Ngày: Tháng Sáu 1, 2017

BÀI 4. CA-IN GIẾT A-BÊN (HV)

BÀI 4. CA-IN GIẾT A-BÊN (HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ I. 2016 on 1 Tháng Sáu, 2017

BÀI 4. CA-IN GIẾT A-BÊN

 

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 4:1-16.

II. CÂU GỐC: “Hãy bước đi cách hẳn hoi như giữa ban ngày… Chớ rầy rà và ghen ghét” (Rô-ma 13:13).

III. BÀI TẬP.

A. VIỆC SAI PHẠM CỦA CA-IN.

Hãy chọn ra việc làm sai phạm của Ca-in theo hình vẽ, rồi điền vào khoảng trống bên cạnh mỗi hình (Hình để cắt dán trong trang cắt dán).

  1. Ca-in dâng …………… cho Đức Chúa Trời.
  2. Ca-in ………………… A-bên.
  3. Đức Chúa Trời không nhận của lễ của Ca-in, nên Ca-in ………………..
  4. Ca-in làm nghề nông……………….
  5. Ca-in không …………………….nghe lời cảnh cáo của Đức Chúa Trời, không ngăn chặn tội lỗi.
  6. Ca-in ………………… A-bên ngoài đồng.

B. SUY NGHĨ XEM.

Em thử suy nghĩ xem có khi nào em tức giận giống như Ca-in không? Viết hoặc vẽ ra tình huống đó vào khoảng trống bên dưới, xưng tội và cầu xin Đức Chúa Trời giúp đỡ.

BÀI 4. CA-IN GIẾT A-BÊN (GV)

BÀI 4. CA-IN GIẾT A-BÊN (GV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ I. 2016 on 1 Tháng Sáu, 2017

BÀI 4. CA-IN GIẾT A-BÊN

 

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 4:1-16.

II. CÂU GỐC: “Hãy bước đi cách hẳn hoi như giữa ban ngày… Chớ rầy rà và ghen ghét” (Rô-ma 13:13).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Vì ganh ghét mà Ca-in  phạm tội giết A-bên  và phải chịu hình phạt.

– Cảm nhận: Chất chứa tội lỗi trong lòng sẽ dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng. Đừng để tội lỗi ở trong lòng chúng ta, phải ngăn chặn và đối phó để không phạm tội.

– Hành động: Cầu nguyện xin Chúa giúp chúng ta trong suy nghĩ, lời nói, hành động đều đẹp lòng Đức Chúa Trời.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Diệt tận gốc.

  1. Chuẩn bị: Hình vẽ trong trang tài liệu số 4, sách giáo viên.
  2. Thực hiện: Dán hình vẽ trong trang tài liệu số 4 sách giáo viên: Áo rách, tờ giấy rách, con gián, đốm lửa nhỏ lên bảng. Cho các em suy nghĩ phương cách xử lý, rồi viết lên giấy. Sau đó hướng dẫn các em chia sẻ đáp án, rồi thảo luận: Nếu không lập tức giải quyết ngay những vấn đề đó thì hậu quả sẽ như thế nào? Giáo viên nêu lên một số việc nếu không giải quyết ngay tình trạng sẽ ngày càng xấu hơn. Có thể lấy “áo rách” làm mẫu.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

(Photo lớn hình vẽ trang tài liệu số 5 và 6, rồi tô màu cho đẹp).

    1. Vào đề.

Có khi nào các em phạm từ lỗi lầm nầy đến lỗi lầm khác càng lúc càng nghiêm trọng hơn không? (Giáo viên có thể gợi ý cho các em thảo luận). Nếu biết nhận lỗi, chắc chắn sẽ không có những sai lầm đáng tiếc xảy ra phải không các em? Bài học nầy sẽ giúp các em nhận biết rõ hơn về vấn đề nầy.

    2. Bài học.

Các em đã biết vì không vâng lời Đức Chúa Trời nên A-đam và Ê-va phải chịu trừng phạt, rời khỏi vườn Ê-đen. Sau đó họ sinh được hai con trai. Con trai lớn tên là Ca-in làm nghề nông, con trai thứ hai tên là A-bên, làm nghề chăn chiên.

Một hôm, Ca-in và A-bên dâng của lễ cho Đức Chúa Trời. Ca-in  lấy thổ sản mình thu hoạch được làm của lễ, còn A-bên chọn trong bầy mình một con chiên đầu lòng để dâng cho Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đẹp lòng A-bên và của lễ của ông, nhưng Ngài từ chối của lễ của Ca-in. Vì thế Ca-in nổi cơn tức giận, gằm gằm nét mặt trông rất khó coi. (Cho các em xem hình Ca-in nổi giận).

