Mỗi khi đến một trạm, có hai bức hình cho em chọn lựa. Nếu em không thích hình nào, thì gạch chéo vào hình đó. Khi đi đến trạm cuối, em viết ra nội dung và sự dạy dỗ của hình đó.

………………………………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………………………………

  B. Dưới đây có ba trường hợp, em chọn một trường hợp và đặt mình trong trường hợp đó. Em sẽ cư xử ra sao?

 

1. Em đang xem tivi, mẹ bảo em dọn dẹp đồ chơi của em gái, thì em…………………………………………………….

2. Mẹ mắng em gái (Thật ra là lỗi tại em), em sẽ…………………………..

3. Em không thích bạn A gia nhập đội bóng đá của em, nên em…………………………………………

– Em chọn cách nào? …………………………………………………………………………..

…………………………………………………………………………………………………………………..

…………………………………………………………………………………………………………………..

…………………………………………………………………………………………………………………..

…………………………………………………………………………………………………………………..

– Sự chọn lựa của em, có phù hợp với ý muốn của Đức Chúa Trời không? Tại sao?

…………………………………………………………………………………………………………………..

…………………………………………………………………………………………………………………..

…………………………………………………………………………………………………………………..

…………………………………………………………………………………………………………………..