Vì sao Ca-in nổi giận? Ca-in nổi giận với ai? (Cho các em trả lời). Ca-in nổi giận vì Đức Chúa Trời không nhận của lễ của ông. Các em có biết tại sao Đức Chúa Trời lại đẹp lòng của lễ của A-bên không? A-bên đã chọn lựa phần tốt nhất và dâng với cả tấm lòng cho Đức Chúa Trời. Còn Ca-in dâng của lễ cho xong chuyện, chứ không phải dâng phần tốt nhất cho Đức Chúa Trời với cả tấm lòng.

Đức Chúa Trời biết rõ những suy nghĩ của Ca-in. Ngài nhắc nhở ông phải ngăn chặn tội lỗi, đừng tiếp tục sai phạm, nhưng Ca-in  không quan tâm đến lời cảnh cáo đó. Sự tức giận, ganh ghét em đã chiếm lấy tâm trí của Ca-in.

Một ngày kia, Ca-in nói với A-bên: “Chúng ta hãy đi dạo ngoài đồng, anh có việc cần bàn với em”. Khi đi ra ngoài đồng vắng vẻ, Ca-in xông đến đánh A-bên đến chết! A-bên thật đáng thương phải không các em?

Đức Chúa Trời hỏi Ca-in: “A-bên ở đâu?” Nhưng Ca-in nói dối: “Con không biết! Con là người giữ em con sao? Tại sao lại hỏi con?” Đức Chúa Trời phán với Ca-in: “Tiếng kêu khóc và máu của em ngươi chan hòa dưới đất đã thấu đến tai ta. Đây là hình phạt mà ngươi phải gánh chịu do hậu quả của việc mình làm. Đất sẽ không còn sanh hoa lợi cho ngươi nữa. Ngươi sẽ trở nên một kẻ không nhà, đi lang thang suốt đời”. Ca-in van xin: “Hình phạt ấy nặng quá sức chịu đựng của con. Con sợ nếu có ai gặp con họ sẽ giết con mất!” Đức Chúa Trời không rút lại hình phạt đối với Ca-in, nhưng hứa sẽ bảo vệ Ca-in khỏi bị người khác giết hại.

Các em ơi, nếu thấy lễ vật của mình không được chấp nhận, Ca-in suy nghĩ, cầu hỏi Đức Chúa Trời, rồi quyết tâm làm đẹp lòng Ngài, thì mọi việc sẽ tốt đẹp biết bao. Nếu Ca-in nghe lời cảnh cáo của Đức Chúa Trời, không để sự ganh ghét trong lòng, chắc chắn sẽ không xảy ra việc gây hậu quả nghiêm trọng như vậy phải không các em?

Các em thân mến, dù chỉ với một ý nghĩ tội lỗi rất nhỏ, nhưng nếu không ngăn chặn, nó sẽ dần dần phát triển xui khiến chúng ta phạm những tội rất khủng khiếp.

    3. Ứng dụng.

Cho các em mở bài 4 sách học viên ra và cùng thảo luận bằng cách hỏi những câu hỏi sau: Tại sao Ca-in nổi giận? Ai đã cảnh cáo Ca-in? Ca-in có nghe lời cảnh cáo của Đức Chúa Trời không? Ca-in  phạm tội gì? Đức Chúa Trời trừng phạt Ca-in như thế nào? Hướng dẫn các em viết hoặc vẽ vào bài tập “Suy nghĩ của em”, rồi lần lượt chia sẻ. Sau đó giáo viên nhắc các em: Ngoài Kinh Thánh, Đức Chúa Trời cũng dùng ba mẹ, thầy cô hoặc người khác để nhắc nhở các em đừng phạm lỗi. Chúng ta không nên như Ca-in bỏ qua lời nhắc nhở của Đức Chúa Trời. (Giáo viên có thể chia sẻ một kinh nghiệm của bản thân để khích lệ các em chia sẻ). Rồi hướng dẫn các em cầu nguyện với Đức Chúa Trời.

BÀI 4. GIÚP ĐỠ NGƯỜI BỊ NẠN (HV)

BÀI 4. GIÚP ĐỠ NGƯỜI BỊ NẠN (HV)

in ẤU NHI, QUÍ I. 2016 on 1 Tháng Sáu, 2017

BÀI 4. GIÚP ĐỠ NGƯỜI BỊ NẠN

CÂU GỐC: “Hãy yêu kẻ lân cận như mình” (Luca 10:27).

BÀI 4. GIÚP ĐỠ NGƯỜI BỊ NẠN (GV)

BÀI 4. GIÚP ĐỠ NGƯỜI BỊ NẠN (GV)

in ẤU NHI, QUÍ I. 2016 on 1 Tháng Sáu, 2017

BÀI 4. GIÚP ĐỠ NGƯỜI BỊ NẠN

 

I. KINH THÁNH: Lu-ca 10:25-37.

II. CÂU GỐC: “Hãy yêu kẻ lân cận như mình” (Lu-ca 10:27).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Người Sa-ma-ri biết yêu thương và giúp đỡ người bị nạn.

– Cảm nhận: Người biết yêu thương người khác thì người ấy là bạn tốt của Đức Chúa Trời.

– Hành động: Sẵn lòng giúp đỡ người cần được giúp.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

– Cho một số em đóng vai khách đi đường mệt mỏi, người nghèo đói, bị thương… Các em còn lại đóng vai những người giúp đỡ.

Giáo viên quan sát các em để có thể hướng dẫn thêm và kết thúc: “Các em làm những điều nầy là tốt, rất đáng khen. Chúa vui lắm khi nhìn thấy các em như thế”.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

    1. Vào bài.

Các em có biết không, Chúa Giê-xu thích chúng ta vui lòng giúp đỡ người khác. Chúng ta có thường hay giúp đỡ những người cần được giúp đỡ không? Cụ Áp-ra-ham đã giúp đỡ ba người khách đi đường. Bà góa đã cho Ê-li bánh ăn. Ê-li-sê đi khắp nơi giảng lời Chúa và cần có chỗ nghỉ chân thì người đàn bà ở Su-nem đã cất một phòng cho ông. Đây chính là ý nghĩa “giúp đỡ những người cần giúp đỡ”.

Trong Kinh Thánh, Chúa Giê-xu có kể lại một câu chuyện nữa về một người có lòng yêu thương, biết giúp đỡ người khi cần được giúp, các em theo dõi câu chuyện nhé.

Cách đây rất lâu, có một người ở thành Giê-ru-sa-lem đi xuống thành kia. Ông đem theo rất nhiều tiền. Đến một quãng đường vắng, thình lình, có một nhóm người xông ra, hét to: “Đứng lại!” Bọn cướp đánh ông, cướp hết tiền bạc của ông, rồi bỏ đi.

Ông bị thương rất nặng, cả người đau nhức, nằm lả bên lề đường. Một lúc sau, ông nghe tiếng chân đi từ đằng xa đến, ông mừng thầm: “Có người đến rồi, ta được cứu rồi!” Nhưng không ngờ, người nầy chỉ nhìn qua rồi bỏ đi. Các em có biết người nầy là ai không? Người nầy là một thầy lo việc dâng tế lễ trong đền thờ của Chúa đó.

Vết thương càng lúc càng đau nhức, ông rên rỉ vì khát nước và đau không chịu nổi. Trong khi đang nản lòng, ông lại nghe tiếng chân đi đến. Ông hi vọng: “Mong sao người nầy giúp đỡ…”. Lần nầy là một người Lê-vi, chuyên coi sóc mọi việc trong đền thờ của Chúa. Trong khi người bị thương đang còn suy nghĩ thì người nầy đã đứng gần ông rồi. Nhưng sau khi nhìn kỹ, ông cũng vội bỏ đi như người trước. “Chắc là mình sẽ chết thôi!” Ông nhủ thầm và không còn trông mong gì nữa. Một lát sau, lại nghe có tiếng chân người và lừa đến gần. Ông nghĩ: “Người nầy chắc cũng không cứu mình đâu!”

Người ngồi trên lưng lừa là một người Sa-ma-ri. Các em biết không, người Y-sơ-ra-ên rất ghét và không thích nói chuyện với người Sa-ma-ri. Nhưng thật lạ, khi người Sa-ma-ri thấy người bị nạn, ông vội xuống lừa, xem xét vết thương, lấy dầu xức cho người bị nạn, băng bó vết thương… Sau đó, ông dìu người bị thương lên lưng lừa, chở đến nhà trọ. Sáng hôm sau, người Sa-ma-ri đưa tiền và bảo chủ nhà trọ: “Ông cho người nầy ở đây cho đến khi lành. Khi tôi trở lại sẽ trả những khoản còn thiếu! Bây giờ tôi có việc phải đi vội”. Người bị thương cảm động nói: “Tôi cảm ơn ông vì đã đối xử tốt với tôi!”.

    2. Ứng dụng.

Các em ơi, khi chúng ta bị thương, rất cần người giúp đỡ, phải không? Vì vậy, khi thấy người khác cần được giúp đỡ, chúng ta phải giúp ngay. Đó là điều đem lại niềm vui cho người được giúp, cho chính các em và Chúa Cha ở trên trời nữa!

BÀI 3. CỘI NGUỒN CỦA VŨ TRỤ (HV)

BÀI 3. CỘI NGUỒN CỦA VŨ TRỤ (HV)

in QUÍ I. 2016, THIẾU NHI on 1 Tháng Sáu, 2017

BÀI 3. CỘI NGUỒN CỦA VŨ TRỤ

 

I. KINH THÁNH: Sáng 1:1-8.

II. CÂU GỐC: ”Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất” (Sáng 1:1).

III. BÀI TẬP.

    1. Em hãy kể hoặc vẽ ra những điều kỳ diệu trong thiên nhiên mà em đã thấy.

……………………………………………………………………………………..

……………………………………………………………………………………..

……………………………………………………………………………………..

    2. Hãy mở Kinh Thánh của em, tìm các câu Kinh thánh sau đây:

Dùng lời văn đơn giản của em để viết ra ý chính của các câu Kinh Thánh trên.

……………………………………………………………………………………..

……………………………………………………………………………………..

……………………………………………………………………………………..

……………………………………………………………………………………..

……………………………………………………………………………………..

……………………………………………………………………………………..

 

    3. Điền vào chỗ trống.

a. Sáng Thế Ký 1.1-8:

Đức Chúa Trời tạo dựng nên……………………….

b. Thế giới trước khi Đức Chúa Trời tạo dựng là vô hình và trống không, sự mờ tối ở trên mặt vực. Trong Kinh Thánh Sáng thế ký đoạn 1:……….(ghi địa chỉ) đã cho em biết điều nầy.

BÀI 3. CỘI NGUỒN CỦA VŨ TRỤ (GV)

BÀI 3. CỘI NGUỒN CỦA VŨ TRỤ (GV)

in QUÍ I. 2016, THIẾU NHI on 1 Tháng Sáu, 2017

BÀI 3. CỘI NGUỒN CỦA VŨ TRỤ

 

I .KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 1:1-8.

II. CÂU GỐC: “Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất” (Sáng 1:1).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Muôn vật trong vũ trụ là do Đức Chúa Trời tạo dựng nên.

– Cảm nhận: Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa Toàn Năng.

– Hành động: Tôn thờ Chúa Toàn Năng.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. CHUẨN BỊ.

  1. Sưu tầm một bộ hình ảnh về sự sáng tạo (Nếu không có thì tự vẽ).

a. Chọn một tựa đề cho bộ hình ảnh (Ví dụ: Câu chuyện sáng tạo).

b. Dưới hình vẽ, ghi vài dòng nói rõ nội dung của từng bức tranh.

2. Một cuốn lịch đang sử dụng.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH

  1. Vào đề

Các em cho biết năm nay là năm bao nhiêu? (giáo viên sử dụng cuốn lịch). Có phải từ khi thế giới nầy được hình thành cho đến ngày hôm nay là hơn hai ngàn năm không? (Cho các em trả lời). Ồ! Không phải vậy đâu! Thế giới nầy được hình thành từ rất lâu rồi, lâu đến nỗi không ai có thể biết chính xác được. Vậy thì con số của năm nầy bắt đầu từ đâu? (Cho các em trả lời).

Bắt đầu tính từ năm Chúa Giê-xu giáng sinh tại thành Bết-lê-hem. Trước khi giáng sinh, Chúa Giê-xu đã ở cùng với Đức Chúa Cha trên trời. Trước Chúa Giê-xu giáng sinh, trên đất nầy đã có người ở rồi. Không ai biết được thế giới đẹp đẽ nầy đã tồn tại bao lâu, chỉ có một mình Đức Chúa Trời mới biết, vì thế giới nầy là do Đức Chúa Trời tạo dựng.

  2. Bài học.

(1) Sự tạo dựng vũ trụ.

Sáng Thế Ký 1:1 “Ban đầu Đức Chúa Trời dựng nên trời đất”. Tạo dựng có nghĩa là từ không có trở nên có. Ví dụ trong giờ vẽ, thầy cô bảo các em vẽ tự do một bức tranh, thì các em cần phải có giấy, bút màu, bút chì… để làm dụng cụ, phải không?

Nhưng khi Đức Chúa Trời tạo dựng vũ trụ nầy, không cần một dụng cụ nào cả. Vậy, làm thế nào Đức Chúa Trời tạo ra thế giới nầy? Đức Chúa Trời là Đấng Toàn năng, Ngài không cần dụng cụ, Ngài dựng nên thế giới nầy bởi lời phán của Ngài. “Bởi đức tin, chúng ta biết rằng thế gian đã làm nên bởi lời của Đức Chúa Trời…” (Hê-bơ-rơ 11:3).

(2) Buổi đầu tiên của sự sáng tạo.

Các em có bao giờ đi vào hang động tối tăm một lần nào chưa? Các em cảm thấy thế nào? (Cho các em chia sẻ kinh nghiệm). Theo như Thánh kinh chép, trước khi Đức Chúa Trời dựng nên trời đất, tất cả đều tối tăm. Đức Chúa Trời phán rằng: “Phải có sự sáng”, thì lập tức sự sáng xuất hiện (Sáng 1:3). Đức Chúa Trời thấy sự sáng là tốt đẹp, thì phân sáng ra riêng, tối ra riêng. Đức Chúa Trời đặt tên sự sáng là ngày, sự tối là đêm. Đó là ngày thứ nhất trong công cuộc sáng tạo. Đức Chúa Trời tạo nên sự sáng rất ích lợi cho mọi vật, giúp cho chúng ta nhìn rõ mọi vật chung quanh. Các em thử tưởng tượng xem, thế giới nầy nếu không có ánh sáng, sẽ tối tăm và u buồn biết bao, phải không các em?

(3) Ngày thứ 2 của sự sáng tạo.

Mời các em đọc Sáng Thế Ký 1:6-8. Trong ngày thứ hai, Đức Chúa Trời đã tạo dựng nên gì? (Trời).

Xung quanh trái đất có một lớp khí quyển bao bọc, dày khoảng vài trăm dặm, đó là bầu trời.

Trong bầu trời có không khí. Không khí là chất khí mà loài người, động vật, thực vật không thể thiếu được. Nếu chỉ nín thở trong một vài phút thôi, các em có chịu nổi không? Mỗi ngày, các em hít thở không khí trong lành, ngước nhìn bầu trời trong xanh, đẹp đẽ, hãy nhớ đến sự sáng tạo kỳ diệu của Đức Chúa Trời trong ngày thứ nhất và thứ hai, các em nhé!

(4) Muôn vật đều do Đức Chúa Trời tạo nên

Chỉ có Đức Chúa Trời tạo dựng nên muôn loài, vì Ngài là Đức Chúa Trời. Kinh Thánh cho chúng ta biết, Đức Chúa Trời là Đấng Toàn Năng, không có việc gì khó cho Ngài. “Tôi biết rằng Chúa có thể làm được mọi sự, chẳng có ý chỉ nào Chúa lấy làm khó lắm” (Gióp 42:2). Mời ba em thay phiên nhau đọc Sáng 18:14a, Thi 107:29, Ma-thi-ơ 28:18, thì chúng ta sẽ biết được quyền năng vô hạn của Đức Chúa Trời. (Nếu các em không có Kinh Thánh thì bạn chép 3 câu vào 3 tờ giấy nhỏ).

Ngoài quyền phép vô hạn, Ngài còn là Đấng khôn ngoan. “Chúa chúng tôi thật lớn, có quyền năng cả thể. Sự thông sáng Ngài vô cùng vô tận” (Thi 147:5).

    3. Ứng dụng.

Các em thân mến! Dù Đức Chúa Trời là Đấng cao cả, vĩ đại, nhưng Ngài luôn đoái xem con người nhỏ bé, thấp hèn của chúng ta. Ngài biết tên của các em và của cô (thầy) nữa! Ngài còn biết niềm vui, nỗi buồn của các em. Ngài yêu thương các em, và muốn các em cũng yêu mến Ngài. Sự vĩ đại của Đức Chúa Trời, con người chúng ta khó mà hiểu biết được, nên khi nhìn thấy sự kỳ diệu trong thiên nhiên, các em cất tiếng hát ca ngợi Ngài và nguyện cả cuộc đời tôn thờ Chúa.

Chúng ta cúi đầu, hiệp ý cầu nguyện.

* GHI CHÚ:

Trong bài tập của học viên phần 2. Nếu các em không có Kinh Thánh, bạn phải ghi những câu Kinh Thánh đó ra trên bảng.

BÀI 3. LOÀI NGƯỜI PHẠM TỘI (HV)

BÀI 3. LOÀI NGƯỜI PHẠM TỘI (HV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ I. 2016 on 1 Tháng Sáu, 2017

BÀI 3. LOÀI NGƯỜI PHẠM TỘI

 

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 3:1-21, 23.

II. CÂU GỐC: “Xin dạy tôi làm theo ý muốn Chúa, vì Chúa là Đức Chúa Trời tôi…” (Thi Thiên 143:10).

III. BÀI TẬP.

A. CON NGƯỜI PHẠM TỘI.

Dưới đây là những hình vẽ nói về câu chuyện tội lỗi đi vào thế gian. Hãy viết thứ tự lên hình vẽ.

A-đam và Ê-va lấy lá đóng khố che thân.

Con rắn cám dỗ Ê-va ăn trái cây phân biệt điều thiện và điều ác.

Đức Chúa Trời tìm A-đam trong vườn Ê-đen.

A-đam và Ê-va rời khỏi vườn Ê-đen.

A-đam và Ê-va phải chịu sự trừng phạt của Đức Chúa Trời.

A-đam và Ê-va ăn trái cây biết điều thiện và điều ác.

B. CON NGƯỜI CẦN ƠN CỨU RỖI CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI.

Mối liên hệ giữa con người và Đức Chúa Trời bị tội lỗi làm cho phân cách, có cách nào cứu vãn không? Em hãy tô màu đỏ vào ô vuông có trái tim sẽ thấy gợi ý. Gợi ý nầy nói lên điều gì? (Em hãy chia sẻ).

BÀI 3. LOÀI NGƯỜI PHẠM TỘI (GV)

BÀI 3. LOÀI NGƯỜI PHẠM TỘI (GV)

in NHI ĐỒNG, QUÍ I. 2016 on 1 Tháng Sáu, 2017

BÀI 3. LOÀI NGƯỜI PHẠM TỘI

 

I. KINH THÁNH: Sáng Thế Ký 3:1-21, 23.

II. CÂU GỐC: “Xin dạy tôi làm theo ý muốn Chúa, vì Chúa là Đức Chúa Trời tôi” (Thi Thiên 143:10).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Vì con người không vâng lời nên tội lỗi đã vào thế gian, phá hoại sự tương thông tốt đẹp giữa Đức Chúa Trời và loài người.

– Cảm nhận: Loài người cần tiếp nhận Chúa Giê-xu để được cứu khỏi tội, được phục hòa với Đức Chúa Trời.

– Hành động: Tiếp nhận Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa và sống theo ý muốn của Ngài.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Làm nổ bong bóng.

  1. Chuẩn bị: Bong bóng, ghế đẩu.
  2. Thực hiện: Chia các em thành hai tổ, mỗi tổ một số bong bóng tương ứng với số lượng các em. Cho các em trong cả hai tổ xếp hàng dọc, lần lượt ngồi lên bong bóng đặt trên ghế đẩu cho nổ. Tổ nào làm nổ hết bong bóng trước là thắng cuộc.

Sau khi thi đua, hỏi các em làm thế nào để cho bong bóng trở lại hình dạng ban đầu. Giúp các em nhận biết có một số vật hoặc sự việc bị phá hỏng, sẽ không có cách gì phục hồi được.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

Chuẩn bị thị trợ: (1) Photo lớn trang tài liệu 3, rồi tô màu cho đẹp. (2) Chọn ba em trong lớp đóng vai A-đam, Ê-va và con rắn. Hướng dẫn các em tập đóng kịch câm và hoá trang trước. Sau đó trong khi giáo viên kể chuyện, các em diễn theo nội dung câu chuyện).

    1. Vào đề.

Các em có nhớ ai dựng nên con người không? Người đầu tiên tên là gì? Nam hay nữ? Người thứ hai tên gì? Họ sống ở đâu? (Giáo viên có thể hỏi một số câu hỏi liên quan đến bài trước). Bài học nầy sẽ cho các em biết họ sống ở trong vườn Ê-đen như thế nào nhé!

    2. Bài học.

Vườn Ê-đen rất xinh đẹp, cây trái sum suê, quanh năm xanh tốt. Đức Chúa Trời cho phép A-đam và Ê-va ăn tất cả những trái cây trong vườn, ngoại trừ trái cây biết điều thiện và điều ác là không được đụng đến, nếu không sẽ chết.

Một hôm, con rắn là giống quỉ quyệt nhất trong các loài vật, nói với Ê-va: “Có phải Đức Chúa Trời phán dặn các ngươi không được ăn những trái cây ngon ngọt trong vườn nầy không?” Ê-va trả lời: “Ồ, không! Chúng tôi có thể ăn tất cả trái cây nào mình muốn, chỉ trừ trái của cây biết điều thiện và điều ác là Đức Chúa Trời không cho đụng đến, vì nếu ăn e rằng chúng tôi sẽ chết”. Con rắn dụ dỗ người nữ: “Ngươi sẽ chẳng chết đâu! Đức Chúa Trời biết rằng nếu ngươi ăn trái đó sẽ khôn ngoan và thông sáng giống như Ngài, nên Ngài bảo ngươi đừng ăn”. Ê-va nhìn thấy những trái cây chín mọng treo lủng lẳng trên cành thật là hấp dẫn, bà tưởng tượng ăn vào chắc là ngon lắm. Rồi Ê-va nghĩ rằng, sẽ rất tuyệt vời nếu được trở nên khôn ngoan như Đức Chúa Trời, thế là bà quyết định hái trái cấm xuống ăn và đưa cho A-đam ăn nữa.

Sau khi ăn xong, họ không cảm thấy khôn ngoan mà chỉ thấy xấu hổ vì không mặc quần áo. Họ hái những lá cây to để che thân, rồi núp vào giữa bụi cây trong vườn. Khi Đức Chúa Trời đến tìm, họ sợ hãi không dám rời khỏi chỗ nấp. Vì sao như vậy? (Cho các em trả lời). Bởi vì họ đã phạm tội không vâng lời Đức Chúa Trời. Họ cảm thấy xấu hổ và sợ hãi.

Đức Chúa Trời hỏi A-đam: “Con đã ăn trái cây ta cấm phải không?” A-đam thưa: “Người nữ mà Chúa cho sống với con đưa con trái cây đó, và con đã ăn rồi!” Đức Chúa Trời hỏi người nữ: “Sao con lại làm như vậy?” Ê-va trả lời: “Con rắn dụ dỗ con, nên con đã ăn!” Các em thấy họ có nhận lỗi không? Thật ra, Đức Chúa Trời biết tất cả, Ngài hỏi là để cho họ có cơ hội nhận lỗi, nhưng họ chỉ muốn đổ lỗi cho người khác.

Vì không vâng lời nên con người phải chịu hình phạt của Đức Chúa Trời. Người nữ phải chịu đau đớn khi sinh con, người nam phải làm lụng khó nhọc mới có thức ăn, họ phải rời khỏi khu vườn Ê-đen xinh đẹp. Nhưng Đức Chúa Trời vẫn yêu thương con người, Ngài lấy da thú kết thành áo choàng mặc cho A-đam và Ê-va trước khi đuổi họ ra khỏi vườn.

Từ khi A-đam và Ê-va phạm tội, tội lỗi đã vào thế gian. Sự sáng tạo tốt đẹp của Đức Chúa Trời bị phá hoại. Các em có nhận thấy người ta tàn sát và công kích lẫn nhau không? Chẳng những thế, con người không ngừng phá hoại thiên nhiên, rất nhiều động vật quí hiếm bị diệt chủng, nạn phá rừng bừa bãi ảnh hưởng đến môi trường sống chung quanh. Nhưng điều quan trọng nhất là mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với Đức Chúa Trời bị phá vỡ. Tội lỗi ngăn cách con người với Đức Chúa Trời. Đó là lý do vì sao Đức Chúa Trời nói, nếu con người ăn trái cây cấm sẽ phải chết.

Cũng giống như các em sau khi chơi trò chơi “làm bể bong bóng”, thì không cách gì làm quả bóng trở lại như cũ. Khi đã phạm tội, chẳng có phương cách gì để phục hồi. Nhưng Đức Chúa Trời yêu thương con người, Ngài không muốn một ai phải chết mất trong tội lỗi. Vì vậy, Ngài chuẩn bị cho con người ơn cứu rỗi. Ngài ban Chúa Giê-xu xuống thế gian, chịu chết thay cho loài người trên cây thập tự và Ngài đã sống lại. Chỉ cần tin nhận Chúa Giê-xu, con người được tha tội, trở thành con cái Đức Chúa Trời.

Mỗi chúng ta đều đã từng phạm tội. Tội lỗi khiến chúng ta xa cách Đức Chúa Trời. Muốn khôi phục lại mối quan hệ thân mật với Đức Chúa Trời, chúng ta phải tiếp nhận ơn cứu rỗi. Các em có bằng lòng tiếp nhận Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa không? (Nếu tất cả các em đều đã tiếp nhận Chúa, có thể cho các em một lần nữa khẳng định niềm tin của mình).

    3. Ứng dụng.

Giáo viên hướng dẫn các em thảo luận bằng những câu hỏi sau: Con rắn nói gì với Ê-va? Tại sao Ê-va ăn trái của cây biết điều thiện, điều ác? A-đam có ăn trái cây đó không? Họ làm như vậy có đúng không? Tại sao? Sau khi A-đam, Ê-va phạm tội, thế giới có gì biến đổi? Mối quan hệ giữa con người với Đức Chúa Trời bị phá vỡ, có cách gì cứu vãn không?

Sau khi các em thảo luận xong, cho các em làm bài tập “Chúng ta cần ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời”. Rồi cho các em lần lượt chia sẻ: Thập tự giá tượng trưng cho điều gì?

Cuối cùng cầu nguyện cảm tạ Đức Chúa Trời ban Chúa Giê-xu xuống thế gian để cứu con người ra khỏi tội.

BÀI 3. CHUẨN BỊ VỚI LÒNG YÊU THƯƠNG (HV)

BÀI 3. CHUẨN BỊ VỚI LÒNG YÊU THƯƠNG (HV)

in ẤU NHI, QUÍ I. 2016 on 1 Tháng Sáu, 2017

BÀI 3. CHUẨN BỊ VỚI LÒNG YÊU THƯƠNG

 

CÂU GỐC: “Hãy tỏ… sự yêu thương mình” (2Cô-rinh-tô 8:24).

BÀI 3. CHUẨN BỊ VỚI LÒNG YÊU THƯƠNG (GV)

BÀI 3. CHUẨN BỊ VỚI LÒNG YÊU THƯƠNG (GV)

in ẤU NHI, QUÍ I. 2016 on 1 Tháng Sáu, 2017

BÀI 3. CHUẨN BỊ VỚI LÒNG YÊU THƯƠNG

 

I. KINH THÁNH: 2Các Vua 4:8-16.

II. CÂU GỐC: “Hãy tỏ… sự yêu thương mình” (2Cô-rinh-tô 8:24).

III. MỤC ĐÍCH: Giúp các em:

– Biết: Người đàn bà ở Su-nem tiếp đãi Ê-li-sê với tấm lòng sốt sắng, đầy yêu thương.

– Cảm nhận: Yêu thương, giúp đỡ người khác tức là yêu mến Chúa.

– Hành động: Tiếp đãi khách với lòng yêu thương.

IV. PHẦN ĐỀ NGHỊ TRONG GIỜ DẠY BÀI.

A. SINH HOẠT ĐẦU GIỜ.

* Trò chơi: DỌN CHỖ ĐÓN KHÁCH.

– Rèn luyện: Phán đoán, vận dụng trí nhớ.

– Cách chơi: Người hướng dẫn (NHD) để ra giữa vòng tròn 2 chiếc ghế, cách nhau khoảng 2m; đặt chiếc hộp đựng dép trước 2 chiếc ghế, cách khoảng 3m. Chọn hai em rồi cho 2 em đã được chọn nhìn thật kỹ vị trí chiếc hộp để dép và vị trí chiếc ghế của mình. Sau đó, bịt mắt 2 em nầy lại. NHD cho lịnh bắt đầu. Mỗi em tìm đến chỗ đựng dép, lấy một chiếc, đi về ghế của mình, kê vào một chân ghế, rồi lại đi lấy chiếc dép thứ hai, kê vào chân thứ hai… Cứ như thế, em nào làm nhanh nhất và kê đủ 4 chân ghế thì thắng. Những em chung quanh vỗ tay lớn khi bạn đến gần chiếc hộp đựng dép hoặc chiếc ghế, còn ở xa thì vỗ tay nhỏ để bạn có thể đoán được.

Sau đó giáo viên nhấn mạnh sự dạy dỗ: “Các em thấy hai bạn của mình đã kê ghế, dọn chỗ đón khách đến, chắc là khách sẽ rất vui và Chúa cũng đẹp lòng vì Ngài dạy chúng ta phải vui vẻ, hết lòng đón khách như vậy”.

B. BÀI HỌC KINH THÁNH.

    1. Vào bài.

Các em thân mến, có khi nào họ hàng đến chơi và ở lại nhà của các em chưa? Các em có giúp mẹ rót nước mời khách không? Có lễ phép với khách không? Nếu có bạn nhỏ nào bằng các em đến chơi, các em có vui vẻ, cho bạn cùng chơi đồ chơi với mình không? Hôm nay cô (thầy) kể cho các em nghe về gia đình nầy, các em xem họ tiếp khách như thế nào nhé.

    2. Bài học.

Tại làng kia tên là Su-nem, có một gia đình chỉ có hai vợ chồng. Hai ông bà rất kính yêu Chúa và rất yêu quí những người hầu việc Ngài.

Một hôm, có một người tiên tri tên là Ê-li-sê đến làng Su-nem để giảng lời Chúa. Sau khi giảng xong, hai ông bà nầy chào tiên tri Ê-li và nói: “Chúng tôi rất vui được mời ông về nhà dùng cơm”. Ê-li-sê thấy họ vui vẻ mời với tấm lòng thành, cho nên bằng lòng đến.

Từ đó trở đi, Ê-li-sê mỗi lần đến giảng lời Chúa tại làng nầy, đều được gia đình đó mời về nhà dùng cơm, nghỉ ngơi. Một hôm, bà nói với chồng: “Ông Ê-li-sê là người của Chúa. Tôi nghĩ rằng mình nên làm một căn phòng ở trên cao, để mỗi lần đến đây thì ông ấy có chỗ nghỉ ngơi và chuẩn bị công việc”. Chồng của bà thấy ý đó thật hay, nên ông liền chuẩn bị cho thợ cất một căn phòng. Những người thợ bắt đầu cưa gỗ (giáo viên diễn tư thế cưa gỗ), rồi lấy búa ra đóng đinh (diễn tư thế dùng búa đóng đinh)… Ai nấy nhanh chóng lo phần việc của mình và chẳng bao lâu, căn phòng đã được cất xong. Ông gọi vợ: “Bà ơi, lên mà xem”. Bà tấm tắc khen: “Căn phòng đẹp thật!”.

Thế rồi ông bà dọn dẹp phòng thật sạch sẽ, đặt vào đó một cái giường, một cái bàn, một cái ghế, một cây đèn. Hai ông bà cảm thấy vui vẻ vì đã làm một điều tốt cho tiên tri của Chúa.

Khi Ê-li-sê đến, ông ngạc nhiên, vui mừng và nói: “Hai ông bà tốt quá, đã lo cho tôi có một chỗ ở thật dễ chịu, thoải mái. Tôi rất cảm ơn ông bà”. Ê-li-sê nói tiếp: “Ông bà muốn tôi làm điều chi để báo đáp tấm lòng của ông bà?” “Chúng tôi chỉ làm việc cần phải làm cho người hầu việc Chúa thôi mà”.

    3. Ứng dụng.

Các em ạ, chúng ta học được nơi hai ông bà nầy là phải tiếp đãi người hầu việc Chúa với lòng yêu thương, vì họ làm việc cho Chúa, đi khắp nơi rao giảng lời Chúa cho chúng ta. Nếu không có họ, chúng ta khó biết Chúa để tin nhận Ngài và khó có thể hiểu được lời Chúa để làm theo. Vì thế, tiếp đãi họ cách tử tế, đầy lòng yêu thương là điều Chúa đã dạy và Ngài rất vui khi chúng ta làm điều đó.